Xử lý kỷ luật viên chức quản lý tại các cơ sở giáo dục đại học công lập
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
XỬ Lý KỶ LUẬT VIÊN CHỨC QUảN Lý
TẠI CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
Thái Thị Tuyết Dung
TS.-Phó-Giám-đốc-Trung-tâm-Đào-tạo-trực-tuyến,-Đại-học-Luật-Tp.-Hồ-Chí-Minh.
Thông tin bài viết:
Tóm tắt:
Từ khóa: Xử lý kỷ luật viên chức, viên
chức quản lý, cơ sở giáo dục đại học
công lập.
Xử lý kỷ luật được xem là một giải pháp hữu hiệu trong công tác
đấu tranh phòng, chống các vi phạm kỷ luật của viên chức nhằm
duy trì trật tự và bảo đảm hiệu quả hoạt động của đơn vị. Tuy nhiên,
sự thay đổi của pháp luật đã làm phát sinh các vấn đề pháp lý phức
tạp liên quan đến việc xử lý kỷ luật viên chức. Trong phạm vi bài
viết này, tác giả phân tích một số khía cạnh pháp lý về việc xử lý
kỷ luật viên chức quản lý tại các cơ sở giáo dục đại học công lập
và chỉ ra một số bất cập cần hoàn thiện.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 12/12/2020
: 17/12/2020
: 20/12/2020
Abstract:
Article Infomation:
Disciplinary is considered an effective solution in the fight against
and prevention of disciplinary violations of public employees to
maintain ordered arrangements and ensure the operational
efficiency of the entity. However, the change in legal regulations
has created complicated legal issues related to the disciplinary to
managerial public employees. This article provides analysis of
some legal aspects of the disciplinary of managerial public
employees in public higher education institutions.
Key words: Disciplinary, public
employee, managerial public employee,
public higher education institutions.
Article History:
Received
Edited
: 12 Dec. 2020
: 17 Dec. 2020
: 20 Dec. 2020
Approved
uật Giáo dục đại học năm 2012 đã
được sửa đổi, bổ sung một số điều
lý của viên chức quản lý trong các đơn vị
này khiến cho việc áp dụng pháp luật gặp
một số vấn đề phát sinh, đặc biệt đối với
trường hợp xử lý kỷ luật viên chức quản lý,
thể hiện ở các điểm sau đây:
1. Lựa chọn quy định của pháp luật để áp
dụng xử lý kỷ luật
Luật Cán bộ, công chức quy định Hiệu
trưởng các cơ sở giáo dục đại học công lập
là công chức1. Tuy nhiên, kể từ ngày
Lnăm 2018 (Luật Giáo dục đại học) và
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã được
sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019 (Luật
Cán bộ công chức), Luật Viên chức năm
2010 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều
năm 2019 (Luật Viên chức) có nhiều thay
đổi quan trọng về tổ chức và hoạt động của
các cơ sở giáo dục đại học công lập, trong
đó có những quy định mới về tư cách pháp
1 Khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân
mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây
gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
29
Số 24 (424) - T12/2020
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
01/01/2020 khi Luật Viên chức đã được sửa
đổi, bổ sung một số điều năm 2019 có hiệu
lực thi hành, chủ thể này sẽ không còn là
công chức và sẽ chuyển thành viên chức.
Điều đáng nói là mặc dù đã có sự thay đổi
về tư cách pháp lý nhưng việc áp dụng các
quy định của pháp luật để xử lý kỷ luật đối
với Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục đại học
công lập phải tùy thuộc vào từng trường hợp
nhất định chứ không mặc nhiên áp dụng các
quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật đối
với viên chức để áp dụng.
để tiến hành xử lý kỷ luật. Trong trường hợp
thời hạn kéo dài nhiệm kỳ Hiệu trưởng kết
thúc trước khi tiến hành xử lý kỷ luật thì
đương nhiên áp dụng các quy định xử lý kỷ
luật về viên chức.
