Vai trò của VABB trong xử lý tổn thương dạng nhú của vú
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
VAI TRÒ CỦA VABB TRONG XỬ LÝ TỔN THƯƠNG DẠNG NHÚ CỦA VÚ
1
2
3
4
TRẦN VIỆT THẾ PHƯƠNG , HÀ CHÍ ĐỘ , NGUYỄN ANH LUÂN , LÊ HỒNG CÚC ,
5
6
NGUYỄN ĐỖ THÙY GIANG , TRẦN NGUYỄN MINH HUY
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tổn thương dạng nhú của vú là loại bệnh lý không thường gặp nhưng chẩn đoán tương
đối khó khăn. Một khuynh hướng hiện nay là sử dụng VABB để sinh thiết trọn tổn thương, vừa là chẩn
đoán, vừa là để điều trị trong trường hợp lành tính. Nghiên cứu về nhóm bệnh lý này về đặc điểm lâm
sàng, cận lâm sàng, vai trò của VABB là điều cần thiết.
Phương pháp nghiên cứu: Các trường hợp tổn thương vú được chẩn đoán là tổn thương dạng nhú
bằng FNA và được lấy bướu bằng VABB được khảo sát về các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, giải
phẫu bệnh, kỹ thuật VABB và biến chứng.
Kết quả: Có 41 trường hợp tổn thương vú có kết quả FNA là tổn thương dạng nhú và được lấy trọn
bằng VABB tại bệnh viện Ung Bướu từ 1/2018 đến 6/2020. Tuổi trung bình là 41,7 (21 - 62), vị trí trung
tâm là 23 (56,1%), đơn ổ ở trung tâm nhiều hơn ngoại vi (p < 0,05). Siêu âm có kết quả nghĩ là tổn thương
dạng nhú là 75,6%, nhũ ảnh có 9 trường hợp là BIRADS 4 (26,5%), Kết quả giải phẫu bệnh sau thủ thuật
có 27 (65,9%) là bướu nhú, thay đổi sợi bọc (31,7%), bướu sợi tuyến (2,4%). Tất cả đều được lấy trọn
bằng VABB, các biến chứng gồm có bầm máu (85,4%), tụ dịch (12,2%), tụ máu (2,4%).
Kết luận: Chẩn đoán tổn thương dạng nhú ở vú bằng FNA kết hợp với các phương tiện lâm sàng -
hình ảnh học có giá trị trong thực hành tại Việt Nam. VABB là một phương tiện đáng tin cậy để xử lý các
tổn thương dạng nhú ở vú hiệu quả và an toàn.
đây, VABB là phương pháp được chọn lựa khác để
lấy trọn các tổn thương vú mà ít xâm lấn hơn. Do đó,
nghiên cứu vai trò của VABB trong xử lý các tổn
thương dạng nhú được chẩn đoán bằng FNA của vú
là một vấn đề được nhiều người quan tâm.
GIỚI THIỆU
Trong các bệnh lý của tuyến vú, tổn thương
dạng nhú gặp không nhiều nhưng được xếp vào
vùng xám của chẩn đoán do đây là một nhóm tuy có
cùng chung đặc điểm tạo nhú nhưng lại gồm nhiều
thực thể khác biệt nhau đi từ lành tính đến ác tính:
Có thể là bướu nhú trong ống, carcinôm nhú, hay
thay đổi sợi bọc.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi chọn tất cả những bệnh nhân có tổn
thương ở vú và có kết quả FNA là tổn thương dạng
nhú được xử lý bằng VABB tại bệnh viện Ung Bướu
TP. HCM từ 01/01/2018 đến 31/06/2020. Mục đích
của nghiên cứu là đánh giá kết các đặc tính lâm
sàng, cận lâm sàng của các tổn thương này, kết quả
điều trị bằng VABB về mặt kỹ thuật, biến chứng,
và các dạng giải phẫu bệnh sau khi đã được sinh
thiết trọn.
