Trọng tài thương mại quốc tế và vấn đề luật áp dụng

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ  
VÀ VẤN ĐỀ LUẬT ÁP DỤNG1  
Ngô Quốc Chiến*  
Nguyễn Hoàng Anh**  
* PGS. TS. Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương  
** Giám đốc CTTNHH Du Lịch và Thương mại Anh Minh  
Thông tin bài viết:  
Tóm tắt:  
Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp rất mềm  
dẻo ở nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, cũng chính tính mềm dẻo này lại đặt ra  
các vấn đề về luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài, tố tụng trọng tài,  
nội dung tranh chấp… Việc phân định những trường hợp, hay những nội  
dung mà các bên có thể thỏa thuận chọn luật áp dụng với những nội dung  
mà các bên không thể chọn luật áp dụng cũng đáng được lưu tâm. Ngoài  
ra, một câu hỏi khác cũng cần được đặt ra: đối với những vấn đề mà các  
bên không được quyền chọn luật áp dụng và trong những trường hợp các  
bên được quyền chọn nhưng đã không chọn luật áp dụng thì liệu trọng  
tài có phải áp dụng quy phạm xung đột để xác định luật áp dụng như tòa  
án hay không? Khi áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp thì ai phải  
chứng minh nội dung pháp luật và liệu trọng tài có phải tính đến trật tự  
công hay không, và nếu có thì đó là trật tự công của nước nào? Pháp luật  
trọng tài thương mại của Việt Nam dường như chưa quan tâm thích đáng  
đến các khía cạnh quốc tế của các tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng  
tài nên chưa hoặc không có câu trả lời thỏa đáng cho các câu hỏi trên.  
Từ khóa: Tố tụng trọng tài, luật  
áp dụng, trật tự công.  
Lịch sử bài viết:  
Nhận bài  
Biên tập  
Duyệt bài  
: 20/11/2020  
: 03/12/2020  
: 07/12/2020  
Article Infomation:  
Abstract:  
Commercial arbitration is a very flexible method of dispute resolution  
under several aspects. However, this flexibility raises concerned  
matters of law application to the arbitration agreement, arbitration  
proceedings, dispute contents etc. It deserves the concerns to the  
delimitation of cases or contents, for which the parties may agree to  
select the applicable law and those that the parties may not select the  
applicable laws. In addition, another concern should also be raised: For  
the cases where the parties are not allowed to choose the applicable law  
and in cases where the parties in the option but have not selected the  
applicable law, whether the arbitrator has a must to apply the conflicting  
code to determine applicable law like the courts? When applying the  
law to settle the disputes, who must prove the content of the law and  
whether the arbitration must take into account public order, and if so,  
the public order of which country? Vietnam’s commercial arbitration  
regulations do not seem to pay adequate attention to the international  
aspects of the disputes that can be resolved by arbitration, so there is  
no or no satisfactory answer to the above questions  
K e y w o rd s : A r b i t r a t i o n  
proceedings, applicable law,  
public order  
Article History:  
Received  
Edited  
: 20 Nov. 2020  
: 03 Dec. 2020  
: 07 Dec. 2020  
Approved  
21  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
1. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với  
thỏa thuận trọng tài  
gồm cả năng lực chủ thể của các bên giao  
kết hợp đồng, hay chỉ điều chỉnh nội dung  
của hợp đồng.  
Trọng tài thương mại (trọng tài) không  
có thẩm quyền đương nhiên như tòa án quốc  
gia, mà chỉ có thẩm quyền khi các bên được  
quyền chọn và đã minh thị lựa chọn trọng  
tài. Chính các bên trong tranh chấp, bằng  
một thỏa thuận trọng tài, là những người  
trao quyền xét xử cho một hội đồng trọng  
tài cụ thể. Tuy nhiên, cũng giống như mọi  
thỏa thuận dân sự khác, thỏa thuận trọng tài  
chỉ phát sinh hậu quả pháp lý, tức là trao  
quyền xét xử cho trọng tài, khi thỏa thuận  
trọng tài đó hợp pháp. Và như vậy, câu hỏi  
tất yếu sẽ phải được đặt ra liên quan đến  
tính hợp pháp của thỏa thuận trọng tài, đó  
chính là thỏa thuận trọng tài phải phù hợp  
với pháp luật nước nào? Cần phân biệt ít  
nhất hai nhóm điều kiện liên quan đến năng  
lực chủ thể của các bên tham gia ký kết thỏa  
thuận trọng tài và nội dung của thỏa thuận  
trọng tài.  
Liên quan đến thỏa thuận trọng tài, dù  
là một điều khoản nằm trong hợp đồng hay  
một văn bản riêng rẽ, thì cũng đều mang  
bản chất hợp đồng, Luật Trọng tài thương  
mại năm 2010 dường như mới chỉ quan tâm  
đến loại thỏa thuận trọng tài giữa các bên  
tranh chấp không có yếu tố nước ngoài. Cụ  
thể, Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm  
2010 quy định các trường hợp thỏa thuận  
trọng tài vô hiệu; theo đó, “người xác lập  
thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền  
theo quy định của pháp luật” (khoản 2).  
