Ứng dụng B-learning trong công tác bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức người dân tộc thiểu số

Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
ỨNG DỤNG B-LEARNING TRONG CÔNG TÁC  
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC  
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ  
Nguyễn Đình Quý  
Học viện Hành chính Quốc gia; Email: quynd@napa.vn  
Thông tin chung  
hế kỷ XXI là kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức với sự tác động  
mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0. Trong kỷ nguyên  
T
Ngày nhận bài: 3/10/2018  
Ngày phản biện: 5/11/2018  
Ngày duyệt đăng: 10/11/2018  
này, sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và truyền thông  
(CNTT-TT), đã và đang tác động mạnh mẽ đến hầu hết các lĩnh  
vực trong đời sống xã hội, mà giáo dục không phải là một ngoại  
lệ. E-learning (Electronic Learning) là một trong những giải pháp  
ứng dụng CNTT-TT trong giáo dục rất phổ biến hiện nay. Tuy nhiên,  
trong khi việc ứng dụng E-learning cho các hoạt động đào tạo diễn  
ra mạnh mẽ và phổ biến thì ở các hoạt động bồi dưỡng vẫn còn rất  
khiêm tốn, đặc biệt là đối với bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức  
(CBCCVC) người dân tộc thiểu số (DTTS).  
Title  
B-LEARNING  
APPLICATIONS IN THE  
TRAINING OF CADRES  
AND CIVIL SERVANTS OF  
ETHNIC MINORITIES  
Bài viết này tập trung tìm hiểu về Blended learning (B-learning) -  
một hình thức học tập của E-learning và mạnh dạn đề xuất ứng dụng  
B-learning cho công tác bồi dưỡng CBCCVC người DTTS.  
Từ khóa  
Abstract  
Công nghệ thông tin và  
truyền thông; E-learning;  
B-learning; Bồi dưỡng; Cán  
bộ, công chức, viên chức;  
Dân tộc thiểu số.  
The 21st century is the era of knowledge economy with the  
strong impact of the industrial revolution 4.0. In this era, the great  
development of information technology and communication has  
been making a tremendous impact on most areas of social life, with  
education not an exception. E-learning (Electronic Learning) is one  
of the solutions for the application of information technology and  
communication in education is very popular today. However, while  
the application of E-learning to training activities is strong and  
popular, the training activities are still very modest, especially for  
cadres and civil servants of ethnic minorities.  
This article focuses on learning Blended learning (B-learning)  
- a form of learning of E-learning and boldly recommends the  
application of B-learning for the training of cadres, civil servants of  
ethnic minorities.  
Keywords  
Information and  
communications technology;  
E-learning; B-learning;  
Training; Cadres and civil  
servants; Ethnic minorities.  
1. Học tập kết hợp - Blended learning  
điểm của nó. Hai hình thức này cần được thiết kế  
phù hợp, có mối liên hệ mật thiết, bổ sung cho nhau  
hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng cho khóa  
học1.  
1.1. Khái niệm  
Học tập kết hợp (Blended learning -  
B-learning) là hình thức học tập, triển khai một  
khóa học với sự kết hợp của hai hình thức học tập  
trực tuyến (online learning) và dạy học giáp mặt  
(face to face - F2F). Theo cách này, E-learning được  
thiết kế với mục đích hỗ trợ quá trình dạy học và  
chỉ quan tâm tới những nội dung, chủ điểm phù hợp  
nhất với thế mạnh của loại hình này. Còn lại, với  
những nội dung khác vẫn được thực hiện thông qua  
hình thức dạy học F2F với việc khai thác tối đa ưu  
Hiện nay, vẫn còn một số khái niệm khác nhau  
về B-learning, cụ thể:  
Theo Alvarez (2005) đã định nghĩa, B-learning  
là “Sự kết hợp của các phương tiện truyền thông  
trong đào tạo như công nghệ, các hoạt động, và các  
loại sự kiện nhằm tạo ra một chương trình đào tạo  
1. Lê Huy Hoàng, Lê Xuân Quang, (2011), E-learning và ứng dụng trong dạy  
học, Đại học Sư phạm Hà Nội  
Số 24 - Tháng 12 năm 2018  
111  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
tối ưu cho một đối tượng cụ thể”. Tác giả Victoria L. phải tất cả các chương trình học đều có thể được  
Tinio cho rằng “Học tích hợp (Blended Learning) để thực hiện tốt nhất trong môi trường trang thiết bị  
chỉ các mô hình học kết hợp giữa hình thức lớp học điện tử...; căn cứ để lựa chọn hình thức đào tạo là  
truyền thống và các giải pháp E–learning2. Theo đặc điểm của môn học, mục tiêu và kết quả học tập,  
Bonk và Graham (2006), B-learning là: Kết hợp các tính cách của học viên và bối cảnh học tập để lựa  
phương thức giảng dạy (hoặc cung cấp các phương chọn hình thức, phương pháp và phương tiện giảng  
tiện truyền thông); Kết hợp các phương pháp giảng dạy thích hợp nhất8.  
dạy; Kết hợp học tập trực tuyến và F2F3.  
