Thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt trong ba tháng đầu thai kỳ tại Bệnh viện quận Thủ Đức năm 2020

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021  
Nghiên cứu Y học  
THIẾUMÁUVÀTHIẾUMÁUTHIẾUSTTRONGBATHÁNGĐUTHAIKTẠI  
BỆNH VIỆN QUẬN THỦ ĐỨC NĂM 2020  
Nguyễn Thị Tường Thái1, Diệp Từ Mỹ2  
TÓM TẮT  
Đặt vấn đề: Thiếu máu trong thai kỳ là một vấn đề sức khỏe toàn cầu nghiêm trọng. Ước tính khoảng 50%  
trường hợp thiếu máu là do thiếu sắt. Các nghiên cứu trước đây cho rằng thiếu máu trong thai kỳ là yếu tố nguy  
cơ dẫn đến các kết quả bất lợi khi mang thai như sinh con nhẹ cân, xuất huyết sau sinh, sinh non, tăng nguy cơ  
tử vong mẹ và chu sinh.  
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai ba tháng đầu thai kỳ đến khám  
tại bệnh viện Quận Thủ Đức và một số yếu tố liên quan.  
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 300 thai phụ 3 tháng  
đầu thai kỳ đến khám thai tại bệnh viện trong thời gian 01/06/2020 – 31/07/2020 theo phương pháp lấy mẫu  
thuận tiện, phỏng vấn mặt đối mặt bằng bộ công cụ soạn sẵn kết hợp tra cứu hồ sơ bệnh án.  
Kết quả: Tỷ lệ thiếu máu chiếm 14,3%, trong đó 79,1% thiếu máu nhẹ và 20,9% thiếu máu trung bình. Tỷ  
lệ thiếu máu thiếu sắt chiếm 7,3%. Các yếu tố trình độ học vấn, mức sống bản thân và số lần sinh con có mối liên  
quan với tình trạng thiếu máu.  
Kết luận: Thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ là những vấn đề sức khỏe cộng đồng nhẹ tại Bệnh  
viện Quận Thủ Đức.  
Từ khóa: thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt, phụ nữ mang thai, ba tháng đầu thai kỳ  
ABSTRACT  
ANAEMIA AND IRON DEFICIENCY ANEMIA IN THE FIRST TRIMESTER OF PREGNANCY IN THU  
DUC DISTRICT HOSPITAL, IN 2020  
Nguyen Thi Tuong Thai, Diep Tu My  
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 80 - 86  
Background: Anaemia in pregnancy is a significant global health problem. It is estimated that iron  
deficiency anaemia accounts for approximately 50% of cases. Previous studies claimed that maternal anemia was  
risk factor for adverse pregnancy outcomes such as low birth weight, postpartum hemorrhage, preterm birth, and  
increase the risk of maternal and perinatal mortality.  
Objectives: To investigate the prevalence of anemia and iron deficiency anemia in the first trimester of  
pregnancy and its associated factors among pregnant women who visited Thu Duc District Hospital.  
Methods: A cross-sectional study was conducted with 300 first trimester pregnant women chosen by  
convenient method in Thu Duc District Hospital from 01/06/2020 to 31/07/2020, data was collected by face-to-  
face interviewed with structured questionnaire, and by retrieved information from medical record.  
Results: The prevalence of anemia among first trimester pregnant women is 14.3%, of which 79.1% was  
mild anemia and 20.9% moderate anemia. The prevalence of iron deficiency anemia was 7.3%. Education level,  
personal standard of living and parity were significantly associated with anemia status.  
1Khoa Dinh dưỡng & Tiết chế, Bệnh viện Quận Thủ Đức  
2Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh  
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Tường Thái  
ĐT: 0916945482  
Email: ncthanh54@gmail.com  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
80  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021  
Nghiên cứu Y học  
Conclusion: Anaemia and iron deficiency in pregnancy were mild public health problems in the study  
setting of Thu Duc District Hospital.  
