Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay

TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014  
1
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ  
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY  
Phạm Công Nhất*  
Tóm tắt  
Giáo dục đại học là một trong những nội dung hết sức quan trọng của hầu hết các nền  
giáo dục quốc gia trong thế giới đương đại. Tại Việt Nam, công tác giáo dục đại học đã được  
Đảng và Nhà nước ta quan tâm và đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần phát triển  
nguồn nhân lực đất nước qua các thời kỳ cách mạng. Tuy vậy, trong bối cảnh đổi mới và hội  
nhập quốc tế hiện nay, giáo dục đại học ở nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn và những  
thách thức đòi hỏi cần có những giải pháp khắc phục căn bản và toàn diện, trong đó yếu tố hội  
nhập quốc tế được coi là một trong những giải pháp căn bản để đưa giáo dục đại học Việt Nam  
tiếp tục phát triển.  
Từ khóa: đổi mới giáo dục đại học, hội nhập quốc tế, giáo dục đại học Việt Nam.  
học1 nhưng qua các văn bản nghiên cứu đã  
1. Đặt vấn đề  
Giáo dục đại học là một trong những  
nội dung hết sức quan trọng của hầu hết các  
nền giáo dục quốc gia trong thế giới đương  
đại. Trong bối cảnh thế giới ngày càng xích  
lại gần nhau trong môi trường toàn cầu hóa,  
công tác tổ chức giáo dục đại học ở mỗi  
quốc gia do đó cũng cần phải thay đổi theo  
với các mức độ khác nhau cho phù hợp.  
Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập  
quốc tế chung của đất nước, giáo dục đại  
học Việt Nam cũng cần được đổi mới theo  
xu hướng hội nhập quốc tế với phương  
châm tiệm cận được những chuẩn chung  
của thế giới nhưng cũng cần giữ được  
những nét đặc thù của giáo dục đại học  
nước nhà trong bối cảnh đất nước đang hội  
nhập sâu rộng vào không gian chung của  
thế giới hiện nay.  
được công bố có thể hiểu giáo dục đại học  
là hình thức tổ chức giáo dục cho các bậc  
học sau giai đoạn bậc phổ thông với các  
trình độ đào tạo: gồm trình độ cao đẳng,  
trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ  
tiến sĩ.  
Xét về mặt lịch sử, nền giáo dục đại  
học đã xuất hiện ở nước ta cách đây trên cả  
nghìn năm2. Cho đến nay, lịch sử giáo dục  
đại học Việt Nam đã trải qua các nền giáo  
dục khác nhau: phong kiến, thuộc địa và  
chủ nghĩa thực dân mới (ở miền Nam Việt  
Nam trước 1975). Sự nghiệp giáo dục đại  
học trong cuộc cách mạng mới ở Việt Nam  
ra đời từ sau cách mạng Tháng Tám 1945  
cho đến nay đã gần 70 năm. Trong gần 70  
năm qua, giáo dục đại học Việt Nam đã đạt  
được những thành tựu hết sức quan trọng.  
Trong đó, thành tựu quan trọng nhất chính  
Giáo dục đại học (higher education)  
là giai đoạn giáo dục thường diễn ra ở các  
nghệ. Tại Việt Nam hiện nay, mặc dù chưa  
có định nghĩa chính thức về giáo dục đại  
_______________________  
1
Luật giáo dục đại học của Việt Nam năm 2012  
trong phần giải thích từ ngữ (Điều 4) không nêu  
định nghĩa về giáo dục đại học.  
2
Năm 1070 dưới triều vua Lý Nhân Tông đã cho  
xây dựng nhà Quốc Tử Giám dùng làm nơi mở  
khoa thi tuyển chọn nhân tài cho đất nước, đây  
được coi là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam.  
* PGS, TS, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN  
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN  
là nó đã góp phần tạo ra các thế hệ nguồn  
lực con người Việt Nam nhân tố quyết định  
đến thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải  
phóng dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng  
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước đây và  
cả nước hiện nay. Tuy nhiên, khi bước vào  
giai đoạn đổi mới và quá trình hội nhập  
quốc tế ngày càng sâu hơn thì nền giáo dục  
của chúng ta ngày càng bộc những bất cập  
và hạn chế. Trong bài báo này, chúng tôi  
chỉ phân tích sự hạn chế, bất cập của giáo  
dục đại học Việt Nam so với với xu hướng  
phát triển giáo dục đại học phổ biến trên  
thế giới hiện nay trên ba phương diện: mục  
tiêu, nội dung và phương pháp, hình thức tổ  
chức dạy học.  
và biết suy nghĩ (suy nghĩ có phương pháp  
– tư duy khoa học) để phát huy khả năng  
của người học có thể trở thành nhân tài.  