Như vậy, trong học tập kết hợp vai trò của  
Tại Việt Nam, một số tác giả đưa ra khái niệm CNTT-TT là tất yếu. Tuy nhiên, đó không phải là  
B-learning như sau. Tác giả Nguyễn Văn Hiền có hình thức tích hợp CNTT-TT đơn thuần vào quá  
đưa ra khái niệm “Học tập hỗn hợp” là để chỉ hình trình dạy và học mà quan trọng là cách sử dụng như  
thức kết hợp giữa cách học trên lớp với học tập có thế nào để đạt hiệu quả cao nhất và đem lại sự tiện  
sự hỗ trợ của công nghệ, học tập qua mạng4. Tác lợi nhất cho cả người dạy và người học.  
giả Nguyễn Danh Nam nhận định rằng: Sự kết hợp  
giữa E-learning với lớp học truyền thống trở thành  
một giải pháp tốt, nó tạo thành một mô hình đào tạo  
gọi là “Blended learning”5.  
1.3. Cấu trúc  
B-learning là sự tiến hoá hợp lý và tự nhiên  
trong tiến trình học tập. Nó chỉ ra một giải pháp  
để khắc phục hạn chế của dạy học E-learning và  
dạy học F2F. Nó là một cơ hội để tích hợp các sáng  
tạo và tiến bộ công nghệ, cụ thể là học tập trực  
tuyến E-learning, với sự kết hợp và tương tác tốt  
nhất với học tập F2F. Bằng cách áp dụng lý thuyết  
học tập của Keller, Gagne, Bloom, Merrill, Clark  
và Géry, M. Carman (2005) đưa ra năm thành phần  
chính là những yếu tố quan trọng của một quá trình  
B-learning như hình sau:  
Từ những cách định nghĩa trên, có thể hiểu một  
cách đơn giản, B-learning là sự phối hợp nội dung,  
phương pháp và cách thức tổ chức dạy - học giữa  
các hình thức học khác nhau nhằm tối ưu hóa thế  
mạnh mỗi hình thức, đảm bảo hiệu quả giáo dục đạt  
được là cao nhất. B-learning là sự kết hợp “hữu cơ”  
bổ sung lẫn nhau giữa hình thức F2F dưới sự hướng  
dẫn của giảng viên và hình thức E-learning với tính  
tự giác của người học thành một thể thống nhất, mà  
trong đó các phương pháp dạy học được vận dụng  
một cách linh hoạt để tận dụng tối đa các thế mạnh  
của CNTT-TT nhằm mang lại hiệu quả dạy - học  
tốt nhất6.  
Hình 1. Các thành phần chính của B-learning  
1.2. Đặc điểm  
Nghiên cứu của Osguthope & Graham (2003)  
đã chỉ ra sáu lí do để chọn thiết kế hoặc sử dụng  
một hệ thống học kết hợp là: (i) tính phong phú của  
sư phạm (ii) tiếp cận với sự hiểu biết (iii) sự tương  
tác xã hội (iv) hướng tới cá nhân (v) chi phí hiệu  
quả (vi) dễ dàng sửa đổi. Kết quả nghiên cứu của  
Graham, Allen & Ure (2003) cũng cho thấy, đa số  
người dân chọn B-learning vì ba lí do chính (i) hoàn  
thiện tính sư phạm (ii) tăng tính truy cập và sự linh  
hoạt (iii) tăng hiệu quả chi phí7.  
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu khoa học  
Đại học Văn Hiến, số 5 (11/2014)  
+ Live Event - Hoạt động đồng bộ: Các sự kiện  
đồng bộ là một “thành phần” chính của B-learning.  
Trong hoạt động đồng bộ, giảng viên hướng dẫn  
các sự kiện học tập trong đó tất cả học viên tham  
gia cùng một lúc.  