Ở các nước phát triển, sau khi phát hiện một
tổn thương của vú bằng lâm sàng và hình ảnh, bước
tiếp theo thường là sinh thiết lõi kim. Trong thực tế
tại Việt Nam, chẩn đoán ban đầu của các bệnh lý
tuyến vú thường là FNA. Sau khi có kết quả FNA là
tổn thương dạng nhú, trước đây các nhà lâm sàng
thường chọn lựa phương pháp sinh thiết trọn tổn
thương để có giải phẫu bệnh. Trong vài năm gần
Ngày nhận bài: 09/10/2020
Ngày phản biện: 03/11/2020
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020
Địa chỉ liên hệ: Trần Việt Thế Phương
Email: tvtphuong68@gmail.com
1 TS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại tuyến vú - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
2 BSCKI. XLNV Phó Trưởng Khoa Tầm soát ung thư - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
3 BSCKII. Trưởng Khoa Ngoại tuyến vú - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
4 BSCKII. Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
5 ThS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại tuyến vú - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
6 BSCKII. Trưởng Khoa Tầm soát ung thư - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
389
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
Các bệnh nhân có tổn thương ở vú được khám
lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh bằng siêu âm và/
hoặc nhũ ảnh. Sau đó được làm FNA và nếu FNA có
kết quả là tổn thương dạng nhú và bệnh nhân đồng
ý lấy tổn thương bằng VABB sẽ được đưa vào
nghiên cứu. VABB được thực hiện bằng máy
Mammotome hay Hologic, kim sử dụng là kim 8G
hay 10G (Mammotome) hay 9G (Hologic). Kim 10G
được chỉ định khi tổn thương nhỏ hơn 1,5cm. Các
bướu có kích thước lớn hơn 1,5cm được sử dụng
kim 8G hay 9G.
Tổng số
41
100,0
Tiết dịch hoặc tiết máu núm vú là triệu chứng
thường gặp nhất (22 bệnh nhân chiếm 53,7%).
Sau khi lấy bướu bằng VABB thì tất cả bệnh
nhân đều không còn triệu chứng tiết dịch núm vú.
Vị trí tổn thương
Bảng 4. Vị trí
Vị trí
Số ca
23
Tỉ lệ %
56,1
KẾT QUẢ
Trung tâm
Ngoại vi
18
43,9
Từ 01/01/2018 đến 31/06/2020 có 41 bệnh
nhân được làm FNA và có kết quả là tổn thương
dạng nhú được điều trị bằng VABB được chúng tôi
ghi nhận và thu thập vào mẫu nghiên cứu.
Tổng số
41
100,0
Bảng 5. Mối tương quan giữa số lượng bướu
Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng và cận lâm sàng
và vị trí bướu
Tuổi
Số lượng bướu
Khi phân lớp bệnh nhân lớn tuổi và trẻ tuổi:
Vi trí tổn
thương
Tổng
số
P < 0.005
Đơn ổ
Không
đơn ổ
Bảng 1. Bảng phân độ tuổi ≥40
Trung tâm
Ngoại vi
Tổng số
4
2
19
16
25
23
18
41
Độ tuổi
< 40
Số ca
14
Tỉ lệ %
34,1
0,00119
16
≥40
27
65,9
Nhận xét: Đa số bệnh nhân có tổn thương dạng
nhú đi khám đều có khối u vùng trung tâm (vùng
núm vú quầng vú) 23 bệnh nhân chiếm 56,1%.
Tổng số
41
100,0
Tuổi trung bình 41,7 (21 - 62) tuổi, nhóm tuổi
41 - 50 chiếm tỉ lệ nhiều nhất có 26 ca chiếm 63,4%.
Tổn thương dạng nhú đơn ổ thường ở trung
tâm và tổn thương dạng nhú đa ổ thường ở ngoại vi
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,005).
Phân bố nơi cư trú
Bảng 2. Bảng phân bố nơi cư trú
Số lượng tổn thương dạng nhú
Nơi cư trú
Thành phố
Tỉnh thành
Tổng số
Số ca
14
Tỉ lệ %
34,1
Bảng 6. Số lượng tổn thương dạng nhú
27
65,9
Số lượng u nhú
Số ca
16
10
9
Tỉ lệ %
39,0
24,4
22,0
9,8
41
100,0
1
2
Phần lớn bệnh nhân cư trú ở các Tỉnh (65,9%)
so với ở Thành Phố Hồ Chí Minh (34,1%).