Keywords: anaemia, iron deficiency anemia, pregnant women, first trimester  
Do đó chúng tôi thực hiện đề tài này với mục  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
tiêu xác định tỷ lệ thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt  
Thiếu máu là một vấn đề sức khỏe cộng  
ở phụ nữ mang thai ba tháng đầu thai kỳ đến  
đồng, gây ra những hậu quả bất lợi đối với sức  
khám tại bệnh viện Quận Thủ Đức và mối liên  
khỏe con người, làm tăng gánh nặng bệnh tật,  
quan giữa thiếu máu với các đặc điểm dân số -  
tử vong và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh  
xã hội, đặc điểm sản phụ khoa và tình trạng bổ  
tế xã hội(1). Đặc biệt, thiếu máu trong thai kỳ là  
sung viên sắt.  
một vấn đề toàn cầu nghiêm trọng. Các nghiên  
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPPNGHIÊNCỨU  
cứu trước đây cho rằng thiếu máu trong thai  
kỳ là yếu tố nguy cơ dẫn đến các kết quả bất  
lợi khi mang thai như sinh con nhẹ cân, xuất  
huyết sau sinh, sinh non, tăng nguy cơ tử vong  
mẹ và chu sinh(2,3,4,5). Thiếu máu làm tăng tai  
biến chảy máu trong và sau sinh, nhiễm khuẩn  
hậu sản, sót rau, choáng trong lúc sinh, chậm  
phục hồi sức khỏe của sản phụ sau sinh(6). Ước  
tính khoảng 50% trường hợp thiếu máu trên  
toàn cầu là do thiếu sắt(3).  
Đối tượng nghiên cứu  
Những thai phụ ba tháng đầu thai kỳ đến  
khám thai tại bệnh viện Quận Thủ Đức từ  
01/06/2020 đến 31/07/2020.  
Tiêu chí đưa vào  
Thai phụ ba tháng đầu thai kỳ đến khám  
tại bệnh viện Quận Thủ Đức trong thời gian  
nghiên cứu đã được khẳng định bằng kết quả  
siêu âm từ 6 tuần (khi xác định được có tim  
thai qua siêu âm) đến 12 tuần 6 ngày, chưa  
được làm xét nghiệm thường quy và đồng ý  
tham gia nghiên cứu.  
Tại Việt Nam, theo số liệu điều tra của Viện  
Dinh dưỡng quốc gia năm 2015, tỉ lệ thiếu máu ở  
phụ nữ mang thai trên toàn quốc vẫn còn khá  
cao (38,2%), trong đó trên 50% trường hợp là  
thiếu máu do thiếu sắt(7). Tình hình thiếu máu  
thiếu sắt có thể được cải thiện bằng cách bổ sung  
sắt và cải thiện dinh dưỡng, đến nay đã được ghi  
nhận trong nhiều công trình nghiên cứu ở trong  
Tiêu chí loại ra  
Thai phụ đã được chẩn đoán mắc các bệnh  
nhiễm trùng, sốt rét, bệnh tim mạch, gan thận,  
ung thư, lao, viêm loét dạ dày, các bệnh thiếu  
máu di truyền; bị mất máu cấp tính do tai nạn,  
chấn thương.  
và ngoài nước(8,9,10)  
.
Bệnh viện Quận Thủ Đức là một bệnh viện  
lớn với khoảng 150 thai phụ đến khám thai định  
kỳ mỗi ngày và số lượng vẫn đang tiếp tục tăng  
lên. Mặc dù thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt ở  
phụ nữ mang thai là vấn đề cấp thiết gây ra  
nhiều hậu quả nghiêm trọng cho cả mẹ và thai  
nhi, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nghiên cứu  
nào về thực trạng thiếu máu ở thai kỳ được thực  
hiện trên địa bàn. Việc hiểu rõ tỷ lệ cũng như các  
yếu tố ảnh hưởng đến thiếu máu và thiếu máu  
thiếu sắt trong thai kỳ, đặc biệt trong ba tháng  
đầu, có thể giúp các bác sĩ can thiệp sớm, định  
hướng tư vấn để dự phòng thiếu máu cho  
những bà mẹ mang thai đến khám tại bệnh viện.  
Phương pháp nghiên cứu  
Thiết kế nghiên cứu  
Nghiên cứu cắt ngang.  
Cỡ mẫu  
Cỡ mẫu được tính theo công thức ước lượng  
một tỷ lệ:  
p (1 – p)  
n = Z2 (1- /2)  
d2  
Với =0,05; sai số cho phép d=0,05; p=26,3%  
(theo nghiên cứu của Trần Văn Vũ tại bệnh viện  
đa khoa tỉnh Bình Thuận năm 2018)(11); cỡ mẫu  
tối thiểu cần cho nghiên cứu tính được là 298.  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
81  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021  
Nghiên cứu Y học  
lệ hiện mắc PR (Prevalent Ratio) và khoảng tin  
cậy 95% của PR.  
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu  
Kĩ thuật chọn mẫu  
Y đức  
Mẫu được lấy theo phương pháp lấy mẫu  
thuận tiện, lấy toàn bộ phụ nữ mang thai ba  
tháng đầu đến khám thai tại bệnh viện Quận  
Thủ Đức thỏa tiêu chí trong thời gian nghiên cứu  
cho đến khi đủ cỡ mẫu.  