+ Self-Paced Learning - Tự học tập: Các sự kiện  
học tập không đồng bộ, người học tự hoàn thành  
các quá trình thu nhận kiến thức với tốc độ và thời  
gian học của mình, chẳng hạn như đào tạo dựa trên  
sự tương tác internet hoặc các thiết bị lưu trữ nội  
dung như CD, VCD, DVD, USB …  
Tác giả Victoria L. Tinio nhận định: “Không  
2.  
Victoria L. Tinio (Nhóm công tác e-ASEAN UNDP-APDIP dịch) (2003),  
unapcict.org, 30/09/2005.  
3.  
+ Collaboration - Cộng tác: Môi trường trong đó  
người học giao tiếp với người khác, ví dụ, e-mail,  
các cuộc thảo luận hoặc trò chuyện trực tuyến. Hiệu  
quả của hoạt động đồng bộ hoặc quá trình tự học sẽ  
được tăng cường khi tạo ra cơ hội cho sự hợp tác.  
Khi tạo ra một chương trình B-learning, nhà thiết  
kế nên tạo ra môi trường mà học viên và giảng viên  
có thể hợp tác đồng bộ trong các phòng trò chuyện  
Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press). Handbook of blended  
learning: Global Perspectives, local designs, chapter 11. San Francisco, CA:  
Pfeiffer Publishing  
4. Nguyễn Văn Hiền, (2008), Tổ chức “Học tập hỗn hợp” biện pháp rèn luyện  
kỹ năng sử dụng CNTT cho sinh viên trong dạy học sinh học, Tạp chí giáo  
dục số 192 năm 2008, trang 34; 43; 44  
5.  
Nguyễn Danh Nam, (2007), Các mức độ ứng dụng E - learning ở trường  
ĐHSP, Tạp chí giáo dục số 175, trang 41; 42; 43  
6. Trần Huy Hoàng, Nguyễn Kim Đào (2014), Tổ chức hoạt động dạy học theo  
B-learning đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo  
sau 2015, Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Văn Hiến, số 5 (11/2014)  
7. Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press). Handbook of blended learning:  
Global Perspectives, local designs, chapter 11. San Francisco, CA: Pfeiffer  
Publishing  
8.  
Victoria L. Tinio (Nhóm công tác e-ASEAN UNDP-APDIP dịch) (2003),  
unapcict.org, 30/09/2005.  
112  
Số 24 - Tháng 12 năm 2018  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
trực tuyến, hoặc không đồng bộ bằng cách sử dụng  
e-mail và các cuộc trao đổi thảo luận.  
- Trong các lớp bồi dưỡng CBCCVC người  
DTTS, các học viên là người DTTS của nhiều dân  
tộc khác nhau ở nhiều vùng miền, tính đa dạng về  
văn hóa trong các lớp bồi dưỡng này rất cao. Việc  
này đòi hỏi người giảng viên trực tiếp tham gia  
giảng dạy các lớp này phải có nhiều hiểu biết và trải  
nghiệm thực tiễn về văn hóa các dân tộc.  
+ Assessment - Đánh giá: Một thước đo kiến  
thức của người học. Đánh giá là một trong những  
thành phần quan trọng nhất của B-learning, vì hai  
lý do: Nó cho phép người học dễ dàng “kiểm tra”  
nội dung mà họ đã biết, để điều chỉnh quá trình  
B-learning của họ và thể hiện hiệu quả của tất cả  
các phương pháp, hoạt động học tập.  
- CBCCVC người DTTS đa phần ở các vùng có  
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, xa các trung tâm  
huyện lỵ, tỉnh lỵ. CBCCVC người DTTS thường  
có tâm lý tự ti, ngại đi học xa9, do vậy công tác bồi  
dưỡng cho đội ngũ này thường gặp nhiều khó khăn  
trong việc tuyển sinh đủ số lượng học viên để tổ  
chức lớp học. Ngoài ra, với tâm lý tự ti, việc học  
viên tham gia đóng góp ý kiến trực tiếp trên lớp học  
cũng ít, làm cho chất lượng các buổi học giảm đi  
khá nhiều.  
+ Performance Support Materials - Tài liệu  
hỗ trợ: là các thành phần quan trọng nhất của  
B-learning. Nó thúc đẩy sự “duy trì và chuyển giao  
học tập” với môi trường làm việc.  