3
4
5
4
Đặc điểm lâm sàng
2
4,9
Triệu chứng lâm sàng
Tổng số
41
100,0
Bảng 3. Triệu chứng lâm sàng bệnh nhân đến khám
Đa số bệnh nhân đi khám có ít 1 tổn thương.
Đặc điểm cận lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng
Tình cờ
Số ca Tỉ lệ %
10
3
24,4
7,3
Kết quả siêu âm tuyến vú
Đau vú
Tiết dịch /tiết máu núm vú
Sờ thấy u
22
6
53,7
14,6
Bảng 7. Kết quả siêu âm tuyến vú
Kết quả siêu âm
Số ca Tỉ lệ %
390
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
Bướu sợi tuyến
Bướu nhú
4
31
1
9,8
75,6
2,4
Tổng số
41
100,0
Bướu nhú chiếm đa số 27/41 trường hợp
(65,9%), sau đó là thay đổi sợi bọc (31,7%).
Thay đổi sợi bọc
Không điển hình lành tính
Nghi ngờ ung thư
Không rõ bản chất
Tổng số
2
4,9
Biến chứng sau VABB
2
4,9
Bảng 11. Biến chứng sau thủ thuật VABB
1
2,4
Biến chứng sau VABB
Bầm máu
Số ca
35
5
Tỉ lệ %
85,4
41
100,0
Kết quả siêu âm là bướu nhú khá cao (75,6%).
Tụ dịch
Tụ máu
12,2
1
2,4
Bảng 8. Kích thước tổn thương trên siêu âm
Tổng số
41
100.0
Kích thước
≤ 10mm
Số ca
14
Tỉ lệ %
34,1
Biến chứng gặp nhiều nhất là bầm máu ở da
với 35/41 trường hợp 85,4%.
11 - 20mm
21 - 30mm
Tổng số
23
56,1
BÀN LUẬN
4
9,8
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 41 bệnh
nhân được đưa vào nghiên cứu, tuổi trung bình
thường gặp 41,7 tuổi (21 - 62). Tập trung ở đỉnh
41 - 50 tuổi (63,4%). Trong đó nhóm phụ nữ lớn tuổi
≥40 chiếm đa số 27/41 bệnh nhân chiếm 65,9%.
41
100.0
Kích thước trung bình của tổn thương dang nhú
được ghi nhận là 12,3mm.
Kết quả nhũ ảnh
Bảng 9. Kết quả nhũ ảnh
Bảng 12. So sánh về độ tuổi giữa các nghiên cứu
BIRADS
Số ca
Tỉ lệ %
19,5
19,5
22,0
17,1
2,4
Số bệnh nhân
Tuổi trung bình
I
8
8
Chang
Choi
58
233
50
44,6
45,4
52
II
III
9
Yu
IVA
IVB
7
Ahn
234
41
45,3
41,7
1
Chúng tôi
IVC
1
2,4
Tổng số ca làm nhũ ảnh
Không làm nhũ ảnh
Tổng số
34
7
82,9
17,1
100,0
Nghiên cứu hồi cứu của Chang từ tháng 7 -
2007 đến tháng 2 - 2009 trên 4297 bệnh nhân được
thực hiện FNA và xác định đươc 58 bệnh nhân có
tổn thương dạng nhú. Nhóm này có độ tuổi trung
bình 44,6 tuổi. Một nghiên cứu tổng hợp khác của
Choi từ tháng 1 - 2005 đến tháng 9 - 2015, gồm 500
bệnh nhân được chẩn đoán tổn thương dạng nhú
lành tính không kèm tăng sản không điển hình, 206
bệnh nhân được phẫu thuật cắt trọn tổn thương
dạng nhú, 233 bệnh nhân được điều trị bằng VABB,
61 bệnh nhân được theo dõi không xử trí gì thêm.