- Nếu Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục
đại học công lập được kéo dài nhiệm kỳ sau
thời điểm Nghị định số 99 có hiệu lực và có
hành vi vi phạm được xem xét, xử lý trước
ngày 20/9/20202 thì áp dụng quy định của
Nghị định số 27/2012/NĐ-CP (Nghị định số
27) quy định xử lý kỷ luật đối với viên chức
để tiến hành xử lý kỷ luật.
Điều 85 Luật Cán bộ, công chức quy
định: “Người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý
trong đơn vị sự nghiệp công lập được xác
định là công chức theo quy định của Luật
Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 và các
văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành mà không còn là công chức theo quy
định của Luật này và không thuộc trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 84 của Luật
này thì tiếp tục thực hiện chế độ, chính sách
và áp dụng các quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức cho đến hết thời hạn bổ nhiệm
giữ chức vụ đang đảm nhiệm”. Do vậy, việc
lựa chọn pháp luật để áp dụng khi xử lý kỷ
luật đối với Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục
đại học công lập được xác định như sau:
- Nếu Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục
đại học công lập có quyết định kéo dài
nhiệm kỳ trước ngày Nghị định số
99/2019/NĐ-CP (Nghị định số 99) quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Giáo dục đại học có hiệu lực (trước
ngày 15/02/2020) thì tiếp tục thực hiện chế
độ, chính sách và áp dụng các quy định của
pháp luật về công chức cho đến hết thời hạn
bổ nhiệm giữ chức vụ đang đảm nhiệm.
Nghĩa là nếu Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục
đại học công lập vi phạm kỷ luật trong thời
gian này thì sẽ áp dụng quy định của Nghị
định số 34/2011/NĐ-CP (Nghị định số 34)
quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức
- Nếu Hiệu trưởng được Hội đồng
trường bầu sau thời điểm Nghị định số 99 có
hiệu lực thi hành thì áp dụng các quy định
về viên chức để tiến hành xử lý kỷ luật; theo
đó, người có thẩm quyền sẽ áp dụng Nghị
định số 27 để xử lý kỷ luật (nếu vi phạm
trước ngày 20/9/2020)2 và sẽ áp dụng Nghị
định số 112/2020/NĐ-CP (Nghị định số 112)
để tiến hành xử lý kỷ luật (nếu vi phạm từ
ngày 20/9/2020).
Như vậy, có thể thấy rằng, để áp dụng
chính xác các quy định của pháp luật khi xử
lý kỷ luật đối với Hiệu trưởng các cơ sở giáo
dục đại học công lập trong giai đoạn chuyển
tiếp giữa các quy định của pháp luật cũ và
mới về công chức và viên chức, đòi hỏi
người có thẩm quyền phải căn cứ vào thời
điểm xem xét xử lý kỷ luật và các văn bản
kéo dài nhiệm kỳ Hiệu trưởng (nếu có). Nếu
không chú ý đến vấn đề này thì việc áp dụng
sai các quy định của pháp luật khi xử lý kỷ
luật Hiệu trưởng trong những tình huống nêu
trên là hoàn toàn có thể xảy ra trong thực tế.