Quy định này không cho biết “theo quy  
định của pháp luật nước nào” khi mà các  
bên tham gia thỏa thuận có quốc tịch/trụ  
sở ở các nước khác nhau. Sau đó, khoản 3  
cũng quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu  
nếu “Người xác lập thỏa thuận trọng tài  
không có năng lực hành vi dân sự theo quy  
định của Bộ luật Dân sự”. Như vậy, Luật  
Trọng tài thương mại đã không có quy định  
chuyên biệt về năng lực chủ thể mà quy dẫn  
đến các quy định chung của Bộ luật Dân sự  
(BLDS). Liên quan đến thỏa thuận trọng tài  
giữa các bên có quốc tịch/trụ sở khác nhau  
(tức là có yếu tố nước ngoài) thì sẽ làm phát  
sinh vấn đề xung đột pháp luật và khi đó  
sẽ phải được giải quyết theo Phần V, BLDS  
năm 2015, đặc biệt các Điều 673, 674 đối  
với cá nhân và Điều 675 đối với pháp nhân.  
Tuy nhiên, một vấn đề cần được đặt ra đó  
là liệu trọng tài có phải áp dụng quy phạm  
xung đột vốn dành cho tòa án hay không?  
Đây là một câu hỏi không dễ trả lời.  
1.1. Năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài  
Một thỏa thuận chỉ hợp pháp khi các  
bên tham gia ký kết thỏa thuận đó có năng  
lực đầy đủ. Thực tiễn cho thấy, các bên  
thường thỏa thuận chọn luật để áp dụng đối  
với hợp đồng của mình. Tuy nhiên, luật mà  
các bên lựa chọn đó có điều chỉnh tất cả các  
khía cạnh của hợp đồng hay chỉ điều chỉnh  
nội dung của hợp đồng? Liệu các bên có thể  
thỏa thuận chọn pháp luật điều chỉnh năng  
lực của mình hay không? Pháp luật Việt  
Nam cũng như pháp luật nhiều nước không  
có quy định rõ ràng đối với vấn đề này. Cụ  
thể, đối với hợp đồng nói chung, pháp luật  
Việt Nam quy định, “các bên trong quan hệ  
hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp  
luật áp dụng đối với hợp đồng” (khoản 1  
Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015). Quy  
định này không cho biết pháp luật mà các  
bên lựa chọn sẽ được áp dụng để điều chỉnh  
tất cả những gì liên quan đến hợp đồng, bao  
Trong thực tiễn xét xử, một trung tâm  
trọng tài của Việt Nam đã áp dụng quy phạm  
xung đột của Việt Nam, trong một vụ tranh  
chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán cá giữa  
một doanh nghiệp Việt Nam và một doanh  
nghiệp Tây Ban Nha. Trước Hội đồng trọng  
1. “Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề  
tài mã số 505.01-2020.02”.  
22  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
tài trong khuôn khổ Trung tâm trọng tài V,  
bị đơn doanh nghiệp Việt Nam cho rằng hợp  
đồng vô hiệu do doanh nghiệp Tây Ban Nha  
không có đủ năng lực (và như vậy bản thân  
thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng cũng có  
thể bị vô hiệu). Tuy nhiên, Hội đồng trọng  
tài V đã quyết định rằng vấn đề năng lực  
cần được xác định theo luật quốc tịch2. Cụ  
thể, Hội đồng trọng tài V cho rằng: “Thực  
ra, khoản 1 Điều 765 BLDS năm 2005 quy  
định… [trích nội dung Điều 765]. Do đó,  
việc xác định doanh nghiệp có tư cách pháp  
nhân hay không cũng không nên được xác  
định theo pháp luật Việt Nam mà nên “theo  
pháp luật của nước nơi pháp nhân đó thành  
lập”3. Như vậy, trọng tài đã áp dụng quy  
phạm xung đột của Việt Nam để xác định  
luật điều chỉnh năng lực chủ thể.  
lực của hợp đồng nói chung và của thỏa  
thuận trọng tài nói riêng phải luôn được xác  
định theo pháp luật của nước mà mỗi bên  
có quốc tịch hoặc có trụ sở. Năng lực chủ  
thể không thuộc lĩnh vực mà các bên được  
quyền chọn luật áp dụng để điều chỉnh. Khi  
đứng trước vấn đề về năng lực chủ thể ký  
kết thỏa thuận trọng tài, trọng tài sẽ phải  
dựa vào luật của nước mà các bên có quốc  
tịch hoặc trụ sở, chứ không dựa vào luật mà  
các bên lựa chọn áp dụng đối với hợp đồng.  
1.2. Đối tượng của thỏa thuận trọng tài  
Liên quan đến đối tượng của thỏa thuận  
trọng tài, tức là loại tranh chấp mà các bên  
muốn trọng tài xét xử, điều cần quan tâm đó  
chính là tranh chấp mà các bên dự kiến lựa  
chọn trọng tài để giải quyết có thuộc loại được  
pháp luật quy định thuộc thẩm quyền giải  
quyết tranh chấp đối với trọng tài hay không.  