Trong 233 được điều trị bằng VABB có tuổi trung
bình 45,4, cũng tương đồng với nghiên cứu của
nhóm chúng tôi là 40,6 bệnh nhân. Theo Ahn trên
234 bệnh nhân ở Hàn Quốc để tìm ra bảng điểm tiên
đoán tỉ lệ ác tính của tổn thương dạng nhú ở vú
được chẩn đoán bằng sinh thiết lõi kim, nhóm bệnh
nhân này có độ tuổi trung bình 45,3 tuổi (từ 23 - 81
tuổi).
41
Có 34 trường hợp bệnh nhân được chỉ định
chụp nhũ ảnh, với hình ảnh tổn thương lành tính
Birads (I - III) chiếm phần lớn với 25/34 trường hợp
73,5% tổn thương nghi ngờ ác tính Birads IV với
9/34 trường hợp 26,5%.
Kết quả sau khi thực hiện VABB
Kết quả GPB sau VABB
Bảng 10. Giải phẫu bệnh sau VABB
Giải Phẫu Bệnh
Bướu sợi tuyến
Bướu nhú
Số ca
1
Tỉ lệ %
2,4
27
65,9
31,7
Thay đổi sợi bọc
13
391
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
Mặt khác theo y văn, tổn thương dạng nhú đơn
ổ phát triển từ ống dẫn sữa, thường xuất hiện ở phụ
nữ trung niên từ 30 - 50 tuổi. Đa tổn thương dạng
nhú chiếm khoảng 10% trường hợp tổn thương
dạng nhú. So với tổn thương dạng nhú đơn ổ thì tổn
thương dạng nhú đa ổ thường xuất hiện ở bệnh
nhân trẻ. Còn một dạng tổn thương dạng nhú
thường xảy ra ở bệnh nhân trẻ tuổi hơn được gọi là
tổn thương dạng nhú vị thành niên. Điều này cũng
phù hợp với y văn là tổn thương dạng nhú thường
xuất hiện ở bệnh nhân trẻ < 40 tuổi.
Theo Rizzo trên 63 bệnh nhân ở Atlanta Mỹ có
tổn thương dạng nhú lành thì nhóm bệnh nhân có
tổn thương dạng nhú ở vị trí trung tâm chiếm đa số
60%. Còn theo Kibil Wojciech nghiên trên 76 bệnh
nhân ở Cracow - Ba Lan tổn thương dạng nhú thì
tổn thương dạng nhú ở vị trí trung tâm chiếm đa số
72,3%. Tương tự với nghiên cứu của các nhóm tác
giả trên, nghiên cứu chúng tôi cũng ghi nhận nhóm
tổn thương dạng nhú trung tâm chiếm tỉ lệ 56,1%
nhiều hơn nhóm tổn thương dạng nhú ngoại vi
43,9%. Ngoài ra chúng tôi còn ghi nhận tổn thương
dạng nhú trung tâm thì thường đơn ổ và tổn thương
dạng nhú ngoại vi thường đa ổ.
Bảng 13. So sánh triệu chứng lâm sàng giữa
các nghiên cứu
So với nghiên cứu của tác giả Kibil Wojciech và
cộng sự, chúng tôi nhận thấy có sự tương đồng về
hình ảnh siêu âm, trong đó tổn thương dạng nhú
chiếm tỉ lệ lớn nhất (tương ứng 85,2% và 50,6%)
nang không điển hình (tương ứng 11,1% và 1,3%),
tổn thương không điển hình lành tính (tương ứng
13,7% và 16,9%) chiếm tỉ lệ thấp hơn. Tuy nhiên,
nghiên cứu của chúng tôi có đi sâu hơn về các hình
ảnh khác thấy được trên siêu âm như thay đổi sợi
bọc, viêm - áp-xe, nghi ngờ ung thư, bướu sợi
tuyến.