1.4. Mô hình  
Trong E-learning, Internet vừa là môi trường  
phân phối tài nguyên học, vừa là nơi diễn ra các hoạt  
động dạy - học. Việc triển khai học qua mạng hiện  
nay còn gặp nhiều khó khăn do yếu tố khách quan  
như điều kiện cơ sở vật chất và chủ quan như trình  
độ và kỹ năng khai thác, sử dụng. Vì vậy B-learning  
là một giải pháp hiệu quả hiện nay. Mô hình học kết  
hợp được thể hiện như hình dưới:  
- CBCCVC người DTTS do đa phần ở các vùng  
có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, điều kiện  
tiếp xúc với các thiết bị hiện đại và internet ít, do  
vậy kỹ năng ứng dụng CNTT còn rất yếu. Đây là trở  
ngại lớn nhất khi áp dụng các chương trình học trực  
tuyến hoàn toàn (online learning).  
Hình 2. Mô hình B-learning  
- Đối với cơ sở giáo dục tổ chức các lớp bồi  
dưỡng CBCCVC người DTTS, thường phải tổ chức  
các lớp tại địa phương, xa với trụ sở chính của cơ  
sở. Do vậy, chi phí cho công tác khảo sát và thuê cơ  
sở vật chất cộng với chi phí giảng viên đi lại, ăn ở sẽ  
làm cho tổng kinh phí để tổ chức một lớp bồi dưỡng  
như vậy nâng lên rất nhiều. Chưa kể việc tổ chức  
lớp sẽ bị kéo dài thời gian, dẫn đến số lượng lớp bồi  
dưỡng đối tượng này trong một năm không nhiều.  
2.2. Các phương án học kết hợp ứng dụng cho  
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức người  
dân tộc thiểu số  
Có nhiều phương án học kết hợp được đưa ra  
dựa trên nội dung, phương pháp tiến hành và đặc  
điểm của từng môn học, chuyên đề. Việc học kết  
hợp được thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau. Một  
số nghiên cứu đưa ra bốn mức độ của sự kết hợp là:  
Kết hợp ở mức hoạt động (Activity level); kết hợp  
ở mức độ khóa học (Courrse level); kết hợp ở mức  
độ chương trình (Program level); kết hợp ở mức độ  
thể chế (Institutional level)10.  
Nguồn: Trần Huy Hoàng, Nguyễn Kim Đào (2014),  
Tổ chức hoạt động dạy học theo B-learning đáp ứng  
yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào  
tạo sau 2015, Tạp chí Nghiên cứu khoa học  
Đại học Văn Hiến, số 5 (11/2014)  
Theo hình 2, người học tham gia vào quá trình  
học tập bằng cách học giáp mặt trên lớp (nhóm,  
cá nhân, seminar, hội thảo); học hợp tác qua mạng  
máy tính (chat, blog, online, forum) và tự học (trực  
tuyến/ngoại tuyến, độc lập về không gian). Với mỗi  
nội dung, người học được học bằng phương pháp  
tốt nhất, phương tiện tốt nhất, hình thức phù hợp  
nhất và khả năng đạt hiệu quả cao nhất.  
Cách phân chia này chủ yếu dựa trên nội dung  
học được kết hợp. Dựa vào đó, tôi xin đề xuất  
những kiểu kết hợp áp dụng cho các chương trình  
bồi dưỡng CBCCVC người DTTS như sau:  
(i) Kết hợp về mặt phương pháp giữa các phương  
pháp dạy học khác nhau đối với từng nội dung học  
2. Đặc điểm công tác bồi dưỡng cán bộ, công  
chức, viên chức người dân tộc thiểu số và các  
phương án học kết hợp ứng dụng công tác này  
9. Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ,  
công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình  
đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ  
10.  
Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press). Handbook of blended  
2.1. Đặc điểm công tác bồi dưỡng cán bộ, công  
chức, viên chức người dân tộc thiểu số  
learning: Global Perspectives, local designs, chapter 11. San Francisco, CA:  
Pfeiffer Publishing  
Số 24 - Tháng 12 năm 2018  
113  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
và chuyên đề cụ thể;  
khi đó, đội ngũ CBCCVC người DTTS phải bám  
địa bàn thì công tác quản lý mới đạt hiệu quả, rất  
khó sắp xếp thời gian để tham gia các chương trình  
bồi dưỡng mang tính tập trung cao như vậy được.  
(ii) Kết hợp trong một khâu hoặc trong các khâu  
của quá trình dạy học;  
(iii) Kết hợp về mặt nội dung (trong một hoạt  
động, trong một bài, trong một phần, chuyên đề  
hoặc các chuyên đề có liên quan mật thiết về nội  
dung với nhau).  