Như vậy rõ ràng là ngay cả khi chúng ta đổi  
mới mục tiêu giáo dục đại học thì mục tiêu  
này cũng không phù hợp với khả năng cũng  
như chất lượng thực tế của nền giáo dục đai  
học trong nước. Trong khi đó, rất nhiều  
quốc gia trên thế giới và ngay cả các quốc  
gia có nền giáo dục đại học tiên tiến khi đặt  
ra mục tiêu giáo dục bao giờ họ cũng nêu  
lên những ước nguyện rất thực tế. Theo  
Tiến sĩ Vũ Quang Việt3, các trường Đại học  
ở Mỹ tỏ ra nhún nhường hơn trong việc đặt  
ra mục tiêu của giáo dục đại học (cho hệ 4  
năm), tức là không đặt vấn đề đào tạo nhân  
tài, nhưng mục đích của họ phản ánh những  
điều nói ở trên. Một trường đại học danh  
tiếng ở Mỹ đã viết mục tiêu đại học của  
mình như sau: “Mục đích của môi trường  
giáo dục và sinh hoạt sinh viên là đào tạo  
những cá nhân thành đạt và công dân có  
trách nhiệm. Người tốt nghiệp cảm thấy tự  
tin trong việc tìm hiểu rộng rãi nhiều vấn  
đề và kinh nghiệm ở môi trường đại học  
hay ngoài đời, dù là học bất cứ ngành chuyên  
môn nào”. Chữ “thành đạt” (accomplished) có  
thể hiểu là có hiểu biết về tri thức cơ bản do  
đó tự tin, được sửa soạn kỹ càng để tự tin  
vào đời và vào thị trường lao động (kiếm  
sống cũng như phát triển tri thức). Nhưng  
mục đích đào tạo thành những “công dân  
có trách nhiệm” (responsiblecitizens) thì đã  
quá rõ4. Những mục tiêu như thế này thì  
hầu hết các trường đại học ở Việt Nam hiện  
nay ít đặt ra hoặc coi nhẹ nên cũng là một  
2. Thực trạng về mục tiêu, nội dung,  
phương pháp và hình thức tổ chức dạy  
học ở giáo dục đại học  
Về mục tiêu, một thời gian dài do  
nhiều nguyên nhân khác nhau nên chúng ta  
chưa chú trọng đúng mức đến việc đặt ra  
mục tiêu cho nền giáo dục của quốc gia  
trong đó có giáo dục đại học. Thời gian gần  
đây, mặc dù mục tiêu giáo dục đại học ở  
nước ta có sự thay đổi như quan niệm mục  
đích của giáo dục đại học là đào tạo nhân  
tài (Luật giáo dục Việt Nam năm 2012).  
Nhưng hiểu thế nào là nhân tài thì hiện nay  
quan niệm của chúng ta còn chưa thống nhất.  
Nếu coi nhân tài là người có sáng kiến, có khả  
năng, năng động đóng góp thêm một bước  
quan trọng vào sự phát triển dù trong lĩnh  
vực nghiên cứu lý luận hay hoạt động thực  
tiễn, nghĩa là nhân tài phải là những người  
nổi trội và hiếm trong xã hội thì mục tiêu  
này khó đặt ra đối với chất lượng thực tế  
của giáo dục đại học Việt Nam hiện nay.  
Trong thực tế, các trường đại học Việt Nam  
hiện nay nhiều lắm chỉ có khả năng trang bị  
cho người học (sinh viên, học viên hay  
nghiên cứu sinh…) kiến thức cơ bản, trang  
bị tinh thần phân tích độc lập, dám suy nghĩ  
3 Tiến sĩ kinh tế tại New York University, hin  
vụ trưởng VTài khon Quốc gia, Cc Thống  
kê Liên Hợp Quốc  
4
Vũ Quang Việt, So sánh chương trình giáo dục  
đại học Mỹ và Việt Nam – Kỷ yếu Hội thảo khoa  
học về tổ chức, quản lí giáo dục đại học, Đại học  
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014  
3
trong những nguyên nhân góp phần làm  
giảm chất lượng sản phẩm (người học) sau  
đào tạo.  
mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo  
giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước  
và quốc tế (trừ các chương trình liên kết  
đào tạo theo thỏa thuận) nên không những  
gây khó khăn cho người học khi muốn  
chuyển cơ sở giáo dục từ trong nước ra  
ngoài nước mà việc công nhận văn bằng,  
chứng chỉ được các cơ sở giáo dục trong  
nước tại các nước mà người học chuyển đến  
định cư hoặc công tác cũng rất khó khăn.  