Trên bình diện quốc tế, Công ước New  
York năm 1958 mà Việt Nam là thành viên  
có quy định một cách gián tiếp về pháp luật  
điều chỉnh năng lực của các bên tham gia  
thỏa thuận trọng tài tại Điều 5 nhằm phục  
vụ cho việc công nhận và thi hành phán  
quyết trọng tài nước ngoài. Cụ thể, việc  
công nhận và thi hành quyết định có thể bị  
từ chối khi chứng minh được rằng “các bên  
của thỏa thuận […], theo luật áp dụng đối  
với các bên, không có đủ năng lực, hoặc  
thỏa thuận nói trên không có giá trị theo luật  
mà các bên chịu sự điều chỉnh, nếu không  
có chỉ dẫn về điều này, theo luật của Quốc  
gia nơi ra quyết định”4. Một nghiên cứu so  
sánh tư pháp quốc tế5 cho thấy, đa số các  
quốc gia trên thế giới hiện nay đều quy định  
năng lực chủ thể chịu sự điều chỉnh của luật  
quốc tịch/nơi cư trú.  
Điều 2 Luật Trọng tài thương mại  
(TTTM) quy định về thẩm quyền giải quyết  
tranh chấp của trọng tài. Theo đó, trọng tài  
chỉ có thẩm quyền giải quyết: “1. Tranh chấp  
giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương  
mại; 2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên  
trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương  
mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp  
luật quy định được giải quyết bằng trọng  
tài”. Tuy nhiên, khoản 6 Điều 18 Luật này  
quy định thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu nếu  
“[…] vi phạm điều cấm của pháp luật”.  
Các quy định trên không cho biết đó  
là pháp luật Việt Nam hay pháp luật nước  
ngoài. Nếu như tranh chấp giữa các bên  
không có yếu tố nước ngoài, thì đó hiển  
nhiên sẽ là pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên,  
câu trả lời sẽ không đương nhiên khi đó là  
tranh chấp kinh doanh, thương mại quốc tế.  
Như vậy, có thể nói rằng, năng lực chủ  
thể với ý nghĩa là một điều kiện có hiệu  
2. Phán quyết trọng tài được trích từ Đỗ Văn Đại (chủ biên), Giải quyết tranh chấp hợp đồng: Những điều  
doanh nhân cần biết, Nxb. Tri thức, 2015, Chủ đề 10, tr. 52 và tiếp theo.  
3. Đỗ Văn Đại, tlđd.  
4. Đỗ Văn Đại, tlđd.  
5. Ngô Quốc Chiến (chủ biên), Luật Tư pháp quốc tế: Hướng đến xây dựng một mô hình lập pháp ở Việt Nam,  
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018, ISBN: 978-604-62-9996-7.  
23  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
Một nghiên cứu so sánh luật học6 cho  
thấy, các tranh chấp liên quan đến đối tượng  
tranh chấp có thể xét xử bằng phương thức  
trọng tài thường liên quan đến trật tự công và  
quy phạm mệnh lệnh7. Trong thực tiễn xét xử,  
trọng tài thường áp dụng luật của nước nơi có  
địa điểm trọng tài (lex loci arbitri) để xác định  
xem tranh chấp mà các bên muốn trọng tài  
giải quyết có thuộc loại tranh chấp được giải  
quyết bằng trọng tài hay không. Bên cạnh luật  
của nước có địa điểm trọng tài, trọng tài còn  
có thể phải tính đến luật của nước nơi phán  
quyết sẽ phải được công nhận và thi hành, bởi  
Điều 5 Công ước New York quy định phán  
quyết trọng tài có thể bị từ chối công nhận  
và cho thi hành nếu “Đối tượng của vụ tranh  
chấp không thể giải quyết được bằng trọng  
tài theo luật pháp của nước đó [nước nơi yêu  
cầu công nhận và thi hành]”8.  
2.1. Luật mà các bên lựa chọn  
Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm  
2010 là một quy định quan trọng về luật áp  
dụng giải quyết tranh chấp. Nhà làm luật đã  
phân chia ra hai trường hợp; theo đó, đối với  
tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội  
đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam  
để giải quyết tranh chấp (khoản 1). Đối với  
tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng  
trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa  
chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về  
luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết  
định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng  
tài cho là phù hợp nhất (khoản 2). Trong  
phần tiếp theo đây, chúng tôi sẽ không bàn  
đến khoản 1 mà chỉ bàn đến một nội dung  
của khoản 2, tức là trường hợp các bên đã  
lựa chọn pháp luật nước ngoài (trường hợp  
các bên không lựa chọn sẽ được nghiên cứu  
trong phần sau).  
2. Lựa chọn pháp luật đối với nội dung  
tranh chấp  
Vì khoản 2 nhắc đến khái niệm “pháp  
luật” [mà các bên lựa chọn], nhưng không  
làm rõ khái niệm đó hàm chứa nội dung  
gì, có bao gồm luật quốc tế mà quốc gia đã  
ký kết, gia nhập không? Điều này sẽ đặt ra  
khó khăn khi các bên trong một hợp đồng  
mua bán hàng hóa quốc tế lựa chọn, chẳng  
hạn pháp luật Việt Nam. Câu hỏi mà trọng  
tài cần phải giải quyết sẽ là pháp luật Việt  
Nam có bao gồm Công ước Viên 1980  
(CISG) hay không? Khái niệm “pháp luật”  
như được quy định tại khoản 2 cũng không  
cho biết có bao gồm các nguyên tắc pháp  
luật quốc tế được thừa nhận rộng rãi và các  
luật mẫu hay không? Khi đó sẽ khó khăn  
đối với trọng tài khi mà các bên lựa chọn,  
chẳng hạn Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp  
đồng làm nguồn luật điều chỉnh của mình.  
Tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng  
kinh doanh, thương mại thường rất đa dạng.  
Đó có thể là tranh chấp liên quan đến năng  
lực chủ thể9, đến quyền và nghĩa vụ của các  
bên, đến việc áp dụng các chế tài đối với  
hành vi vi phạm… Chính sự đa dạng của nội  
dung tranh chấp có thể dẫn tới sự đa dạng  
của các nguồn luật cần được áp dụng. Hiện  
nay, đa số các quốc gia cho phép các bên  
được quyền lựa chọn áp dụng đối với hợp  
đồng quốc tế. Ở Việt Nam, Điều 683 BLDS  
quy định rõ quyền này. Khi các bên thực hiện  
việc lựa chọn pháp luật một cách hợp pháp  
thì trọng tài sẽ phải áp dụng pháp luật đó.  
Tuy nhiên, ngay cả khi các bên đã lựa chọn  
pháp luật áp dụng thì không phải mọi vấn đề  
về luật áp dụng đều đã được giải quyết.  
6. Conférence de Lahaye de droit international privé, Étude de faisabilité sur le choix de la loi applicable dans  
les contrats interrnationaux - Le context de l’arbitrage international, Note établie par Ivana Radi, Document  
préliminaire no 22 C, mars, 2007.  
7. Ví dụ các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, về sở hữu trí tuệ, lệnh cấm xuất nhập khẩu.  
tai-nuoc-ngoai-61437.aspx  
9. Khi đó vấn đề luật áp dụng sẽ được giải quyết như đối với thỏa thuận trọng tài.  
24  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
Khảo sát pháp luật trọng tài ở một số nước  
cho thấy, một khái niệm rất rộng thường  
được sử dụng là “các quy tắc pháp luật”10 (les  
règles de droit). Việc sử dụng khái niệm “các  
quy tắc pháp luật” cho phép trọng tài diễn  
giải bao gồm cả luật quốc gia, luật quốc tế,  
các nguồn luật mềm và các bộ nguyên tắc11.  
bản thân thỏa thuận lựa chọn pháp luật nằm  
trong đó cũng vô hiệu theo12. Khi thỏa thuận  
lựa chọn luật không có giá trị thì không thể áp  
dụng pháp luật của nước mà điều khoản đó  
chỉ định. Việc không áp dụng luật do các bên  
lựa chọn, rất có thể hợp đồng lại có hiệu lực  
theo pháp luật của một nước khác. Để tránh  
rơi vào nghịch lý này, pháp luật cần quy định  
thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng độc  
lập với hợp đồng. Nói cách khác, hiệu lực  
của thỏa thuận lựa chọn pháp luật không phụ  
thuộc vào hiệu lực của hợp đồng13.  
Một câu hỏi nữa mà chúng ta cần trả  
lời, đó là pháp luật quốc gia mà các bên lựa  
chọn có bao gồm quy phạm xung đột hay  
không, tức là có chấp nhận dẫn chiếu hay  
không? Nếu như tranh chấp được giải quyết  
bằng tòa án Việt Nam thì thẩm phán có  
thể dựa vào Điều 668 để không chấp nhận  
dẫn chiếu. Cụ thể, theo khoản 4 Điều này,  
pháp luật mà các bên lựa chọn chỉ bao gồm  
quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên  
tham gia quan hệ dân sự, không bao gồm  
quy định về xác định pháp luật áp dụng.  
Tuy nhiên, trọng tài không có một hệ thống  
pháp luật để dựa vào như tòa án (lex fori).  
Theo chúng tôi, vấn đề này phải được giải  
quyết bởi chính luật của nước mà các bên  
lựa chọn. Nói cách khác, khi các bên đã lựa  
chọn pháp luật của nước A thì trọng tài sẽ  
phải căn cứ vào chính pháp luật của nước A  
đó để biết pháp luật nước A có chấp nhận  
dẫn chiếu hay không chấp nhận dẫn chiếu.  
2.2. Luật do hội đồng trọng tài xác định  
Trong thực tế có khả năng xảy ra tình  
huống các bên không biết mình có quyền,  
hoặc biết nhưng không thực hiện quyền lựa  
chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng  
của mình. Do vậy, để giải quyết tranh chấp,  
trọng tài phải áp dụng luật (theo nghĩa rộng),  
trong trường hợp này, đó sẽ là luật nào?  
Một nghiên cứu so sánh luật14 cho biết,  
trên thế giới hiện nay tồn tại hai phương  
pháp, đó là phương pháp gián tiếp, thông  
qua việc sử dụng quy phạm tư pháp quốc  
tế và phương pháp trực tiếp trao quyền cho  
hội đồng trọng tài xác định luật áp dụng.  
2.2.1. Phương pháp gián tiếp  
Những nước sử dụng phương pháp  
gián tiếp lại có thể chia làm hai nhóm, đó là:  
a) nhóm những nước quy định cho phép  
trọng tài tự do xác định quy phạm tư pháp  
quốc tế cần áp dụng để xác định luật áp  
Một vấn đề cuối cùng mà trọng tài có  
thể phải giải quyết, đó là trường hợp các bên  
lựa chọn pháp luật của một nước, nhưng khi  
áp dụng pháp luật nước đó thì dẫn tới hậu  
quả là hợp đồng của các bên bị vô hiệu và  
10. Ví dụ, Điều 15 Bộ luật trọng tài thống nhất OHADA quy định: “Trọng tài giải quyết nội dung tranh chấp  
theo các quy tắc pháp luật mà các bên lựa chọn […]”.  