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội  
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại  
học Y Dược TP. HCM, số 231/ĐHYD-HĐĐĐ,  
ngày 25/3/2020.  
Phương pháp thu thập thông tin  
KẾT QUẢ  
Các thông tin về đặc điểm dân số - xã hội,  
yếu tố sản phụ khoa, các yếu tố liên quan đến  
dinh dưỡng được lấy theo phương pháp phỏng  
vấn mặt đối mặt bằng bộ câu hỏi soạn sẵn. Dữ  
liệu thứ cấp gồm kết quả xét nghiệm công thức  
máu và định lượng Ferritin được ghi nhận từ hồ  
sơ bệnh án.  
Trong thời gian nghiên cứu có 300 thai phụ  
ba tháng đầu thai kỳ đến khám thai tại bệnh viện  
Quận Thủ Đức thỏa điều kiện và đồng ý tham  
gia nghiên cứu. Phân tích trên những thai phụ  
này cho kết quả như sau:  
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu  
Bảng 1: Mô tả đặc điểm sản phụ khoa của đối tượng  
Tiêu chuẩn đánh giá tình trạng thiếu máu  
Tần Tỉ lệ  
Đặc điểm (n=300)  
số  
(%)  
Thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt: Thai phụ  
được chẩn đoán thiếu máu khi có chỉ số  
Hemoglobin trong máu <11 g/dL và được chẩn  
đoán thiếu máu thiếu sắt khi đồng thời có thiếu  
máu và chỉ số Ferritin <15 µg/L(12).  
Tuổi thai  
6 tuần – 7 tuần 6 ngày  
8 tuần – 9 tuần 6 ngày  
10 tuần – 12 tuần 6 ngày  
74  
64  
24,7  
21,3  
162 54,0  
Số lần đã sinh con  
0
1
≥ 2  
134 44,7  
109 36,3  
Mức độ thiếu máu: Thiếu máu nhẹ khi nồng  
độ Hgb trong máu từ 10 – 10,9 g/dL, thiếu máu  
trung bình khi nồng độ Hgb trong máu từ 7 – 9,9  
g/dL, thiếu máu nặng khi nồng độ Hgb trong  
máu <7 g/dL)(1).  
57  
19,0  
Khoảng cách với lần sinh con trước (n=166)  
> 2 năm  
≤ 2 năm  
123 74,1  
43  
22  
25,9  
7,3  
Ốm nghén trong thai kỳ  
Nghén nặng  
Nghén vừa  
Phân loại thiếu máu theo màu sắc và kích  
thước hồng cầu: Thiếu máu nhược sắc khi có chỉ  
số MCH <28 pg, bình sắc khi MCH trong khoảng  
28 – 32 pg, ưu sắc khi MCH >32 pg. Thiếu máu  
hồng cầu nhỏ khi MCV <85 fL, hồng cầu bình  
thường khi MCV trong khoảng 85 – 100 fL, hồng  
cầu to khi MCV >100 fL(13).  
215 71,7  
63 21,0  
Không  
Số lần sảy thai  
0
1
≥ 2  
218 72,7  
68  
14  
22,7  
4,7  
Số lần nạo phá thai  
0
1
≥ 2  
263 87,7  
34  
3
11,3  
1,0  
Quản lý và phân tích số liệu  
Số liệu được nhập bằng phần mềm EpiData  
3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata 14.0. Các  
yếu tố về dân số - xã hội, các yếu tố sản phụ  
khoa, các đặc điểm bổ sung viên sắt được mô tả  
dưới dạng tần số n và tỷ lệ %. Sử dụng kiểm  
định Chi bình phương, kiểm định chính xác  
Fisher để so sánh 2 tỷ lệ. Giá trị p của các kiểm  
định <0,05 được xem là sự khác biệt có ý nghĩa  
thống kê. Mức độ kết hợp được đo bằng tỷ số tỷ  
Tiền sử rối loạn kinh nguyệt  
Có  
Không  
63  
21,0  
237 79,0  
Tuổi trung bình của nhóm thai phụ tham gia  
nghiên cứu là 29,36 (± 5,25) tuổi. Đa số ở độ tuổi  
từ 25 – 35 tuổi (66,3%). Nghề nghiệp chủ yếu là  
công nhân (48%). Phần lớn đối tượng có trình độ  
học vấn ở cấp 2 và cấp 3 (67%). Khoảng một nửa  
đối tượng không theo tôn giáo nào (48%). Đa số  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
82  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021  
Nghiên cứu Y học  
tự đánh giá mức sống bản thân là đủ ăn (85,7%),  
tỉ lệ thai phụ tự đánh giá nghèo và khá tương  
đối thấp, lần lượt là 4,7% và 9,7%.  
máu có 22 trường hợp thiếu máu thiếu sắt,  
chiếm 51,2%.  