Về nội dung, mặc dù những năm qua  
đã có nhiều cố gắng đổi mới, cải cách thay  
đổi nội dung giáo dục ở các cấp học theo  
hướng tiến bộ hơn, song nhìn chung so với  
một số nước trong khu vực và trên thế giới  
thì nền giáo dục của chúng ta vẫn còn lạc  
hậu, nhất là nội dung giáo dục ở bậc đại  
học. Nhìn tổng thể cho thấy, phần lớn nội  
dung và chương trình giáo dục các cấp hiện  
nay ở nước ta đều được biên soạn hoặc còn  
chịu ảnh hưởng bởi nội dung, chương trình  
giáo dục của các nước xã hội chủ nghĩa,  
đặc biệt là từ nền giáo dục Xô Viết (Liên  
xô cũ) trước đây. Một thời gian dài, những  
nội dung và chương trình giáo dục này khá  
phù hợp với nền giáo dục của nước ta và nó  
đã mang lại những thành tựu hết sức quan  
trọng. Tuy nhiên trong bối cảnh đổi mới và  
hội nhập quốc tế hiện nay thì nội dung  
chương trình giáo dục đại học nước ta hiện  
đã và đang bộc lộ rất nhiều bất cập và hạn  
chế, như:  
- Chương trình học còn nặng với thời  
lượng lớn. Một thống kê và so sánh cho  
thấy thời gian học 4 năm ở một lớp đại học  
tại Việt Nam là 2138 giờ so với Mỹ là 1380  
giờ5. Như vậy chương trình ở Việt Nam dài  
hơn 60% so với Mỹ. Với thời gian học  
nhiều như vậy nên khó trách người học rơi  
vào trạng thái luôn bị áp lực về việc hoàn  
thành các chương trình môn học, ít có thời  
gian để tự học, tự nghiên cứu hoặc tham gia  
vào các hoạt động xã hội khác. Nhìn chung,  
trong bối cảnh hội nhập quốc tế chương  
trình giáo dục đại học tại Việt Nam hiện  
nay đã tỏ ra lạc hậu, bất cập và kém hiệu  
quả. Đây cũng được coi là nguyên nhân cơ  
bản khiến nền giáo dục đại học Việt Nam  
đang có xu hướng tụt hậu hậu hiện nay.  
- Nội dung kiến thức đào tạo còn  
nặng về lí thuyết, nhẹ về thực hành, chưa  
tạo được sự thống nhất gắn mục tiêu giáo  
dục với mục tiêu tìm kiếm việc làm đối với  
người học.  
Về phương pháp và hình thức tổ chức  
dạy học đại học ở nước ta hiện nay nhìn  
chung chưa tiếp cận được các phương pháp  
và hình thức tổ chức dạy học đại học phổ  
biến của thế giới. Với mục tiêu “nhấn mạnh  
đến kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc  
sống hơn là tập trung vào việc làm đầy kiến  
thức đã có sẵn”, nên việc áp dụng các  
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học  
của các trường đại học hiện nay trên thế  
giới thường rất linh hoạt dựa trên tinh thần  
đề cao vai trò của người học, tạo điều kiện  
tối đa cho người học có thể tự học, tự  
- Chưa tạo được sự liên thông giữa  
các chuẩn mực giáo dục đại học trong nước  
và quốc tế. Mặc dù đặt dưới sự quản lí và  
giám sát chặt chẽ của Bộ Giáo dục và Đào  
tạo nhưng trên thực tế khả năng liên thông  
kiến thức giữa các cơ sở giáo dục đại học ở  
nước ta hiện nay còn rất hạn chế, ít thừa  
nhận và tiếp nhận các kết quả đào tạo của  
nhau nên người học rất khó khăn khi  
chuyển trường, chuyển ngành học. Việc  
liên thông kiến thức giữa các cơ sở giáo  
dục đại học trong nước và ngoài nước lại  
càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về  
5
Vũ Quang Việt, So sánh chương trình giáo dục  
đại học Mỹ và Việt Nam – Tài liệu đã dẫn, tr. 3.  