11. V. B. Goldman, “La lex mercatoria dans les contrats et l’arbitrage internationaux: réalité et perspectives”,  
JDI 1979, p. 475.  
12. Pháp luật của Việt Nam cũng như pháp luật nhiều nước mới chỉ quy định về sự tồn tại độc lập của thỏa  
thuận trọng tài đối với hợp đồng, chứ chưa có quy định về sự tồn tại độc lập của thỏa thuận chọn luật.  
13. Về vấn đề này, xem thêm: Ngô Quốc Chiến và Đinh Thị Tâm, 2018, “Điều kiện có hiệu lực của thꢀa thuận  
lựa chꢁn pháp luật và xung đột giữa các điều kiện giao dịch chung”, Tạp chí Luật học, ISSN: 0868-3522,  
số 6 (217) tháng 6/2018, tr. 3-13 và 71.  
14. Conférence de Lahaye de droit international privé, Étude de faisabilité sur le choix de la loi applicable dans  
les contrats interrnationaux - Le context de l’arbitrage international, Note établie par Ivana Radi, Document  
préliminaire no 22 C, mars, 2007.  
25  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
dụng; và b) nhóm những nước quy định  
nguyên tắc về loại quy phạm tư pháp quốc  
tế nào mà hội đồng trọng tài cần phải áp  
dụng để xác định luật áp dụng đối với nội  
dung tranh chấp.  
của một hệ thống pháp luật của một quốc  
gia cụ thể nào. Nguyên tắc này thường chỉ  
được áp dụng trước những năm 1960. Tuy  
nhiên, hiện nay, lex loci arbitri vẫn tiếp tục  
được áp dụng tại ít nhất ba trung tâm trọng  
tài thuộc phòng thương mại Zürich, phòng  
thương mại Hunggary và Tòa trọng tài quốc  
tế Riga19. Quy định này cũng tồn tại tại trong  
một số luật quốc gia như Costa Rica, Cộng  
hòa Séc, Estonia, Malta và Yemen20. Ngoài  
ra, một số nước có quy định trọng tài phải áp  
dụng đồng thời các quy phạm xung đột của  
các quốc gia có liên quan, so sánh chúng với  
nhau để tìm ra một nguồn luật phù hợp nhất  
để áp dụng đối với nội dung tranh chấp. Đây  
là một quy định đòi hỏi sự cố gắng rất lớn đối  
với trọng tài và chỉ thực sự hiệu quả khi mà  
các quy phạm xung đột quy định giải pháp  
giống nhau21.  
- Quy phạm tư pháp quốc tế mà trꢁng  
tài cho là phù hợp nhất  
Theo cách thức này, trọng tài phải áp  
dụng quy phạm xung đột, nhưng có sự tự  
do lớn trong việc áp dụng quy phạm xung  
đột cụ thể nào để xác định luật áp dụng.  
Giải pháp này được quy định trong một số  
văn kiện quốc tế15 cũng như trong một số  
quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng  
tài16. Khi đó vấn đề đặt ra là: thế nào quy  
phạm tư pháp quốc tế phù hợp nhất? Liệu có  
các phương pháp để xác định quy phạm đó  
không? Trước đây một số quốc gia quy định  
trọng tài áp dụng cách thức giải quyết xung  
đột trong pháp luật của nước nơi có trung  
tâm trọng tài17. Phương pháp này có nhược  
điểm lớn bởi nó buộc trọng tài phải áp dụng  
luật quốc gia nơi có địa điểm trọng tài, trong  
khi trong thực tế địa điểm trọng tài được lựa  
chọn không phải vì các bên muốn lựa chọn  
luật của nước đó mà chỉ bởi sự thuận tiện  
của các bên mà thôi18. Ngoài ra, bản chất của  
trọng tài quốc tế là không chịu sự ràng buộc  
- Buộc áp dụng quy phạm xung đột  
Cách thức thứ hai này hạn chế sự tự  
do lựa chọn của trọng tài vì họ buộc phải  
sử dụng một quy phạm xung đột cụ thể.  
Đó là trường hợp luật trọng tài Croatia, Ai  
Cập, Đức, Nhật Bản, Thụy Sỹ và Thổ Nhĩ  
Kỳ: Luật áp dụng là luật có mối quan hệ  
gắn bó nhất22. Trung tâm trọng tài thương  
mại quốc tế thuộc phòng thương mại Milan,  
15. Điều VII(1) Công ước Genève ; Điều 42(1) Công ước ICSID.  
16. Điều 33(1), Rules of Procedure of the Inter-American Arbitration Commission.  
17. Điều 11. 1 Nghị quyết của Viện pháp luật quốc tế, Phiên họp Amsterdam năm 1957: “Các quy phạm xung  
đột hiện hành của Nước nơi có trung tâm trọng tài cần được phải áp dụng để xác định luật áp dụng đối với nội  
dung của tranh chấp”.  
18. Xem: C. Croff, “The Applicable Law in an International Commercial Arbitration: Is it still a Conflict of  
Laws Problem?”, The International Lawyer, Vol. 16, No 1, 1982, p. 625-627.  