2. Thẩm quyền xử lý kỷ luật
Trong thời gian gần đây, tranh luận liên
quan đến thẩm quyền xử lý kỷ luật Hiệu
trưởng cơ sở giáo dục đại học công lập gây
xôn xao dư luận trên diễn đàn của Quốc hội,
hình thành 2 quan điểm: (i) Thẩm quyền xử
lý kỷ luật thuộc về Hội đồng trường; (ii)
Thẩm quyền xử lý kỷ luật thuộc về cơ quan
2 Đây là ngày Nghị định số 112/2020/NĐ-CP quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức có hiệu
lực thi hành và thay thế Nghị định số 27/2012/NĐ-CP.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
30
Số 24 (424) - T12/2020
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
chủ quản của cơ sở giáo dục đại học công
lập3. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật
hiện hành, chúng tôi cho rằng, thẩm quyền
xử lý kỷ luật đối với Hiệu trưởng cơ sở giáo
dục đại học công lập thuộc về cơ quan chủ
quản của cơ sở giáo dục đại học công lập đó
vì các lý do sau:
đó, Hội đồng trường bầu Hiệu trưởng nhiệm
kỳ mới. Vấn đề đặt ra là trong trường hợp có
sự “thỏa hiệp” chặt chẽ giữa Hiệu trưởng và
đa số thành viên của Hội đồng trường thì tổ
chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại
học công lập có khả năng sẽ bị kiểm soát bởi
một nhóm điều hành. Trong trường hợp việc
kiểm soát này diễn tiến theo chiều hướng
tiêu cực nhằm “thâu tóm” lợi ích của cơ sở
giáo dục đại học công lập thì việc Nhà nước
(nhất là các cơ quan chủ quản) muốn tác
động để can thiệp vào vòng tròn khép kín
này là điều rất khó thực hiện. Vì thế, việc
quy định một cách rõ ràng cơ quan chủ quản
có thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với Hiệu
trưởng cơ sở giáo dục đại học công lập là
việc làm rất cần thiết để có cơ chế kiểm soát
hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học
công lập, đặc biệt là chức danh Hiệu trưởng
và Hội đồng trường.
Hai là, từ ngày 01/7/2020, tất cả các
Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục đại học công
lập đều trở thành viên chức nên việc xử lý
kỷ luật phải áp dụng quy định của Luật Viên
chức và các văn bản liên quan, không phải
áp dụng Luật Giáo dục đại học như nhiều ý
kiến trước đó4. Ở đây cũng cần lưu ý rằng,
cách chức là hình thức kỷ luật (như khiển
trách, cảnh cáo…) có hậu quả pháp lý khác
hoàn toàn với hình thức bãi nhiệm, miễn
nhiệm nên không thể xếp loại cùng nhau.
Thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với viên
chức được xác định rõ tại khoản 1 Điều 14
Nghị định số 27 (người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm tiến
hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức
kỷ luật); Điều 31 Nghị định số 112 (đối với
viên chức giữ chức vụ, chức danh do bầu cử
thì cấp có thẩm quyền phê chuẩn, quyết định
công nhận kết quả bầu cử tiến hành xử lý kỷ
luật và quyết định hình thức kỷ luật). Vì vậy,
thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với Hiệu
trưởng cơ sở giáo dục đại học công lập
Một là, Điều 16 Luật Giáo dục đại học
quy định: “Hội đồng trường trình cơ quan
quản lý có thẩm quyền ra quyết định công
nhận, bãi nhiệm, miễn nhiệm Hiệu trưởng
trường đại học”; Điều 8 Nghị đinh số 99
cũng khẳng định, sau khi gửi tờ trình đề nghị
công nhận Hiệu trưởng tới cơ quan quản lý
trực tiếp, nếu cơ quan chủ quản không đồng
ý, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Như vậy, theo tinh thần Luật Giáo dục đại
học và Nghị định số 99, chức danh Hiệu
trưởng các cơ sở giáo dục đại học công lập
sẽ hoạt động theo nguyên tắc “song trùng
trực thuộc”. Điều này có nghĩa là, một ứng
cử viên sau khi được Hội đồng trường bầu
làm Hiệu trưởng cần phải được sự công nhận
(bổ nhiệm) của cơ quan chủ quản mới trở
thành Hiệu trưởng. Nói cách khác, việc Hội
đồng trường “quyết định” chức danh Hiệu
trưởng chỉ là điều kiện cần, còn việc công
nhận của cơ quan chủ quản sẽ trở thành điều
kiện đủ để một người trở thành Hiệu trưởng
của cơ sở giáo dục đại học công lập.