4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN  
nghiên cứu. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện  
nay do quan niệm “nền giáo dục cần trang  
bị cho người học một lượng kiến thức càng  
nhiều càng tốt để họ có thể có một nền tảng  
vững chãi khi ra trường”6 nên vai trò, vị trí  
của người học chưa thực sự được quan tâm.  
Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy  
học còn khá lạc hậu. Kết quả khảo sát thực  
năm 2006 có phần nhận xét về phương  
pháp dạy và học đại học của Việt Nam như  
sau: “Phương pháp giảng dạy không hiệu  
quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình  
và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết  
quả là có ít sự tương tác giữa sinh viên và  
giảng viên trong và ngoài lớp học; Quá  
nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu  
thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc  
học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao (như  
phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là  
học hời hợt thay vì học chuyên sâu; Sinh  
viên học một cách thụ động7. Mặc dù,  
những năm gần đây theo chủ trương của Bộ  
Giáo dục và Đào tạo, nhiều trường đại học,  
cao đẳng trong cả nước đã bắt đầu áp dụng  
phương pháp giảng dạy cho sinh viên theo  
phương thức tín chỉ nhưng theo nhiều  
chuyên gia đánh giá: “đào tạo tín chỉ ở Việt  
Nam hiện chưa thực sự đúng với tinh thần  
của tín chỉ. Cách dạy, học vẫn còn chưa  
thoát khỏi tinh thần niên chế. Tính chủ  
động của sinh viên còn yếu kém”8. Sự đổi  
mới về phương pháp giảng dạy trong các  
trường đại học ở nước ta hiện nay nhiều khi  
chỉ mang tính hình thức. Thiết bị giảng dạy  
như: máy chiếu, video ... chỉ là phương tiện  
hỗ trợ để nâng cao chất lượng giảng dạy  
nhưng quan trọng hơn cả là việc ý thức  
được giáo dục phải mang tính sáng tạo, tinh  
thần trách nhiệm thể hiện qua việc cải tiến  
về phương pháp và chương trình học thì  
vẫn chưa được chú trọng.  
Các bất cập, yếu kém trên đây đang  
góp phần tạo ra sự tụt hậu trong giáo dục  
đại học ở Việt Nam và sự tụt hậu này đã và  
đang tác động tiêu cực đến nhiều mặt khác  
nhau trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội:  
Một là, chất lượng nguồn nhân lực  
sau đào tạo chưa chưa đáp ứng được yêu  
cầu của thực tế. Theo một nghiên cứu tại 60  
doanh nghiệp trong lĩnh dịch vụ công  
nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh khi  
khảo sát về “Đánh giá mức độ hài lòng của  
doanh nghiệp về chất lượng của sinh viên  
được đào tạo trong 5 năm đầu tiên sau khi  
tốt nghiệp (đánh giá dựa trên các tiêu chí  
kiến thức lý thuyết, kỹ năng thực hành,  
trình độ ngoại ngữ, tác phong làm việc và  
năng lực nghề nghiệp) cho thấy chỉ có 5%  
trong tổng số sinh viên tham gia khảo sát  
được đánh giá ở mức độ tốt, 15% mức độ  
khá, 30% mức độ trung bình và 40% mức  
độ không đạt9. Kết quả này không chỉ phản  
ánh yếu kém trong giáo dục đại học ở Việt  
Nam hiện nay mà gián tiếp chỉ báo một  
nguy cơ cho thấy trong điều kiện các doanh  
nghiệp đã và đang sử dụng công nghệ tự  
động trong quản lý nhân lực, nếu lao động  
Việt Nam không tích cực nâng cao trình độ  
chuyên môn, rèn luyện tác phong công  
nghiệp, tính kỷ luật, chuyên nghiệp sẽ tụt  
hậu so với các nước khác trong khu vực.  
Hai là, hạn chế về khả năng nghiên  
cứu và công bố các kết quả nghiên cứu.  
Hầu hết các nền giáo dục tiên tiến của các  
quốc gia trong khu vực và trên thế giới hiện  
nay đều có khả năng tạo ra một đội ngũ các  
6 Lê Minh Khôi: Giáo dục Việt Nam - nguy cơ tụt  
hậu khi ra trường (http://huc.edu.vn)  
7
Ngô Tứ Thành: Cần đổi mới cách giảng dạy ở  
đại học, dantri.com.vn, ngày 12/3/2010.  