19. Conférence de Lahaye de droit international privé, Étude de faisabilité sur le choix de la loi applicable dans  
les contrats interrnationaux - Le context de l’arbitrage international, Note établie par Ivana Radi, Document  
préliminaire no 22 C, mars, 2007, Phụ lục 4  
20 Conférence de Lahaye de droit international privé, Étude de faisabilité sur le choix de la loi applicable dans  
les contrats interrnationaux - Le context de l’arbitrage international, Note établie par Ivana Radi, Document  
préliminaire no 22 C, mars, 2007, Phụ lục 5.  
21. J.G. Frick, Arbitration and Complex International Contracts, Kluwer Law International, 2001, p. 361.  
22. Điều 187(1) Luật Tư pháp quốc tế liên bang Thụy Sỹ; Điều 1051(2) Bộ luật Tố tụng dân sự Đức; Điều  
1445(2) Bộ luật Thương mại Mehico; Điều 834(3) Bộ luật Tố tụng dân sự Italy; Điều 39(2) Luật Trọng tài dân  
sự và thương mại Ai Cập.  
26  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
Viện trọng tài thương mại Đức và một số  
trung tâm trọng tài khác23 cũng quy định  
tương tự. Mối quan hệ gắn bó nhất có thể là  
luật của nước nơi bên phải thực hiện nghĩa  
vụ chính cư trú, luật nơi giao kết hợp đồng,  
luật nơi thực hiện hợp đồng... Luật của Hoa  
Kỳ cũng quy định tương tự: luật áp dụng là  
luật gắn bó nhất24. Sau đó luật đưa ra một  
danh sách để giới hạn các trường hợp được  
cho là có mối quan hệ gắn bó nhất25 mà trọng  
tài phải sử dụng để xác định luật áp dụng26.  
cứ mà hội đồng trọng tài phải dựa vào để  
xác định sự phù hợp nhất của nguồn luật  
mà trọng tài lựa chọn áp dụng để giải quyết  
nội dung tranh chấp. Quy định này trao sự  
tự do rất lớn cho trọng tài, nhưng có nhược  
điểm là làm giảm tính khả đoán của các bên  
khi tham gia kinh doanh, thương mại, bởi  
họ sẽ không thể đoán định được đâu sẽ là  
nguồn luật mà hội đồng trọng tài cho là phù  
hợp nhất. Nếu so với phương pháp xung  
đột; trong đó các bên có khả năng dự báo  
được, thì rõ ràng đây là một nhược điểm.  
Tuy nhiên, vẫn phải thấy rằng phương pháp  
xung đột cũng không phù hợp với xu thế  
phát triển của pháp luật trọng tài hiện nay  
trên thế giới.  
2.2.2. Phương pháp trực tiếp  
Phương pháp này trao quyền cho hội  
đồng trọng tài xét xử vụ tranh chấp tự mình  
xác định luật hoặc các quy tắc pháp luật mà  
mình cho là phù hợp nhất mà không cần  
dựa vào quy phạm xung đột. Sự hợp lý này  
không nhất thiết phải được xác định dựa vào  
các hệ thuộc luật của tư pháp quốc tế (như  
luật quốc tịch, luật nơi giao kết, luật nơi thực  
hiện hành vi…) hay luật gắn bó nhất27. Pháp  
luật Pháp đi theo hướng này và trao quyền  
rất lớn cho trọng tài (Điều 1496 Bộ luật Tố  
tụng dân sự). Theo pháp luật Pháp, trọng  
tài không phải áp dụng các quy phạm xung  
đột của nước nơi có trụ sở trọng tài, hay của  
nước nơi có địa điểm trọng tài. Trong thực  
tế, trọng tài có thể sử dụng quy phạm xung  
đột nào đó nhưng không có nghĩa vụ nêu  
căn cứ về việc sử dụng quy phạm xung đột  
đó để xác định luật áp dụng. Nhiều nước  
khác, trong đó có Việt Nam cũng đi theo  
hướng này. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 14  
Luật Trọng tài thương mại, “nếu các bên  
không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội  
đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật  
mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất”.  
Luật không có quy định chi tiết hơn về căn  
3. Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong tố  
tụng trọng tài  
3.1. Chứng minh nội dung pháp luật  
cần áp dụng  
Khi các bên, hoặc trọng tài đã xác  
định được một nguồn luật để điều chỉnh nội  
dung của quan hệ tranh chấp thì vấn đề đặt  
ra là ai, các bên hay trọng tài, có nghĩa vụ  
chứng minh nội dung của nguồn luật đó?  
Nếu như trong tố tụng tòa án, nghĩa vụ  
chứng minh pháp luật nước ngoài đã được  
quy định khá rõ ràng tại Điều 481 BLTTDS  
năm 2015 thì không phải như vậy đối với  
tố tụng trọng tài. Luật Trọng tài thương mại  
năm 2010 không có quy định nào về vấn  
đề này. Thông thường, trong luật cũng như  
trong thực tiễn xét xử tại rất nhiều nước trên  
thế giới, khi các bên được quyền chọn và  
đã chọn luật áp dụng thì chính các bên có  
nghĩa vụ chứng minh nội dung của nguồn  
luật đó. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng sẽ là  
không hợp lý khi buộc các bên chứng minh  
23. Điều 3, Quy tắc tố tụng trọng tài thuộc Phòng thương mại Milan; Điều 23(2) Quy tắc tố tụng trọng tài của  
Viện trọng tài Đức (DIS).  