Chúng
tôi
N = 41
Triệu chứng
lâm sàng
Boufelli
N = 55
Kibil
N = 76
Alice
N = 124
Tình cờ
Đau vú
40%
--
--
--
--
24,4%
7,3%
9,4%
47,1%
Tiết dịch/ máu
núm vú
23,6%
97,4%
--
53,7%
14,6%
Sờ thấy bướu
36,4%
40,6%
Bảng 15. So sánh hình ảnh siêu âm tổn thương
Theo nghiên cứu của Boufelli thì triệu chứng
lâm sàng bệnh nhân đến khám là tình cờ chiếm 40%
còn tiết dịch hoặc máu núm vú chỉ có 23,6%.
dạng nhú của các nghiên cứu
Hình ảnh trên siêu âm
Tổn thương dạng nhú
Nang không điển hình
Kibil
85,2%
11,1%
Chúng tôi
50.6%
Theo Alice Moynihan thì triệu chứng lâm sàng
bệnh nhân đến khám là tiết dịch hoặc chảy máu núm
vú 47,1% còn sờ thấy bướu cũng chiếm số lượng
lớn 40,6%. Còn theo Wojciech Kibil thì ghi nhận tiết
dịch núm vú lên đến 97,4%. Nghiên cứu chúng tôi
khá tương đồng với triệu chứng lâm sàng của 2
nghiên cứu này. Triệu chứng chủ đạo bệnh nhân
đến khám là tiết dịch hoặc máu núm vú chiếm tỉ lệ
53,7%. Điều trên cũng khá phù hợp với y văn, vì
nguyên nhân chủ yếu gây bệnh lý tiết dịch núm vú là
tổn thương dạng nhú lành tính trong ống tuyến vú
(35 48%), giãn ống tuyến vú (17 36%) và
carcinôm (5 21%).
1,3%
Không điển hình lành tính 13,7%
16.9%
So với nghiên cứu của tác giả Choi Hye Young
chúng tôi nhận thấy có sự tương đồng về tỉ lệ tổn
thương bất thường trên nhũ ảnh (tương ứng 24% và
29,8%). Sự tương đồng này do dân số chọn mẫu từ
2 nghiên cứu đều là phụ nữ chủng tộc Châu Á với
độ tuổi từ 40 trở lên chiếm ưu thế.
Mặt khác so với nghiên cứu của Yu trên nhóm
dân châu Úc ở 50 bệnh nhân có tổn thương dạng
nhú lành tính thì bất thường trên nhũ ảnh được ghi
nhận ở 12/50 trường hợp chiếm tỉ lệ 24%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các trường
hợp tiết dịch núm vú đều không còn triệu chứng này
sau khi được lấy tổn thương bằng VABB.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ghi nhận được
14 trường hợp nhũ ảnh Birads 4 - 5 tương ứng
29,8%, trong đó có 3 trường hợp giải phẫu bệnh ác
tính sau VABB. Vai trò của nhũ ảnh trong nghiên
cứu này nhằm mục đích tìm kiếm những tổn thương
kèm theo mà siêu âm không phát hiện được để loại
trừ các trường hợp nghi ác tính, đặc biệt ở dân số
chọn mẫu đa số là phụ nữ từ 40 tuổi trở lên (chiếm
66,2%).
Bảng 14. Vị trí tổn thương dạng nhú của các nghiên
cứu
Rizzo
N = 79
60%
Kibil
N = 76
72,3%
27,7%
Ahn
N = 233
65,2%
34,8%
Chúng tôi
N = 41
Vị trí
Trung tâm
Ngoại vi
56,1%
40%
43,9%
392
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
Bảng 16. So sánh kết quả nhũ ảnh
tôi như: xơ hóa tuyến vú chiếm tỉ lệ 1%, thay đổi tế
bào cột 1%, các tổn thương tăng nguy cơ (sẹo tỏa
tia 1%, tăng sản tiểu thuỳ không điển hình 0,4%, tế
bào biểu mô lát không điển hình 0,4%, tăng sản ống
tuyến vú không điển hình 2%), mặc dù các dạng giải
phẫu bệnh này chiếm tỉ lệ rất thấp nhưng việc ghi
nhận các kết quả này có thể được lý giải từ số lượng
bệnh nhân trong nghiên cứu của tác giả Choi lớn
hơn so với nghiên cứu của chúng tôi (233 bệnh
nhân so với 41 bệnh nhân).
của các nghiên cứu
Nhũ ảnh BIRADS 4/5
Tỉ lệ
24%
Choi
56/233
12/50
14/77
Yu
24%
Chúng tôi
29,8%
Trong thực tế hiện nay ở Việt Nam, FNA vẫn là
phương tiện được chọn lựa rộng rãi để chẩn đoán
các tổn thương ở vú. Trong nghiên cứu này, không
có trường hợp nào được làm sinh thiết lõi kim trước
khi điều trị như ở các nghiên cứu ở các nước
phát triển.