Mỹ Quyên: Đào tạo tín chỉ ở Việt Nam còn  
nhiều bất cập, Báo Thanh niên, ngày 14/2/2012  
8
9 Doanh nghiệp “chấm điểm” sinh viên ( Báo Tuổi  
trẻ online, ngày 22/5/2014)  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014  
5
nhà khoa học đông đảo có khả năng nghiên  
cứu và công bố các kết quả nghiên cứu  
trong nước và quốc tế với số lượng lớn.  
Cùng với xu thế hội nhập, số lượng và chất  
lượng ấn phẩm khoa học quốc tế trở thành  
thước đo quan trọng, chỉ số khách quan  
không chỉ phản ánh sự phát triển khoa học  
công nghệ cũng như hiệu suất khoa học mà  
còn phản ánh trình độ và chất lượng thực tế  
nền giáo dục của mỗi quốc gia. Tại Việt  
Nam những năm gần đây mặt dù đã có sự  
quan tâm của của nhiều cơ sở giáo dục  
trong việc tạo cơ chế khuyến khích các nhà  
khoa học tập trung nghiên cứu và công bố  
các kết quả nghiên cứu trong nước và quốc  
tế nhưng kết quả vẫn còn hạn chế. Nếu so  
sánh với các kết quả nghiên cứu và công bố  
các kết quả nghiên cứu của nhiều quốc gia  
trong khu vực và trên thế giới thì khả năng  
của chúng ta còn nhiều hạn chế, thậm chí  
có xu hướng ngày càng tụt hậu xa hơn.  
Theo thống kê của Viện thông tin khoa học  
(ISI), trong 15 năm qua (1996-2011) Việt  
Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học  
công bố trên các tập san quốc tế có bình  
duyệt, bằng khoảng một phần năm của Thái  
Lan (69.637), một phần sáu của Malaysia  
(75.530), và một phần mười của Singapore  
(126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam  
gấp 17 lần Singapore, ba lần Malaysia và  
gần gấp rưỡi Thái lan. Việt Nam hiện nay  
có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư,  
24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ mà số  
ấn phẩm khoa học của cả nước trong vòng  
15 năm qua chưa bằng 1/5 số công bố của  
trường Đại học Tokyo (69,806 ấn phẩm) và  
một nửa của trường Đại học quốc gia  
Singapore (28,070 ấn phẩm)10.Không chỉ  
khiêm tốn về số lượng, chỉ số ảnh hưởng  
của các công trình nghiên cứu khoa học của  
Việt Nam cũng thấp nhất so với những  
nước trong khu vực. Thứ hạng khiêm tốn  
này cũng nhất quán với số bằng sáng chế  
được đăng ký ở Mỹ và chỉ số sáng tạo do Tổ  
chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) xếp hạng.  
Có nhiều nguyên nhân cho tình trạng  
trên nhưng nguyên nhân sâu xa lại bắt  
nguồn từ tình trạng hạn chế, bất cập trong  
việc tổ chức giáo dục đại học ở nước ta ngay  
từ đầu đã ít có khả năng tạo ra một đội ngũ  
các nhà khoa học có khả năng đáp ứng đầy  
đủ cả về số lượng và chất lượng nghiên cứu.  
Ba là, làm giảm khả năng cạnh tranh  
của nền kinh tế của đất nước trong điều  
kiện hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, sự  
bất cập, hạn chế trong giáo dục đại học ở  
nước ta hiện nay không chỉ tác động trực  
tiếp đến việc làm suy giảm chất lượng  
nguồn nhân lực mà sâu xa hơn có thể làm  
suy giảm đến khả năng cạnh tranh toàn cầu  
của nền kinh tế đất nước trong điều kiện  
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Theo  
Báo cáo về Tính Cạnh tranh năng lực toàn  
cầu 2013-2014 được thực hiện với 148  
nước của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)  
thì Tính hiệu quả của hệ thống giáo dục  
Việt Nam được xếp ở vị trí 67/144. Ở hạng  
mục Giáo dục đại học và đào tạo, Việt Nam  
đứng thứ 95 trong bảng xếp hạng, thứ 7  
trong các nước ASEAN:sau Singapore (2),  
Malaysia (46), Brunei (55), Thái Lan (66),  
Indonesia (64), Philippines (67). Điều đáng  
nói là phần liên quan đến giáo dục được  
WEF xếp vào tiêu chí thứ 4 (sức khỏe và  
giáo dục cơ sở) và 5 (chất lượng giáo dục  
và đào tạo cấp cao) trong số 12 tiêu chí  
then chốt giúp hiệu quả cạnh tranh của nền  
kinh tế11.  