Bảng 3: Tỉ lệ thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt ở phụ  
Các đặc điểm về sản phụ khoa của đối tượng  
được trình bày ở Bảng 1. Phần lớn thai phụ mang  
thai lần này có khoảng cách với lần sinh con  
trước >2 năm (74,1%). Tỉ lệ thai phụ đã từng sinh  
con khá cao (55,3%) với 19% thai phụ đã sinh  
con từ 2 lần trở lên. Thai phụ từng sảy thai (tính  
cả nạo phá thai) cũng chiếm tỉ lệ khá cao (27,4%).  
nữ mang thai ba tháng đầu thai kỳ  
Biến số (n = 300)  
Tần số  
Tỷ lệ (%)  
Thiếu máu  
Có  
43  
14,3  
85,7  
Không  
257  
Thiếu máu thiếu sắt  
Có  
22  
7,3  
92,7  
Không  
278  
Tỉ lệ thiếu máu theo mức độ thiếu máu và  
đặc điểm của hồng cầu được trình bày trong  
Bảng 4. Đa số trường hợp là thiếu máu nhẹ, còn  
lại là thiếu máu trung bình. Không có trường  
hợp nào thiếu máu nặng. Thiếu máu nhược sắt  
hồng cầu nhỏ chiếm tỉ lệ cao nhất (69,8% trường  
hợp thiếu máu và 91% trường hợp thiếu máu  
thiếu sắt). Không ghi nhận trường hợp nào có  
thiếu máu ưu sắc hoặc thiếu máu hồng cầu to.  
Trong 300 thai phụ được phỏng vấn có 256  
thai phụ có bổ sung viên sắt. Phân tích trên  
nhóm thai phụ này cho kết quả được trình bày  
trong Bảng 2. Hầu hết thai phụ uống viên sắt  
được bác sĩ kê toa (93%) và đã được nhân viên y  
tế hoặc nhân viên quầy thuốc tư vấn cách uống  
viên sắt (89,4%). Tỉ lệ thai phụ uống viên sắt đều  
đặn và đúng cách, đúng thời điểm khá cao.  
Bảng 2. Các đặc điểm về cách uống viên sắt  
Bảng 4: Tỉ lệ thiếu máu theo mức độ, màu sắc và kích  
thước hồng cầu  
Đặc điểm (n=256)  
Tần số Tỉ lệ (%)  
Cách tiếp cận viên sắt  
Bác sĩ kê toa  
Không do bác sĩ kê toa  
238  
18  
93,0  
7,0  
Thiếu Thiếu máu  
máu  
thiếu sắt  
Đặc điểm  
Được tư vấn cách uống viên sắt  
n (%)  
n (%)  
Có  
Không  
229  
27  
89,4  
10,6  
Mức độ thiếu máu  
Thiếu máu nhẹ  
34 (79,1) 15 (68,2)  
9 (20,9) 7 (31,8)  
43 (100) 22 (100)  
Mức độ uống viên sắt  
Uống mỗi ngày  
Quên 1-3 viên/tuần  
Quên > 3 viên mỗi tuần  
Thiếu máu trung bình  
Tổng  
210  
42  
4
82,0  
16,4  
1,6  
Màu sắc và kích thước hồng cầu  
Thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ 30 (69,8) 20 (91,0)  
Thời gian uống viên sắt  
≥ 2 tháng  
Thiếu máu bình sắc hồng cầu bình  
138  
118  
53,9  
46,1  
8 (18,6)  
1 (4,5)  
thường  
< 2 tháng  
Thiếu máu nhược sắc hồng cầu bình  
thường  
Cách uống viên sắt  
Nước lọc  
Uống chung với trà, café  
Uống chung với sữa/viên canxi  
Bất kỳ loại nước nào  
4 (9,30)  
1 (2,3)  
1 (4,5)  
0 (0,0)  
247  
0
2
96,5  
0,0  
0,8  
2,7  
Thiếu máu bình sắc hồng cầu nhỏ  
Tổng  
43 (100) 22 (100)  
7
Các yếu tố liên quan đến thiếu máu  
Thời điểm uống viên sắt  
Cách bữa ăn  
Trong bữa ăn  
Bất kỳ  
Các đặc điểm về dân số, xã hội, sản phụ  
khoa và các đặc điểm bổ sung viên sắt được  
chúng tôi đưa vào phân tích đơn biến. Các biến  
số có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với thiếu  
máu được trình bày trong Bảng 5. Có mối liên  
quan có ý nghĩa thống kê giữa thiếu máu với 3  
yếu tố: trình độ học vấn, mức sống bản thân và  
số lần đã sinh con (p <0,05). Khi trình độ học vấn  
tăng, mức sống bản thân tăng thì tỉ lệ thiếu máu  
214  
14  
28  
83,6  
5,5  
10,9  
Tỉ lệ thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt  
Bảng 3 trình bày kết quả về tỉ lệ thiếu máu và  
thiếu máu thiếu sắt trong mẫu nghiên cứu.  