Bảng 17. Kết quả giải phẫu bệnh
Jean M.
Seely
(N107)
Choi
(N=77)
Chúng tôi
(N=41)
Kết quả giải phẫu bệnh
So sánh với các nghiên cứu của các tác giả
khác trên thế giới, chúng tôi nhận thấy không có
nghiên cứu nào thực hiện FNA để chẩn đoán bệnh lý
tuyến vú mà thay bằng thủ thuật sinh thiết lõi kim
hoặc VABB.
Bướu sợi tuyến
3%
83%
7%
--
69%
--
2,4%
65,9%
31,7%
--
Bướu nhú
Thay đổi sợi bọc
Viêm kinh niên dạng hạt
Carcinôm OTV tại chỗ
Carcinôm OTV xâm nhiễm
--
--
So sánh với nghiên cứu của hai tác giả Choi và
Seely, nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng
về tỉ lệ giải phẫu bệnh lành tính (trong đó bướu nhú
chiếm tỉ lệ đa số lần lượt là 83%, 69% và 65,9%) và
tỉ lệ ung thư vú sau làm VABB của nhóm chúng tôi
chưa ghi nhận trường hợp nào, trong khi ở 2 nhóm
tác giả trên có ghi nhận trường hợp mô học ác tính
sau VABB (lần lượt là 0.8%, 20,4% và 0%).
Mặt khác, trong nghiên cứu của Choi có ghi nhận
thêm các giải phẫu bệnh khác nghiên cứu của chúng
0.4%
0.4%
13.6%
6.8%
--
--
Không có những biến chứng nặng như chảy
máu không cầm buộc phải chuyển sang mổ hở,
nhiễm trùng sau thực hiện thủ thuật VABB. Chỉ có 1
trường hợp được ghi nhận là chảy máu lúc thực
hiện VABB bệnh nhân chảy khoảng 150ml máu,
được xử trí bằng băng ép và dùng thuốc giảm đau.
Bảng 18. So sánh biến chứng của thủ thuật VABB
Fine
--
Zagouri
Simon
Eller
--
Johnson
TVT Phương
38,3%
Chúng tôi
79,2%
13%
Bầm
--
--
--
--
--
--
Tụ dịch
Tụ máu
Chảy máu
--
--
39,1%
--
7,5%
--
--
31%
--
2%
--
3,3%
6,5%
--
1%
1,7%
1,3%
nào. Do nghiên cứu này dùng VABB cho những
sang thương vi vôi hoá có đường kính ≤ 2mm nên
nguy cơ xảy ra biến chứng rất thấp.
Theo nghiên cứu của Eller thì biến chứng tụ
máu sau VABB là 31%, có thể do độ tuổi trung bình
của nhóm nghiên cứu này khá cao (61 tuổi nhóm
của chúng tôi là 40,6). Còn theo nghiên cứu của
Zagouri về lượng máu mất trong quá trình làm VABB
để tiên lượng khả năng bị máu tụ thì biến chứng
máu tụ của nhóm nghiên cứu này là 7,5%.
Fine khảo sát trên 124 bệnh nhân nữ với những
tổn thương không sờ thấy được. Những tổn thương
với kích thước nhỏ hơn hoặc bằng 1.5cm (n = 75) và
những tổn thương lớn hơn 1.5cm nhưng nhỏ hơn
3cm (n = 49) được lấy ra bằng kim 11 gauge hoặc
8 gauge. Nghiên cứu này cho thấy không có sự khác
biệt giữa việc dùng hai loại kim này trong việc lấy
mẫu (99% mẫu được lấy ra bằng kim 8 gauge và
96% mẫu được lấy ra bằng kim 11 gauge).