- Về chuyên môn: Đối với các chương trình bồi  
dưỡng CBCCVC người DTTS, việc giảng dạy và  
học tập đòi hỏi rất lớn đối với việc trải nghiệm  
thực tiễn; kỹ năng tự cập nhật kiến thức và các văn  
bản pháp luật; kỹ năng nhận xét, phân tích, đánh  
giá và so sánh các kinh nghiệm thực tiễn. Những  
chương trình có các chuyên đề liên quan đến các  
kỹ năng như giao tiếp, làm việc nhóm, thu thập và  
xử lý thông tin, quản lý thời gian… người dạy cần  
phải dạy trực tiếp và cầm tay chỉ việc đối với đối  
tượng này. Mặt khác, so với người Kinh, năng lực  
đội ngũ CBCCVC người DTTS còn nhiều hạn chế,  
nhận thức hạn hẹp. Cộng thêm tâm lý tự ti, ngại đi  
học xa, ngại đi học dài hạn13, sẽ làm cho các lớp bồi  
dưỡng này đạt hiệu quả không cao. Đặc biệt đối với  
các lớp bồi dưỡng chung, thành phần lớp có cả cán  
bộ người Kinh lẫn người DTTS.  
Hình 3. Các hình thức kết hợp cho các chương  
trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS  
Vì vậy, việc tổ chức dạy-học các chương trình  
bồi dưỡng cho đối tượng CBCCVC người DTTS  
sẽ phát huy hiệu quả tốt khi áp dụng B-learning với  
những lý do sau đây:  
3. Lợi ích khi áp dụng B-learning cho các  
chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên  
chức người dân tộc thiểu số  
- Giảm chi phí đi lại, giảm thời gian tập trung:  
Việc ứng dụng CNTT-TT sẽ giúp cho người học  
tiếp cận các kiến thức lý thuyết chủ động hơn, các  
tài liệu dưới dạng multimedia cũng sẽ sinh động  
hơn làm cho người học dễ tiếp thu. Việc này sẽ giúp  
cho việc tổ chức dạy - học được rút ngắn thời gian  
phải tập trung ở lớp học. Có thể áp dụng cách thức  
tổ chức dạy - học không đồng bộ để áp dụng đối với  
các chuyên đề mang tính lý thuyết cao. Giảng viên  
đưa bài giảng, các tài liệu tham khảo, các câu hỏi,  
bài tập liên quan đến chuyên đề lên hệ thống. Học  
viên tham gia vào hệ thống để học các chuyên đề,  
trả lời các câu hỏi và bài tập trên hệ thống, đặt các  
câu hỏi thắc mắc đến chuyên đề để giảng viên phản  
hồi. Buổi học F2F, giảng viên chỉ cần giải thích cụ  
thể hơn các thắc mắc của học viên và đưa thêm các  
kinh nghiệm thực tiễn. Điều này sẽ giúp người học  
chủ động thời gian của mình trong công việc, không  
tốn quá nhiều thời gian tập trung tại một địa điểm  
để học tập.  
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta  
đã có nhiều chủ trương, chính sách xây dựng đội  
ngũ CBCCVC người DTTS, tuy nhiên, đội ngũ này  
vẫn còn mỏng cả về số lượng lẫn năng lực chuyên  
môn chưa ngang tầm nhiệm vụ11 và muốn tăng đội  
ngũ CBCCVC người DTTS cả về số lượng lẫn chất  
lượng, khâu đột phá đó chính là giáo dục - đào tạo12,  
mà trong đó bồi dưỡng là một thành phần không  
thể thiếu.  
Tuy nhiên, như đã phân tích tại phần đặc điểm  
của các lớp bồi dưỡng CBCCVC người DTTS ở  
trên, khi tổ chức các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ này  
theo cách tổ chức dạy học truyền thống trên thực tế  
thường có những khó khăn như sau:  
- Về khoảng cách địa lý: Các lớp bồi dưỡng,  
thông thường phải tổ chức ở trung tâm huyện lỵ  
hoặc tỉnh lỵ. Việc này sẽ làm tăng chi phí cho cán  
bộ tham gia lớp học.  