24. Điều 188(1) Law of Contracts, Second Restatement.  
25. Điều 188(2) Law of Contracts, Second Restatement.  
26. J.G. Frick, Arbitration and Complex International Contracts, Kluwer Law International, 2001, p. 63.  
27. J.G. Frick, Arbitration and Complex International Contracts, Kluwer Law International, 2001, p. 79.  
27  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
nội dung của nguồn luật áp dụng được xác  
định bởi hội đồng trọng tài.  
về nội dung không nằm trong nguồn luật mà  
các bên đã lựa chọn. Tuy nhiên, trong thực tế,  
trọng tài thường xuyên phải tính đến các quy  
phạm mệnh lệnh bắt buộc của nước nơi phán  
quyết sẽ phải được xin công nhận và cho thi  
hành28, để đảm bảo phán quyết sẽ không bị  
từ chối công nhận và thi hành theo điều V  
Công ước New York 1958. Tuy nhiên, luật  
không phải do các bên lựa chọn sẽ thường  
chỉ được áp dụng đối với một nội dung cụ thể  
nào đó của quan hệ dẫn tới tranh chấp. Nói  
cách khác, luật mà các bên lựa chọn không bị  
loại bỏ hoàn toàn29. Khi nhận thấy cần phải  
áp dụng một quy phạm mệnh lệnh (và như  
vậy không áp dụng toàn bộ luật mà các bên  
đã lựa chọn), trọng tài sẽ gặp một rủi ro liên  
quan đến công đoạn thi hành phán quyết. Cụ  
thể, trọng tài là do các bên lựa chọn và chỉ giải  
quyết những nội dung mà các bên yêu cầu.  
Nói cách khác, trọng tài phải tuân thủ sự lựa  
chọn của các bên, nhưng khi không áp dụng  
luật mà các bên lựa chọn thì cũng có nghĩa là  
trọng tài đã không tôn trọng sự lựa chọn của  
các bên và khi đó, trọng tài có nguy cơ bị coi  
là vi phạm tố tụng30, một trong những căn cứ  
để phán quyết bị hủy hoặc không được công  
nhận theo Điều 5 Công ước New York. Mặc  
dù Điều V Công ước New York không quy  
định minh thị về sự không áp dụng luật mà  
các bên đã lựa chọn là căn cứ để không công  
nhận phán quyết, nhưng một bên có thể viện  
dẫn các quy định liên quan đến trường hợp  
hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền hoặc  
vi phạm tố tụng31. Trong thực tiễn có thể xảy  
ra các trường hợp sau: các bên đã lựa chọn  
luật áp dụng để giải quyết tranh chấp của  
3.2. Không áp dụng pháp luật mà các  
bên lựa chọn  
Chúng ta biết rằng trong tố tụng tòa án,  
tòa án của một quốc gia có thể không áp  
dụng nguồn luật mà các bên lựa chọn hoặc  
được dẫn chiếu bởi quy phạm xung đột  
khi hậu quả của việc áp dụng pháp luật đó  
trái với trật tự công (hay các nguyên tắc cơ  
bản) của nước mình. Ở Việt Nam, khả năng  
loại trừ áp dụng pháp luật nước ngoài này  
được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 670  
BLDS năm 2015. Tuy nhiên, liệu trọng tài  
thương mại quốc tế có phải tính đến trật tự  
công hay không? Luật Trọng tài thương mại  
năm 2010 của Việt Nam không có quy định  
về vấn đề này.  
Thực tế cho thấy trong đa số các trường  
hợp trọng tài sẽ áp dụng luật mà các bên lựa  
chọn. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, liệu trọng  
tài có thể (và có nên quy định cho phép trọng  
tài) không áp dụng pháp luật mà các bên đã  
lựa chọn mà áp dụng một nguồn luật, hoặc  
một vài quy định trong nguồn luật của quốc  
gia khác, vì lý do tôn trọng trật tự công của  
quốc gia này không? Câu hỏi đáng được đặt  
ra khi mà pháp luật của các quốc gia có liên  
quan đến tranh chấp (đặc biệt nước nơi hợp  
đồng được thực hiện và nước nơi phán quyết  
có thể sẽ phải được xin công nhận và thi  
hành) có những quy định mệnh lệnh áp dụng  
bắt buộc. Đúng là trọng tài không có một hệ  
thống luật nội dung để dựa vào, hoặc để tuân  
thủ, trừ các quy định về tố tụng, và như vậy  
không phải tuân thủ các quy phạm mệnh lệnh  
28. G. Cordero Moss, "Can an Arbitral Tribunal disregard the Choice of Law made by the Parties?",  
Stockholm International Arbitration Review, Vol. 1, 2005, p. 15.  
29. Conférence de Lahaye de droit international privé, Document préliminaire No 22 B, « Étude de Faisabilité  
sur la loi applicable dans les contrats internationaux – Aperçu et analyse des instruments existants » (partie III  
B 9, « Restrictions des clauses de choix de loi résultant du droit public », p. 13).  
30. Art. V(2)b de la Convention des Nations Unies du 10 juin 1958 sur la reconnaissance et l’exécution des  
sentences arbitrales étrangères (Convention de New York) ; art. 36(2)b)(ii) de la Loi type CNUDCI ; N. Voser,  
supra note 12, p. 332-337.  