Bên cạnh đó, Luật Giáo dục đại học
cũng quy định Hội đồng trường không được
bãi nhiệm, miễn nhiệm Hiệu trưởng, mà
quyền quyết định thuộc cơ quan quản lý trực
tiếp (tức là cơ quan chủ quản của cơ sở giáo
dục đại học công lập). Đây là một quy định
phù hợp với bối cảnh nước ta hiện nay, nhằm
tránh tình trạng “nhóm lợi ích” chi phối các
cơ sở giáo dục công lập. Thực tế cho thấy,
công tác dự kiến nhân sự Hội đồng trường
chủ yếu do Ban Giám hiệu đề xuất (trong đó
ý kiến của Hiệu trưởng hoặc Hiệu phó phụ
trách của Ban Giám hiệu nhiệm kỹ cũ); sau
3 NgọcAn – Lê Kiên, “Tranh luận nảy lửa vụ kỷ luật hiệu trưởng ĐH Tôn Đức Thắng”, https://tuoitre.vn/tranh-
luan-nay-lua-vu-ky-luat-hieu-truong-dh-ton-duc-thang-20201106113446369.htm, truy cập ngày 25/11/2020.
4 Ngay kể cả các Luật này có khác nhau về cùng một vấn đề thì theo quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 phải áp dụng văn bản ban hành sau, tức áp dụng Luật Viên
chức vì Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi, bổ sung) ban hành 09/11/2018, Luật Viên chức (sửa đổi, bổ sung)
ban hành 25/11/2019.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
31
Số 24 (424) - T12/2020
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
đương nhiên thuộc về cơ quan chủ quản, kể
cả trong trường hợp các cơ sở giáo dục đại
học công lập đã thành lập Hội đồng trường.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, pháp
luật hiện hành đã quy định rõ cơ quan chủ
quản không chỉ có quyền công nhận, bãi
nhiệm, miễn nhiệm Hiệu trưởng, mà còn có
quyền xử lý kỷ luật đối với Hiệu trưởng các
cơ sở giáo dục đại học công lập.
3. Việc xử lý kỷ luật trong trường hợp kéo
dài thời hạn quản lý, không tuân thủ tiêu
chí của Chủ tịch Hội đồng trường, Hiệu
trưởng của các cơ sở giáo dục đại học
công lập trong các trường tự chủ
Thời gian gần đây, vẫn còn tình trạng
một số người đang giữ các chức danh Chủ
tịch Hội đồng trường và Hiệu trưởng trong
các cơ sở giáo dục đại học công lập tuy đã
hết tuổi để giữ chức vụ hoặc đã giữ chức vụ
quá hai nhiệm kỳ vẫn không muốn từ nhiệm
mà dựa vào cơ chế “tự chủ” để tiếp tục giữ
chức vụ, điều này gây bất ổn cho hoạt động
của các cơ sở giáo dục đại học công lập, và
kéo theo hệ lụy là nhiều cơ sở giáo dục đại
học gặp rất nhiều khó khăn trong việc sắp
xếp nhân sự. Mặc dù có nhiều ý kiến ủng hộ
quan điểm trên với quan niệm rằng, việc
không giới hạn độ tuổi đối với hai chức danh
Chủ tịch Hội đồng trường và Hiệu trưởng
trong các cơ sở giáo dục đại học công lập
nhằm khuyến khích những người có năng
lực tiếp tục lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại
học công lập. Tuy nhiên, tất cả các quan
điểm trên cũng chỉ là các ý kiến cá nhân, và
chúng ta cần phải thừa nhận rằng cơ chế
quản lý của cơ sở giáo dục đại học công lập
và cơ sở giáo dục đại học tư thục là hoàn
toàn khác nhau. Nói cách khác, cơ chế tự chủ
của các cơ sở giáo dục đại học công lập
không thể đồng nhất với cơ chế tự chủ của
các cơ sở giáo dục đại học tư thục. Vì vậy,
việc lựa chọn các nhân sự lãnh đạo của cơ
sở giáo dục đại học công lập vẫn phải tuân
thủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp
luật về viên chức.