- Đảm bảo chất lượng về mặt chuyên môn: Việc  
trao đổi kiến thức qua không gian mạng, không tiếp  
xúc trực tiếp có thể hạn chế được nhược điểm tâm  
lý tự ti, ngại giao tiếp, ngại thể hiện ý kiến trực tiếp  
của cán bộ người DTTS. Đối với các chuyên đề  
mang tính thực tiễn, các chuyên đề kỹ năng (cần  
hướng dẫn cầm tay chỉ việc), B-learning vẫn có  
hình thức tổ chức dạy học F2F như đã đề xuất ở  
- Về thời gian: Các lớp bồi dưỡng theo phương  
thức tổ chức dạy học truyền thống bắt buộc học viên  
phải học đầy đủ chương trình bằng hình thức tập  
trung. Việc này dẫn đến việc cán bộ phải tạm gác  
công việc để tham gia các chương trình này. Trong  
11. Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ,  
công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình  
đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ  
12. http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/33180602-xay-dung-doi-ngu-  
can-bo-nguoi-dan-toc-thieu-so-tiep-theo-va-het.html  
13. Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ,  
công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình  
đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ  
114  
Số 24 - Tháng 12 năm 2018  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
trên. Việc này sẽ khắc phục được nhược điểm của thống E-Learning. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết  
E-learning đối với những chuyên đề này.  
các trường có tổ chức bồi dưỡng cán bộ, công chức,  
viên chức không có cơ chế, chính sách đãi ngộ cho  
các cán bộ chuyên trách này.  
- Đối với cơ sở giáo dục áp dụng B-learning cho  
đối tượng này: Có thể việc ứng dụng CNTT-TT vào  
thời gian đầu sẽ tốn rất nhiều kinh phí (đầu tư máy  
Với những khó khăn nêu trên, chúng tôi đề xuất  
móc, phương tiện, đào tạo giảng viên, chi phí xây một số giải pháp khắc phục như sau:  
dựng hệ thống website …), nhưng chỉ cần đầu tư  
một lần và có thể sử dụng được nhiều cho các lớp  
về sau. Nếu tổ chức theo hình thức dạy-học truyền  
thống, mỗi lần tổ chức lớp tại các địa phương ở xa  
trụ sở chính, cơ sở giáo dục sẽ tốn một lần kinh phí  
khảo sát, thuê cơ sở vật chất với kinh phí mỗi lần  
không hề nhỏ. Mặt khác, kinh phí đi lại, ăn ở cho  
giảng viên giảng dạy mà cơ sở giáo dục phải bỏ ra  
sẽ ít hơn rất nhiều. Việc này có thể giúp cơ sở giáo  
dục hạ kinh phí các lớp bồi dưỡng theo hình thức xã  
hội hóa, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước.  
Thứ nhất, các trường đại học, học viện (gọi tắt  
là các trường) cần xác định E-learning là một chiến  
lược trong giáo dục mới hướng tới xã hội học tập.  
Trong đó, đối với các trường được giao nhiệm vụ  
bồi dưỡng đội ngũ CBCCVC người DTTS, cần xem  
B-learning là một giải pháp hiệu quả khi áp dụng  
cho các chương trình bồi dưỡng nhằm nâng cao  
chấp lượng đội ngũ này.  
Thứ hai, tăng cường tập huấn về phương pháp,  
kĩ năng, sử dụng tổng hợp nhiều hợp phần để tạo  
bài giảng E-Learning cho các giảng viên tham gia  
chương trình bồi dưỡng có ứng dụng B-learning.  
4. Khó khăn khi áp dụng B-learning cho các  
chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên  
chức người DTTS và giải pháp khắc phục  
Thứ ba, các trường phải đầu tư trang thiết bị, hỗ  
trợ kinh phí cho giảng viên trong việc tạo bài giảng.  
Chi phí ban đầu có thể lớn đối với các trường, tuy  
nhiên những trang thiết bị này sẽ được sử dụng  
nhiều lần và tính chi phí so với tổng chi phí để khảo  
sát và thuê cơ sở vật chất của các lớp bồi dưỡng sẽ  
Khi áp dụng B-learning cho các chương trình  
bồi dưỡng CBCCVC người DTTS trong thực tiễn,  
chúng ta sẽ gặp phải một số khó khăn nhất định  
như sau:  
(i) Xây dựng nguồn tài nguyên bài giảng: Để tiết kiệm hơn nhiều.  
soạn bài giảng E-learning có chất lượng đòi hỏi  
tốn nhiều thời gian và công sức của giảng viên.  
Trong khi đó, hiện nay chưa có chế độ hỗ trợ cho  
giảng viên khi soạn giảng các bài giảng E-learning  
dành cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC  
người DTTS. Mặt khác, như đã phân tích ở phần  
E-learning, có nhiều giảng viên có năng lực tốt về  
chuyên môn và sư phạm nhưng năng lực ứng dụng  
CNTT-TT còn hạn chế nên không thể phát huy hết  
được năng lực đội ngũ này.  