Trong 300 thai phụ được khảo sát có 43 trường  
hợp thiếu máu (14,3%) và 22 trường hợp thiếu  
máu thiếu sắt (7,3%). Trong 43 trường hợp thiếu  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
83  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021  
Nghiên cứu Y học  
giảm. Những thai phụ đã sinh con từ 2 lần trở  
lên có tỉ lệ thiếu máu cao gấp 2,82 lần những thai  
phụ chưa sinh con lần nào. Ngoài ra, không tìm  
thấy mối liên quan giữa tình trạng thiếu máu với  
việc bổ sung viên sắt.  
Bảng 5: Các yếu tố liên quan đến thiếu máu ở phụ nữ mang thai ba tháng đầu  
Thiếu máu  
Biến số (n=300)  
P
PR (KTC 95%)  
Có  
n (%)  
Không  
n (%)  
Trình độ học vấn  
Tiểu học trở xuống  
Cấp 2 và cấp 3  
Sau cấp 3  
4 (23,5)  
34 (16,9)  
5 (6,1)  
13 (76,5)  
167 (83,1)  
77 (93,9)  
0,004*  
0,49 (0,31 – 0,79)  
Mức sống bản thân  
Nghèo  
Đủ ăn  
Khá  
5 (35,7)  
36 (14,0)  
2 (6,9)  
9 (64,3)  
221 (86,0)  
27 (93,1)  
0,016*  
0,42 (0,21 – 0,85)  
Số lần đã sinh con  
0
1
≥ 2  
15 (11,2)  
10 (9,2)  
18 (31,6)  
119 (88,8)  
99 (90,8)  
39 (68,4)  
1
0,606  
0,001  
0,82 (0,38 – 1,75)  
2,82 (1,53 – 5,20)  
*kiểm định Chi bình phương khuynh hướng  
hợp thiếu máu (cao nhất là 96,3% ở nghiên cứu  
của Phạm Văn An và 91% ở nghiên cứu của Trần  
Văn Vũ) cho thấy thiếu sắt là nguyên nhân chủ  
BÀN LUẬN  
Nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện  
Quận Thủ Đức, là nơi nằm gần các khu công  
nghiệp và chế xuất lớn ở Thủ Đức và Bình  
Dương, do đó phần lớn đối tượng nghiên cứu là  
lao động chân tay với trình độ học vấn cấp 2 và  
cấp 3. Đa số tự đánh giá có mức sống đủ ăn. Tỉ lệ  
thai phụ đã từng sinh con, đặc biệt là sinh từ 2  
lần trở lên khá cao so với nghiên của Trần Văn  
Vũ hay Nguyễn Thị Kim Loan(11,14). Điều này  
phù hợp với đặc thù của địa bàn nghiên cứu, do  
nhóm lao động chân tay có thể ít để ý đến chính  
sách sinh ít con của nhà nước hơn so với nhóm  
lao động trí óc.  
yếu gây thiếu máu trong thai kỳ(11,15)  
.