Có thể, những con số so sánh trên  
đây chưa phản ánh đầy đủ và thực chất của  
11  
10 Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Đại học New South  
Giáo dục Việt Nam thua cả Campuchia (Người  
Wales, Australia  
lao động online, ngày 06/09/2013)  
6
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN  
giáo dục Việt Nam hiện nay nhưng nó cũng  
là hồi chuông cảnh tỉnh nhắc nhở chúng ta  
cần có ngay các giải pháp để đổi mới có  
hiệu quả giáo dục nước nhà trong đó có  
giáo dục đại học nếu không muốn nó ngày  
càng tụt hậu xa hơn so với các quốc gia  
trong khu vực và trên thế giới.  
phát triển chung của giáo dục quốc tế.  
Thứ hai, việc đổi mới tư duy giáo dục  
hiện nay cần“gắn với xây dựng xã hội học  
tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất  
lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ  
hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ  
thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định  
hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.  
Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt  
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”13  
như Nghị quyết Trung ương 8, Khóa XI  
của Đảng khẳng định thì các cấp, các  
ngành, trước hết là Bội Giáo dục và Đào  
tạo cần có sự thay đổi một cách mạnh mẽ  
về tư duy trong tổ chức giáo dục đại học,  
như: thay đổi cách tuyển sinh lựa chọn  
“đầu vào” theo hướng thoáng hơn, cho  
phép các cơ sở giáo dục đại học tự đặt ra  
các tiêu chuẩn tuyển sinh và chịu trách  
nhiệm với người học bằng chính “uy tín”  
của mình, cho phép hình thành nhiều mô  
hình đào tạo đại học khác nhau, kiểm soát  
chặt chẽ “đầu ra” của mỗi cơ sở đào tạo để  
đảm bảo chất lượng chung v.v..  
3. Các giải pháp đề xuất đổi mới giáo dục  
đại học  
Cùng với quá trình đổi mới đất nước  
nói chung vấn đề đổi mới nền giáo dục  
nước nhà trong đó có giáo dục đại học Việt  
Nam hiện nay luôn được Đảng và Nhà  
nước ta quan tâm. Văn kiện Đại hội XI của  
Đảng khẳng định “Đổi mới căn bản và toàn  
diện giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn  
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá  
và hội nhập quốc tế”12. Ngày 4/11/2013,  
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản  
Việt Nam tiếp tục ra Nghị quyết Số: 29-  
NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện  
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công  
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện  
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  
nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó đã nêu  
chín giải pháp cho việc đổi mới giáo dục  
toàn diện. Từ chín giải pháp mang tính định  
hướng trên đây, đồng thời căn cứ vào  
những kết quả phân tích từ phần đầu bài  
viết chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải  
pháp và khuyến nghị nhằm tiếp tục đổi mới  
hơn nữa giáo dục đại học Việt Nam trong  
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.  
Thứ ba, đối mới mạnh mẽ nội dung  
chương trình và phương pháp dạy học theo  
hướng hội nhập quốc tế. Về nội dung  
chương trình và giáo trình cần được tổ chức  
xây dựng và triển khai theo hướng mở (cho  
phép cập nhật thường xuyên về kiến thức  
trong và ngoài nước, sử dụng giáo trình,  
học liệu trong nước hoặc ngoài nước một  
cách linh hoạt để giảng dạy cho người học),  
nội dung giảng dạy phải gắn chặt và phù  
hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề  
mà người học đang theo đuổi. Về phương  
pháp, tích cực sử dụng đa dạng các phương  
pháp dạy học theo nguyên tắc “lấy người  
học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ giảng  
Thứ nhất, cần xây dựng triết lý giáo  
dục cho nền giáo dục nước nhà trong giai  
đoạn hiện nay, đồng thời mỗi trường đại  
học, mỗi cơ sở giáo dục cũng cần có triết lý  
giáo dục riêng phù hợp với tôn chỉ, mục  
đích và hướng tới hội nhập vào dòng chảy  
13  
12 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại  
biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị Quốc  
gia, Hà Nôi, 2011, tr.130-131.  