Thứ tư, các trường cần trực tuyến hóa trường  
học bao gồm trực tuyến hóa về quản lí, điều hành,  
tác nghiệp và trực tuyến hóa về dạy học. Website  
trường học phải trở thành địa chỉ thân thiện với cán  
bộ, giảng viên, học viên. Hướng dẫn phương pháp  
tự học, học tập và trao đổi qua mạng cho người học.  
Đây là kĩ năng cần thiết để học tập các chương trình  
bồi dưỡng có áp dụng B-learning.  
Thứ năm, vai trò của giảng viên là rất quan trọng  
trong việc triển khai B-Learning. Vì vậy, giảng viên  
không chỉ nắm bắt được phương pháp học tập mà  
còn là người tạo ra bài giảng phục vụ cho giảng dạy,  
các bài giảng E-Learning phục vụ cho tự học của  
người học. Phải có hình thức đào tạo đội ngũ giảng  
viên đáp ứng yêu cầu dạy học hiện đại nhất: như có  
khả năng ứng dụng CNTT vào dạy học, có khả năng  
sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại, và quan  
(ii) Về phía người học: Như đã nêu ở các phần  
trên, cán bộ người DTTS vẫn còn bị ảnh hưởng của  
cách học thụ động truyền thống, thái độ học tập  
chưa cao, tâm lý tự ti, ngại đi học xa. Mặt khác, đối  
với đội ngũ này, kỹ năng ứng dụng CNTT-TT còn  
rất yếu, đặc biệt là các học viên người DTTS ở các  
vùng núi, vùng xâu vùng xa.  
(iii) Về cơ sở vật chất: Đòi hỏi phải có hạ tầng trọng hơn cả là năng lực tự học, tự nghiên cứu khoa  
CNTT đủ mạnh, có đường truyền cáp quang, xây học. Vì đó là nền tảng quan trọng để người giảng  
dựng Website trường học và Website E-Learning viên không bị tụt hậu so với thời đại.  
hoàn chỉnh chi phí cao, nếu không tận dụng hết khả  
năng của Web sẽ gây lãng phí. Đối với những lớp  
bồi dưỡng đặt tại địa phương, đặc biệt là địa phương  
ở vùng xâu vùng xa như đã đề cập ở trên, việc học  
viên tiếp cận với Internet và máy tính còn gặp nhiều  
khó khăn, cũng sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến quá  
trình dạy-học qua môi trường Internet.  
Thứ sáu, áp dụng B-learning có lộ trình đối  
với các lớp bồi dưỡng CBCCVC người DTTS đặt  
tại địa phương xa trụ sở chính của cơ sở giáo dục.  
Trước tiên, chỉ nên ứng dụng với các lớp đặt tại  
các trung tâm tỉnh lỵ như thành phố, thị xã hoặc tại  
các trung tâm huyện lỵ có điều kiện phát triển kinh  
tế-xã hội tốt. Áp dụng cho các lớp bồi dưỡng cán  
(iv) Về nhân lực phục vụ E–learning: Cần có bộ cấp cao trước (bồi dưỡng nhóm đối tượng 1 và  
cán bộ chuyên trách phục vụ sự hoạt động của hệ 2 theo quyết định số 771/QĐ-TTg ngày 26/6/2018  
Số 24 - Tháng 12 năm 2018  
115  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
Tài liệu tham khảo  
của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án  
“Bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với CBCCVC giai  
đoạn 2018-2025”), thực hiện và điều chỉnh nhiều  
lần để tích lũy kinh nghiệm tổ chức rồi mới áp dụng  
đối với các lớp bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch,  
bậc, vị trí việc làm khác (như chuyên viên chính,  
chuyên viên, bồi dưỡng cấp phòng, bồi dưỡng cấp  
xã, bồi dưỡng nhóm đối tượng 3 và 4 theo quyết  
định 771/QĐ-TTg nói trên).  
Cao Đức Hạnh, (2007), Tổng quan đào tạo  
trực tuyến với E-learning, Tạp chí Khoa học  
Công nghệ Hàng Hải - Đại học Hàng Hải, số  
10 (6/2007).  