Bảng 6: Tỉ lệ thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt của  
thai phụ ba tháng đầu thai kỳ qua một số nghiên  
cứu trong nước gần đây  
Địa điểm Tỉ lệ Tỉ lệ  
nghiên cứu TM TMTS TMTS/TM  
Tỉ lệ  
Tác giả (năm)  
Phạm Thị Đan  
Bạc Liêu 36,7% 23,7%  
Sóc Trăng 29,5% 17,6%  
64,6%  
59,7%  
96,3%  
62,0%  
91,0%  
51,2%  
Thanh (2010)(16)  
Lê Thị Anh Thư  
(2013)(17)  
Phạm Văn An  
(2014)(15)  
Củ Chi  
21,6% 20,%  
7,5% 4,7%  
Nguyễn Thị Kim  
Loan (2017)(14)  
Long An  
So sánh với các nghiên cứu trước đó, ở  
nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ thiếu máu và  
thiếu máu thiếu sắt khá thấp (Bảng 6). Tỉ lệ này  
được xếp vào mức vấn đề cộng đồng nhẹ theo  
bảng xếp loại của WHO về mức độ ý nghĩa cộng  
đồng của thiếu máu(12). Điều này có thể là do  
mức sống của người dân trên địa bàn ngày càng  
ổn định, khả năng tiếp cận với y tế và thông tin  
đại chúng ngày càng nhiều, giúp người dân  
ngày càng có nhiều kiến thức để tự chăm sóc sức  
khỏe, cũng như góp phần hạn chế tỉ lệ thiếu máu  
và thiếu máu thiếu sắt. Tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt  
trong các nghiên cứu đều chiếm trên 50% trường  
Trần Văn Vũ  
(2018)(11)  
Bình Thuận 26,3% 24,0%  
TP. HCM 14,3% 7,3%  
Nghiên cứu này  
(2020)  
TM: Thiếu máuTMTS: Thiếu máu thiếu sắt  
Về phân loại thiếu máu theo mức độ, ở  
nghiên cứu chúng tôi đa số là thiếu máu nhẹ,  
còn lại là thiếu máu trung bình, không có trường  
hợp nào thiếu máu nặng. Kết quả này cũng  
tương tự với kết quả của những nghiên cứu  
được liệt kê ở trên(11,15,16,17,17). Về phân loại thiếu  
máu theo màu sắc và kích thước hồng cầu, đa số  
là thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ (69,8%) và  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
84  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021  
Nghiên cứu Y học  
thiếu máu bình sắc hồng cầu bình thường  
(18,6%), không có trường hợp nào thiếu máu ưu  
sắc hoặc thiếu máu hồng cầu to. Kết quả này  
tương tự với kết quả của tác giả Nguyễn Thị  
Thủy với 67,1% là thiếu máu nhược sắc hồng cầu  
nhỏ và 25% thiếu máu bình sắc hồng cầu bình  
thường(18). Theo y văn, nguyên nhân gây thiếu  
máu nhược sắc hồng cầu nhỏ là do thiếu máu  
thiếu sắt, thalassemia, thiếu máu do các bệnh  
mãn tính(19). Vì nghiên cứu của chúng tôi đã loại  
ra những trường hợp đã biết là mắc thalassemia,  
các bệnh mãn tính có thể gây thiếu máu, nên  
thiếu máu nhược sắt hồng cầu nhỏ trong nghiên  
cứu của chúng tôi chủ yếu là do thiếu máu thiếu  
sắt. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu là  
thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ chiếm tới  
91% các trường hợp thiếu máu thiếu sắt. Tuy  
nhiên, để chẩn đoán chính xác nguyên nhân gây  
thiếu máu cần kết hợp lâm sàng và các xét  
nghiệm cận lâm sàng khác.  
quả tương tự(11,15). Ở những bà mẹ sinh con nhiều  
lần, đặc biệt là ở những bà mẹ có khoảng cách  
sinh con ngắn, nếu không cung cấp đủ lượng sắt  
cần thiết, cơ thể bắt buộc phải sử dụng sắt dự trữ  
của người mẹ, làm cạn kiệt sắt dẫn đến thiếu  
máu và thiếu sắt ở mẹ. Do đó, những thai phụ  
sinh con nhiều lần có nguy cơ thiếu máu cao hơn  
so với những thai phụ chưa sinh con lần nào.  
Phân tích trên 256 thai phụ có bổ sung viên  
sắt cho thấy hầu hết thai phụ bổ sung sắt đều do  
bác sĩ kê toa, điều này dẫn đến tỉ lệ thai phụ  
được tư vấn cách uống viên sắt cũng như tỉ lệ  
thai phụ uống viên sắt đúng cách khá cao. Tuy  
nhiên, chúng tôi không tìm thấy mối liên quan  
giữa việc sử dụng viên sắt với tình trạng thiếu  
máu. Chúng tôi nghĩ đến khả năng do đối tượng  
nghiên cứu của chúng tôi là thai phụ trong ba  
tháng đầu thai kỳ, thời gian bổ sung viên sắt  
ngắn, chưa thấy rõ hiệu quả của việc bổ sung  
viên sắt.  