tịch Hội đồng trường theo quy định của
pháp luật”. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có một
số cơ sở giáo dục đại học công lập được mở
rộng quyền tự chủ nhân sự theo Nghị quyết
số 39/NQ-CP ngày 11/6/2019 của Chính
phủ, tức là cho phép tăng độ tuổi của Chủ
tịch Hội đồng trường trong giai đoạn 2019-
2023 (bao gồm các trường: Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, Trường Đại học Kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh) được thí điểm áp dụng
tuổi nghỉ hưu cao hơn (không quá 65 đối với
nam và 60 đối với nữ) đối với Chủ tịch Hội
đồng trường để khuyến khích người có phẩm
chất chính trị, đạo đức tốt, có uy tín, có kinh
nghiệm quản lý giáo dục đại học, có đủ sức
khỏe, tự nguyện thực hiện nhiệm vụ, tham
gia Hội đồng trường để được bầu làm Chủ
tịch Hội đồng trường nhằm nâng cao hiệu
lực và hiệu quả của Hội đồng trường. Vì vậy,
ngoại trừ 03 cơ sở giáo dục đại học nêu trên,
cá nhân nào không còn đủ tuổi thì không
được đưa vào nhân sự để bầu Chủ tịch Hội
đồng trường ở các cơ sở giáo dục đại học
công lập dù có theo mô hình mở rộng tự chủ
hay không.
Về tiêu chuẩn chức danh Hiệu trưởng cơ
sở giáo dục đại học công lập, khoản 2 Điều
20 Luật Giáo dục đại học quy định Hiệu
trưởng cơ sở giáo dục đại học công lập phải
có trình độ tiến sĩ, có đủ sức khỏe để thực
hiện nhiệm vụ, có uy tín khoa học và kinh
nghiệm quản lý giáo dục đại học; độ tuổi
đảm nhiệm chức vụ hiệu trưởng cơ sở giáo
dục đại học công lập theo quy định của pháp
luật và đáp ứng tiêu chuẩn cụ thể của hiệu
trưởng cơ sở giáo dục đại học được quy định
trong quy chế tổ chức và hoạt động của cơ
sở giáo dục đại học (nếu có).
Hơn nữa, Điều 43 Nghị định số
115/2020/NĐ-CP quy định về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý viên chức (có hiệu lực từ
ngày 29/9/2020) xác định thời hạn viên chức
giữ một chức vụ quản lý không quá hai
nhiệm kỳ liên tiếp (mỗi nhiệm kỳ tối đa 5
năm) được thực hiện theo quy định của pháp
luật chuyên ngành. Do đó, các cá nhân đã
quá tuổi hoặc đã giữ chức vụ quản lý quá 02
Về tiêu chuẩn chức danh Chủ tịch Hội
đồng trường, Điều 16 Luật Giáo dục đại học
quy định: “Độ tuổi đảm nhiệm chức vụ Chủ
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
32
Số 24 (424) - T12/2020
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
nhiệm kỳ thì không được bầu làm Chủ tịch
Hội đồng trường hay Hiệu trưởng.
đồng trường có quyền bãi nhiệm, miễn
nhiệm nhưng không được quyền xử lý kỷ
luật vì pháp luật không quy định thẩm quyền
này. Trong khi đó, nếu Chủ tịch Hội đồng
trường, thư ký Hội đồng trường và các thành
viên vi phạm pháp luật đến mức bị xử lý kỷ
luật thì Hội đồng trường không có quyền áp
dụng hình thức xử lý kỷ luật mà phải do cơ
quan chủ quản xử lý.
Ví dụ: Phó Hiệu trưởng trường Đại học
A thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo do vi phạm
pháp luật nghiêm trọng, bị Hội đồng trường
ra Nghị quyết bãi nhiệm chức vụ theo điểm
d khoản 2 Điều 16 Luật Giáo dục Đại học
năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018),
nhưng nếu vi phạm ở mức độ cảnh cáo,
khiển trách thì Hội đồng trường không có
thẩm quyền này. Trong trường hợp này, cơ
quan chủ quản là Bộ Giáo dục và đào tạo
cũng không có quyền áp dụng hình thức xử
lý kỷ luật vì chức danh Phó hiệu trưởng
không thuộc nhóm chức danh do cơ quan
chủ quản phê chuẩn, công nhận. Do đó, cần
phải bổ sung quy định về chủ thể có thẩm
quyền xử lý kỷ luật đối với chức danh Phó
Hiệu trưởng của các cơ sở giáo dục đại học
công lập để có cơ sở thực hiện trong thời
gian tới.