Theo Simon và Trần Việt Thế Phương thì biến
chứng chảy máu rất ít với tỉ lệ 1% - 1,7% so với
nghiên cứu chúng tôi là 1,3% cho thấy sự phù hợp,
chứng tỏ VABB an toàn cho bệnh nhân. Một nghiên
cứu nhỏ lẻ của tác giả Ferzli và cộng sự sinh thiết 34
bệnh nhân thì không ghi nhận bất cứ biến chứng
393
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
KẾT LUẬN
5. Eller A, (2014), "Stereotactic Vacuum-assisted
Breast Biopsy (VABB)” - A patients’ Survey",
Anticancer research. 34, pp. 3831 - 3838.
Chẩn đoán tổn thương dạng nhú ở vú bằng
FNA kết hợp với các phương tiện lâm sàng-hình ảnh
học có giá trị trong thực hành tại Việt Nam. VABB là
một phương tiện đáng tin cậy để xử lý các tổn
thương dạng nhú ở vú hiệu quả và an toàn.
6. Kibil W. et al. (2013), "Mammotome biopsy in
diagnosing and treatment of intraductal
papilloma of the breast ", przegląd chirurgiczny.
85, pp. 210-215.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
7. Simon JR K. C., Cooper RA, et al (2000),
"Accuracy and complication rates of US-guided
vacuum-assisted core breast biopsy: initial
results", Radiology,. 215, pp. 694 - 697.
1. Ahn S.K (2017), "Management of benign
papilloma
without
atypia
diagnosed
at
ultrasound-guided core needle biopsy: Scoring
system for predicting malignancy", Eur J Surg
Oncol, pp. 1 - 6
8. Trần Việt Thế Phương và cs. (2018), "Sinh thiết
vú có hỗ trợ hút chân không (vabb) dưới hướng
dẫn của siêu âm trong chẩn đoán và điều trị tổn
thương vú", Tạp chí y Ung Thư học Việt nam,
pp. tr.347 - 351.
2. Boufelli G, (2018 ), "Papillomas of the breast:
factors associated with underestimation", Eur J
Cancer Prev. 27 (4), pp. 310 - 314.
3. Chang
JM,
(2011),
"Management
Detected Benign
of
9. Yu Y, (2018), "Management of papillary lesions
without atypia of the breast diagnosed on needle
biopsy", Royal Australasian College of
Surgeons.
Ultrasonographically
Papillomas of the Breast at Core Needle
Biopsy", American Journal of Roentgenology.
196, pp. 723 - 729.
10. Zagouri F, (2010), "Volume of blood suctioned
during vacuum-assisted breast biopsy predicts
later hematoma formation", BMC Res Notes. 3,
pp. 70.
4. Choi HY, (2019), "Benign Breast Papilloma
without Atypia: Outcomes of Surgical Excision
versus US-guided Directional Vacuum-assisted
Removal or US Follow-up", Radiology. 00,
pp. 1 - 9.
394
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
ABSTRACT
Management of breast papillary lesions with VABB
Introduction: Papillary lesion is an uncommon disease of the breast. VABB is a trendy management for
diagnosis and treatment. Researching about clinical, histologic characteristics and the role of VABB for
management of these lesions is neccesary.
Method: Lesions of the breasts with FNA result is papillary lesions and biopsied with VABB are recruited.
All clinical, imaging, histologic characteristics are studied. VABB technique and complications are also analized.
Results: 41 cases from 1/2018 to 6/2020. Mean age: 41.7 (21 - 62), central location: 23 (56.1%), central
location is accompanied with more unifocal than multifocal (p < 0.05). Ultrasound with papillary lesion is 75.6%,
mammogram with BIRADS 4 is 9 cases (26.5%). Pathology is intraductal papilloma in 27 cases (65.9%),
fibrocystic diseases (31.7%), fibroadenoma (2.4%). All lesions are completely removed by VABB.
Complications includes ecchymosis (85.4%), seroma (12.2%), hematoma (2.4%).
Conclusions: Diagnosis of papillary lesions by FNA in combination with clinical and imaging techniques is
appropriate for practicing in Vietnam. VABB is a reliable method for management this entity.
395
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của VABB trong xử lý tổn thương dạng nhú của vú", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- vai_tro_cua_vabb_trong_xu_ly_ton_thuong_dang_nhu_cua_vu.pdf