Kết quả cho thấy khi trình độ học vấn tăng  
thì tỉ lệ thiếu máu giảm. Nghiên cứu của tác giả  
Delil R tại Ethiopia (2018) cũng ghi nhận mối  
liên quan tương tự giữa thiếu máu với trình độ  
học vấn(20). Những thai phụ có trình độ học vấn  
cao sẽ càng có điều kiện tìm kiếm công việc và  
thu nhập ổn định, giúp thai phụ có nhiều điều  
kiện hơn để chăm sóc bản thân, tìm hiểu kỹ và  
lựa chọn những dịch vụ chăm sóc y tế tốt, giảm  
được nhiều nguy cơ cho cả mẹ và thai nhi.  
Nghiên cứu của chúng tôi điều tra tỉ lệ  
thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt ở thai phụ  
trong ba tháng đầu đến khám tại bệnh viện  
Quận Thủ Đức. Đây là đề tài mới ở địa  
phương, có thể cung cấp số liệu làm tiền đề  
cho các nghiên cứu sau này về việc đánh giá  
hiệu quả trong công tác điều trị và dự phòng  
thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt cho thai phụ ba  
tháng đầu đến khám tại bệnh viện.  
KẾT LUẬN  
Những thai phụ có mức sống càng cao thì tỷ  
lệ thiếu máu càng giảm. Mức sống khá giả có thể  
giúp thai phụ có cuộc sống thoải mái, chế độ  
dinh dưỡng đầy đủ, tiếp cận được dịch vụ y tế  
tốt hơn, nâng cao sức khỏe, từ đó giảm nguy cơ  
thiếu máu. Kết quả nghiên cứu của tác giả Lebso  
M (2017) ở Nam Ethiopia cho tình trạng kinh tế  
thấp có nguy cơ thiếu máu cao hơn so với tình  
trạng kinh tế khá giả (OR hiệu chỉnh=2,03, KTC  
95%: 1,11 – 3,69, p <0,05)(21).  
Tỉ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai trong 3  
tháng đầu thai kỳ tại bệnh viện Quận Thủ Đức là  
14,3%, trong đó 51,2% là thiếu máu thiếu sắt.  
Mặc dù tỉ lệ này khá thấp so với các nghiên cứu  
trước, tuy nhiên đây vẫn là vấn đề cấp thiết gây  
nhiều hậu quả nghiêm trọng, do đó cần tiếp tục  
chú trọng chương trình bổ sung sắt, tăng cường  
các biện pháp truyền thông về dự phòng thiếu  
máu và thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ để giảm tỉ  
lệ này ở phụ nữ mang thai. Những thai phụ có  
trình độ học vấn thấp, mức sống thấp, đã sinh  
con từ 2 lần trở lên có khả năng thiếu máu và  
thiếu máu thiếu sắt cao, do đó cần chú ý theo dõi  
Những thai phụ đã sinh con từ 2 lần trở lên  
có tỉ lệ thiếu máu cao hơn so với những thai phụ  
chưa sinh con lần nào. Nghiên cứu của các tác  
giả Trần Văn Vũ, Phạm Văn An cũng cho kết  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
85  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021  
Nghiên cứu Y học  
án Chuyên khoa II Chuyên ngành Sản phụ khoa, Đại học Y Dược  
TP. Hồ Chí Minh.  
tình trạng thiếu máu và tư vấn dự phòng thiếu  
máu thiếu sắt ở những nhóm thai phụ này.  
12. WHO (2001). Iron deficiency anaemia: assessment, prevention,  
and control.  
A
guide for programme managers.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
WHO/NHD/01.3), pp.17.  
1.  
WHO (2011). The global prevalence of anaemia in 2011. URL:  
bal_prevalence_anaemia_2011/en/.  
13. Bộ Y tế (2015). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh  
lý huyết học. Quyết định số 1494/QĐ-BYT, pp.100-103.  
14. Nguyễn Thị Kim Loan (2017). Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt và các  
yếu tố liên quan ở thai phụ ba tháng đầu đến khám thai tại  
trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Long An. Luận văn  
Thạc sỹ Chuyên ngành Y tế công cộng, Đại Học Y Dược TP. Hồ  
Chí Minh.  
2.  
Rahman MM, Abe SK, Rahman MS, et al (2016). Maternal  
anemia and risk of adverse birth and health outcomes in low-  
and middle-income countries: systematic review and meta-  
analysis. Am J Clin Nutr, 103(2):495-504.  
3.  
4.  
Aleksandra S, Dragana N, Maja N (2006). Relationship  
between exposure to air pollution and occurrence of anemia in  
pregnancy. Medicine and Biology, 13(1):54-57.  