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị  
Ban chấp hành Trung ương lần thứ Tám (Khóa  
XI). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014  
7
trên lớp để người học có thời gian tự học và  
tự nghiên cứu. Cố nhiên, các cơ sở đào tạo  
cần thường xuyên thực hiện việc kiểm tra,  
đánh giá khách quan, chặt chẽ để đảm bảo  
tính hiệu quả của việc dạy và học.  
các hoạt động về chuyên môn tại các cơ sở  
giáo dục đại học. Trước mắt nhà nước, các  
cơ sở giáo dục đại học cần có các cơ chế  
chính sách động viên, khuyến khích các  
nhà khoa học nghiên cứu và tích cực công  
bố quốc tế các kết quả nghiên cứu. Về lâu  
dài cần đặt ra lộ trình (đối với mỗi cơ sở  
giáo dục đại học khác nhau cần có những lộ  
trình khác nhau) tiến tới quốc tế hóa các  
tiêu chuẩn đánh giá các hoạt động khoa học  
và các hoạt động về chuyên môn trong tất  
cả các cơ sở giáo dục đại học, đồng thời  
cần coi đây là giải pháp quan trọng để đưa  
giáo dục đại học Việt Nam hội nhập sâu  
hơn vào môi trường quốc tế  
Thứ tư, đổi mới vai trò của các cơ  
quan quản lý nhà nước trong tổ chức giáo  
dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc  
tế. Theo đó, về mặt pháp lý cần tiếp tục bổ  
sung, hoàn thiện các quy định về pháp luật  
đối với các hoạt động giáo dục đại học  
trong điều kiện hội nhập quốc tế. Các cơ  
quan quản lí nhà nước mà trực tiếp là Bộ  
Giáo dục và Đào tạo cần thay đổi cách tư  
duy về quản lí đối với các hoạt động giáo  
dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc  
tế. Thay vì trực tiếp quản lí toàn diện đối  
với các cơ sở giáo dục đại học thì các cơ  
quan quản lí nhà nước chỉ nên đóng vai trò  
là các cơ quan “tài phán”, định hướng các  
hoạt động theo luật pháp, đồng thời tạo  
điều kiện để cho các cơ sở giáo dục đại học  
được độc lập, tự chủ hơn trong các hoạt  
động. Cần tránh lối tư duy quản lý theo lối  
áp đặt, hoặc “bao cấp” đối với các hoạt  
động giáo dục đại học trong điều kiện hội  
nhập quốc tế hiện nay.  
4. Kết luận  
Có vai trò và vị trí hết sức quan trọng  
trong nền giáo dục nói chung, giáo dục đại  
học Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cần  
có sự đổi mới toàn diện cả về mục tiêu, nội  
dung và phương pháp thực hiện. Trên cơ sở  
phân tích thực trạng và chỉ rõ các nguyên  
nhân hạn chế, bất cập bài viết này đã mạnh  
dạn đề xuất một số giải pháp đổi mới giáo  
dục đại học Việt Nam trong điều kiện mới,  
trong đó đặc biệt nhấn mạnh một số giải  
pháp hướng tới xây dựng một nền giáo dục  
đại học Việt Nam mở đáp ứng tốt các yêu  
cầu phát triển của quốc gia trong điều kiện  
mới và hội nhập quốc tế.  
Thứ năm, tăng cường các hoạt động  
nghiên cứu và công bố quốc tế tiến tới quốc  
tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá khoa học và  
Abstract  
Innovation of Higher Education towards Global Integration  
in our Country Today  
Higher education is one of the crucial contents in most of the national educational  
systems in the contemporary world. In Vietnam, higher education has been the Party and State's  
interest and has obtained significant achievements contributing to human resource development  
for the country through the revolutionary periods. However, in the context of current innovation  
and global integration, our country’s higher education is facing many difficulties and  
challenges requiring fundamental and comprehensive corrective solutions, among which, the  
factor of international integration is considered one of the key measures to enable Vietnam  
higher education to develop more and more.  
Keywords: higher education innovation, international integration, Vietnam Higher Education  
pdf 7 trang yennguyen 16/04/2022 4800
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_giao_duc_dai_hoc_theo_huong_hoi_nhap_quoc_te_o_nuoc.pdf