Hai là, về bản chất của hình thức “bãi
nhiệm”, theo quy định của Luật Giáo dục đại
học, bãi nhiệm không được xác định là một
hình thức kỷ luật hành chính, do vậy việc bãi
nhiệm người giữ chức danh do Hội đồng
trường bầu không phải là một hình thức kỷ
luật hành chính mà là thẩm quyền quyết định
nhân sự. Bãi nhiệm (chấm dứt việc thực hiện
nhiệm vụ khi chưa hết nhiệm kỳ) bản chất là
việc Hội đồng trường thể hiện quyền bất tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do mình
bầu. Trong khi đó, các quy định về xử lý kỷ
luật viên chức hiện hành chưa có quy định
về hình thức kỷ luật bãi nhiệm đối với các
viên chức quản lý do Hội đồng trường bầu.
Do đó, yêu cầu xác định rõ bản chất pháp lý
của hình thức “bãi nhiệm” để áp dụng khi xử
lý vi phạm đối với viên chức quản lý do Hội
đồng trường bầu là vấn đề cấp thiết cần phải
Những phân tích trên cho thấy, với
những cá nhân cố tình kéo dài thời hạn quản
lý, không tuân thủ pháp luật, không tuân thủ
sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản, không chịu
tổ chức nhân sự theo quy định của pháp luật
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm theo
quy định từ Điều 16 đến Điều 19 Nghị định
112 sẽ bị xem xét xử lý kỷ luật.
4. Hình thức kỷ luật đối với các chức danh
do Hội đồng trường bầu
Pháp luật hiện hành liên quan đến vấn
đề xử lý kỷ luật đối với những người giữ
chức vụ do Hội đồng trường bầu có thể được
chia thành hai nhóm sau:
(i) Nhóm văn bản pháp luật về viên chức
gồm Luật Viên chức và Nghị định số 112.
Các văn bản này quy định các hình thức kỷ
luật đối với viên chức quản lý bao
gồm: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, buộc
thôi việc.
(ii) Nhóm văn bản pháp luật chuyên
ngành về giáo dục gồm Luật Giáo dục đại
học, Nghị định số 99. Tuy nhiên, các văn bản
này không đề cập trực tiếp đến việc “xử lý
kỷ luật” đối với người giữ chức vụ do Hội
đồng trường bầu mà chỉ đề cập đến việc bãi
nhiệm, miễn nhiệm theo thẩm quyền của Hội
đồng trường hoặc cơ quan chủ quản của cơ
sở giáo dục đại học công lập.
Với quy định hiện nay, việc miễn nhiệm,
bãi nhiệm được thực hiện đối với tất cả những
người giữ chức vụ do Hội đồng trường bầu
và được thực hiện theo ý chí tập thể. Việc
miễn nhiệm, bãi nhiệm được tiếp cận dưới
góc độ là thẩm quyền của Hội đồng trường -
đơn vị bầu ra các chức danh này chứ không
phải là một hình thức kỷ luật đối với người
giữ chức vụ do Hội đồng trường bầu. So sánh
các quy định của pháp luật về tổ chức nhân
sự và về xử lý kỷ luật đối với những người
giữ chức vụ do Hội đồng trường bầu cho thấy
một số vấn đề đặt ra sau đây:
Một là, chủ thể nào xử lý kỷ luật đối với
người giữ chức vụ do Hội đồng trường bầu
như Phó Hiệu trưởng. Hiện nay, các Phó
Hiệu trưởng do Hội đồng trường bầu, Hội
giải quyết trong thời gian tới
n
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
33
Số 24 (424) - T12/2020
Bạn đang xem tài liệu "Xử lý kỷ luật viên chức quản lý tại các cơ sở giáo dục đại học công lập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- xu_ly_ky_luat_vien_chuc_quan_ly_tai_cac_co_so_giao_duc_dai_h.pdf