15. Phạm Văn An, Hoàng Hải (2014). Một số yếu tố liên quan đến  
thiếu máu dinh dưỡng ở phụ nữ có thai huyện Củ Chi (thành  
phố Hồ Chí Minh) năm 2011. Y học Việt Nam, 414(2):83-88.  
16. Phạm Thị Đan Thanh (2010). Tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt ở phụ  
nữ có thai 3 tháng đầu thai kỳ và các yếu tố liên quan tại tỉnh  
Bạc Liêu. Luận án Chuyên khoa II Chuyên ngành Sản phụ khoa,  
Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.  
Stephen G, Mgongo M, Hashim TH, Katanga J, Pedersen BS,  
Msuya SE (2018). Anaemia in Pregnancy: Prevalence, Risk  
Factors, and Adverse Perinatal Outcomes in Northern  
Kozuki N, Lee AC, Katz J et al (2012). Moderate to severe, but  
not mild, maternal anemia is associated with increased risk of  
small-for-gestational-age outcomes. J Nutr, 142(2):358-362.  
Rebecca JS, Mullany L, Black RE (2004). Iron deficiency  
anaemia In: Ezzati M, Lopez AD, Rodgers A, Murray CJL  
(Eds.). Comparative Quantification of Health Risks, V1, pp.163-  
230. World Health Organization, Switzerland.  
5.  
6.  
17. Lê Thị Anh Thư (2013). Hiệu quả của điều trị thiếu máu thiếu  
sắt trong 3 tháng đầu thai kỳ tại Bệnh viện đa khoa Sóc Trăng.  
Luận án Chuyên khoa II Chuyên ngành Sản phụ khoa, Đại Học Y  
Dược TP. Hồ Chí Minh.  
18. Nguyễn Thị Thủy (2013). Nghiên cứu đặc điểm thiếu máu của  
phụ nữ có thai đến khám tại bệnh viện phụ sản Hà Nội năm  
2012-2013. Luận văn Thạc sỹ Chuyên ngành Huyết học – Truyền  
máu, Đại học Y Hà Nội.  
7.  
Viện dinh dưỡng (2015). Thông cáo Báo chí - Hội nghị Cộng  
tác viên báo chí nhân ngày Vi chất dinh dưỡng (1-  
noi-bat/thong-cao-bao-chi-hoi-nghi-cong-tac-vien-bao-chi-  
nhan-ngay-vi-chat-dinh-duong-1-62019.html.  
19. Linker CA, Đào Văn Chinh (2001). Máu. In: Hoàng Trọng  
Quang, Nguyễn Thị Kim Loan (eds). Chẩn đoán và điều trị y  
học hiện đại, 1st ed, pp.709 – 715. NXB Y Học, Hà Nội.  
20. Delil R, Tamiru D, Zinab B. (2018). Dietary Diversity and Its  
Association with Anemia among Pregnant Women Attending  
Public Health Facilities in South Ethiopia. Ethiop J Health Sci,  
28(5):625-634.  
8.  
9.  
Đinh Thị Phương Hoa (2013). Tình trạng dinh dưỡng, thiếu  
máu và hiệu quả bổ sung sắt hàng tuần ở phụ nữ 25 -30 tuổi tại  
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Luận án Tiến sĩ Chuyên ngành  
Dinh dưỡng, Viện dinh dưỡng.  
21. Lebso M, Anato A, Loha E (2017). Prevalence of anemia and  
associated factors among pregnant women in Southern  
Ethiopia: A community based cross-sectional study. PLoS One,  
12(12):e0188783.  
Nguyễn Đăng Trường (2016). Hiệu quả bổ sung Hemi Mam  
hoặc bổ sung đa vi chất dinh dưỡng để cải thiện tình trạng  
thiếu máu của phụ nữ có thai. Luận án Tiến sĩ Chuyên ngành  
Dinh dưỡng, Viện dinh dưỡng.  
10. Pena-Rosas JP, De-Regil LM, Garcia-Casal MN, et al (2015).  
Daily oral iron supplementation during pregnancy. Cochrane  
Database Syst Rev, 7:CD004736.  
Ngày nhận bài báo:  
16/11/2020  
01/02/2021  
10/03/2020  
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo:  
Ngày bài báo được đăng:  
11. Trần Văn Vũ (2018). Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang  
thai 3 tháng đầu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận. Luận  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
86  
pdf 7 trang yennguyen 14/04/2022 1760
Bạn đang xem tài liệu "Thiếu máu và thiếu máu thiếu sắt trong ba tháng đầu thai kỳ tại Bệnh viện quận Thủ Đức năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthieu_mau_va_thieu_mau_thieu_sat_trong_ba_thang_dau_thai_ky.pdf