Nguyễn Văn Hiền, (2008), Tổ chức “Học tập  
hỗn hợp” biện pháp rèn luyện kỹ năng sử  
dụng CNTT cho sinh viên trong dạy học sinh  
học, Tạp chí Giáo dục, số 192, trang 34; 43;  
44.  
Thứ bảy, trước khi thực hiện thí điểm, các trường  
phải ban hành các quy định bằng văn bản đối với tất  
cả các hoạt động liên quan đến việc dạy-học trên  
môi trường Internet. Sau khi thực hiện thí điểm, các  
trường phải tổng kết, rà soát các quy định để điều  
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Hằng năm, các  
trường phải thực hiện công việc này nhằm đảm bảo  
quyền lợi của người dạy và người học. Ngoài ra, các  
trường phải giao cho các Khoa chuyên môn, hàng  
năm đều phải có rà soát, đánh giá các bài giảng  
E-learning của các giảng viên để có điều chỉnh cho  
phù hợp thực tiễn cũng như phù hợp với các quy  
định trong việc tổ chức các chương trình bồi dưỡng  
nếu có thay đổi.  
Lê Huy Hoàng, Lê Xuân Quang, (2011),  
E-learning và ứng dụng trong dạy học, Đại  
học Sư phạm Hà Nội.  
Trần Huy Hoàng, Nguyễn Kim Đào, (2014), Tổ  
chức hoạt động dạy học theo B-learning đáp  
ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo  
dục và đào tạo sau 2015, Tạp chí Nghiên cứu  
Khoa học - Đại học Văn Hiến, số 5 (11/2014).  
Nguyễn Danh Nam, (2007), Các mức độ ứng  
dụng E - learning ở trường ĐHSP, Tạp chí  
Giáo dục, số 175, trang 41; 42; 43.  
Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press).  
Handbook of blended learning: Global  
Perspectives, local designs, chapter 11. San  
Francisco, CA: Pfeiffer Publishing.  
5. Kết luận  
E-learning là xu hướng tất yếu trong giai đoạn  
hiện nay, nhờ công nghệ này mọi người có ở bất kỳ  
nơi đâu, thời điểm nào đều có thể tham gia những  
khóa học tốt nhất được hướng dẫn bởi những giảng  
viên giỏi. Tuy nhiên, việc tổ chức hình thức dạy  
học truyền thống vẫn có những lợi thế nhất định  
đối với các lớp bồi dưỡng cán bộ công chức, viên  
chức. Chính vì vậy, đối với các lớp bồi dưỡng  
này, việc tận dụng tất cả các ưu điểm của dạy học  
truyền thống (F2F) và dạy học qua mạng bằng  
cách áp dụng hình thức B-learning sẽ đem lại hiệu  
quả tối ưu cho chất lượng bồi dưỡng nhằm góp  
phần nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC người  
DTTS, từ đó nâng cao chất lượng nền công vụ nói  
chung. Tuy vậy, khi ứng dụng CNTT-TT cho các  
chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS,  
các trường cần phải vạch ra cho đơn vị mình một  
lộ trình ứng dụng cụ thể, đồng thời ban hành các  
văn bản quy định liên quan đến các hoạt động này  
chứ không nên vội vàng triển khai đại trà, điều này  
có thể làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của  
các khóa bồi dưỡng.  
William Horton, (2011), E-learning by Design  
(Second Edition), San Francisco: Pfeiffer.  
Victoria L. Tinio (Nhóm công tác e-ASEAN  
UNDP-APDIP dịch), (2003), “Công nghệ  
thông tin và truyền thông (ICT) trong giáo  
UNESCO, (2010), ICT Transforming Education  
- A Regional Guide.  
Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_  
tr%E1%BB%B1c_tuy%E1%BA%BFn.  
News/125/0/1010070/0/40357/Xay_dung_  
doi_ngu_can_bo_cong_chuc_nguoi_dan_  
toc_thieu_so_Giai_phap_quan_trong_bao_  
dam_quyen_binh_dang (Trương Minh Dục,  
Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội  
ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu  
số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền  
bình đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ  
chức Nhà nước - Bộ Nội vụ).  
item/33180602-xay-dung-doi-ngu-can-bo-  
nguoi-dan-toc-thieu-so-tiep-theo-va-het.  
html (Lê Mậu Lâm và các cộng sự).  
116  
Số 24 - Tháng 12 năm 2018  
pdf 6 trang yennguyen 16/04/2022 1000
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng B-learning trong công tác bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức người dân tộc thiểu số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfung_dung_b_learning_trong_cong_tac_boi_duong_can_bo_cong_chu.pdf