31. J.G. Frick, Arbitration and Complex International Contracts, Kluwer Law International, 2001, p. 130-136.  
28  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
mình là luật nước X, nhưng trọng tài thấy  
nhất thiết phải áp dụng một số quy định của  
pháp luật nước Y và vì vậy trọng tài đã áp  
dụng pháp luật của nước Y. Khi đó việc áp  
dụng pháp luật nước Y có thể sẽ bị coi là lạm  
quyền hoặc vi phạm tố tụng. Trường hợp thứ  
hai, cũng với tình huống trên, trọng tài quyết  
định áp dụng pháp luật nước X như các bên  
đã lựa chọn (và như vậy tuân thủ hoàn toàn  
quyền tự quyết của các bên), và không áp  
dụng pháp luật của nước Y, mặc dù thấy  
cần phải áp dụng pháp luật nước Y. Khi đó,  
phán quyết của trọng tài có nguy cơ sẽ không  
được công nhận và cho thi hành vì lý do trái  
với trật tự công của nước Y.  
điều chỉnh năng lực của các bên tham gia  
ký kết thỏa thuận trọng tài là luật quốc tịch,  
còn luật điều chỉnh đối tượng của thỏa thuận  
(loại tranh chấp có thể giải quyết được bằng  
phương thức trọng tài) là luật của nước nơi  
có địa điểm trọng tài.  
Thứ hai, quy định rõ hơn nguồn luật  
áp dụng do trọng tài tự mình xác định trong  
trường hợp các bên đã không lựa chọn pháp  
luật áp dụng. Cụ thể, pháp luật Việt Nam  
nên có quy định về nguyên tắc xác định luật.  
Nguyên tắc đó chính là luật có mối quan  
hệ gắn bó nhất, bởi yêu cầu về sự gắn bó  
nhất của nguồn luật mà trọng tài sẽ áp dụng  
để giải quyết tranh chấp sẽ buộc trọng tài  
không áp dụng một nguồn luật bất kỳ theo  
sở thích của riêng mình. Tuy nhiên, trọng  
tài sẽ vẫn có toàn quyền xác định thế nào  
là nguồn luật có mối quan hệ gắn bó nhất  
với quan hệ gây tranh chấp. Đó có thể là  
luật nước người bán đối với hợp đồng mua  
bán hàng hóa quốc tế, nhưng cũng có thể  
là luật nước nơi hợp đồng được thực hiện.  
Quy định như vậy vẫn đảm bảo được tính  
mềm dẻo của trọng tài, nhưng vẫn thỏa mãn  
được nhu cầu của các bên về tính khả đoán  
về luật áp dụng.  
Theo một nghiên cứu so sánh luật học,  
trong thực tiễn, khi rơi vào tình huống như  
vậy, nhiều hội đồng trọng tài vẫn sẽ áp dụng  
pháp luật của nước Y nhưng trước đó giải  
thích cho các bên về sự cần thiết áp dụng  
pháp luật của nước này và thường không  
vấp phải sự phản đối của các bên32 (và khi  
đó sẽ không trở thành căn cứ để phán quyết  
không được công nhận và cho thi hành).  
4. Kết luận và khuyến nghị  
Pháp luật trọng tài thương mại của Việt  
Nam dường như mới chỉ quan tâm đến trọng  
tài trong nước, chưa dành sự chú ý thích  
đáng đối với trọng tài thương mại quốc tế.  
Trên cơ sở phân tích pháp luật trọng tài Việt  
Nam, đối sánh với một số văn kiện quốc tế,  
pháp luật trọng tài ở một số quốc gia, cũng  
như thực tiễn xét xử, chúng tôi khuyến nghị  
Việt Nam cần hoàn thiện pháp luật trọng tài  
thương mại theo hướng hội nhập hơn, tính  
đến nhiều hơn tính chất quốc tế của trọng  
trọng tài thương mại. Cụ thể:  
Thứ ba, pháp luật trọng tài của Việt  
Nam nên có quy định về không áp dụng  
pháp luật của nước mà các bên lựa chọn khi  
hội đồng trọng tài xét xử tranh chấp nhận  
thấy cần áp dụng quy phạm mệnh lệnh của  
một nước khác, đặc biệt là quy phạm mệnh  
lệnh của nước nơi phán quyết cần được  
công nhận và thi hành. Trong trường hợp  
như vậy, việc không áp dụng pháp luật nước  
ngoài mà các bên đã lựa chọn không trở  
thành căn cứ để hủy, hoặc không công nhận  
Thứ nhất, đối với thỏa thuận trọng tài  
thương mại quốc tế, pháp luật Việt Nam nên  
có quy định rõ về nguồn luật điều chỉnh sự  
hợp pháp của thỏa thuận này. Cụ thể, luật  
phán quyết trọng tài  
32. Conférence de Lahaye de droit international privé, Étude de faisabilité sur le choix de la loi applicable dans  
les contrats interrnationaux – Le context de l’arbitrage international, Note établie par Ivana Radi, Document  
préliminaire no 22 C, mars, 2007.  
29  
pdf 9 trang yennguyen 20/04/2022 1360
Bạn đang xem tài liệu "Trọng tài thương mại quốc tế và vấn đề luật áp dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftrong_tai_thuong_mai_quoc_te_va_van_de_luat_ap_dung.pdf