Tình trạng suy giảm nhận thức ở người cao tuổi qua sàng lọc tại một số huyện thuộc tỉnh Hà Nam năm 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TÌNH TRẠNG SUY GIẢM NHẬN THỨC Ở NGƯỜI CAO TUỔI QUA
SÀNG LỌC TẠI MỘT SỐ HUYỆN THUỘC TỈNH HÀ NAM
NĂM 2018
Hoàng Thị Hải Vân, Đào Thị Minh An, Đào Anh Sơn
Viện Đào tạo YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu thực hiện trên 1210 người cao tuổi (độ tuổi từ 60 trở lên) với mục đích tìm hiểu tình trạng
sa sút trí tuệ ở người cao tuổi tại một số huyện thuộc tỉnh Hà Nam năm 2018. Kết quả cho thấy tỉ lệ người
cao tuổi có tình trạng suy giảm nhận thức cao, chiếm 33,3%. Có mối liên quan giữa tuổi, đang sống cùng
vợ/chồng hay không, trình độ học vấn với việc có hay không các tình trạng suy giảm nhận thức ở người
cao tuổi. Cần có những nghiên cứu sâu hơn, tiếp tục áp dụng bộ công cụ chuẩn quốc tế, cũng như chú
trọng chăm sóc người cao tuổi, dễ tổn thương, có yếu tố nguy cơ, từ đó ngăn ngừa được tình trạng
trầm trọng bệnh, giảm được số lượng bệnh nhân mắc, tăng chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.
Từ khóa: sa sút trí tuệ, người cao tuổi, Hà Nam
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, xu thế dân số thế giới ngày càng
già hóa với tốc độ ngày một cao do tuổi thọ
ước tính hiện nay cao hơn rất nhiều, phần lớn
mọi người có thể kỳ vọng sống trên 60 tuổi.1
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), từ năm
2015 đến 2050, tỷ lệ dân số thế giới trên 60
tuổi sẽ tăng gần gấp đôi từ 12% lên 22% (từ
900 triệu đến 2 tỷ). Vào năm 2050, 80% người
cao tuổi (NCT) sẽ sống trong các nước nghèo
và đang phát triển.2 Các chứng bệnh mạn tính,
đặc biệt là tình trạng sa sút trí tuệ (SGNT) ở
người cao tuổi đang là vấn đề sức khỏe ngày
càng nghiêm trọng và được cả thế giới quan
tâm. Sa sút trí tuệ ở người cao tuổi đã được
tuyên bố là một dịch bệnh toàn cầu (Global
Epidemic) và là vấn đề ưu tiên cho sức khỏe
cộng đồng từ năm 2012, bởi vì nó đòi hỏi rất
nhiều tài nguyên như bệnh tim mạch và ung
thư.3,4 Theo ước tính, năm 2015 số người mắc
sa sút trí tuệ trên toàn thế giới ước tính là 47,47
triệu người, và sẽ đạt 75,63 triệu vào năm 2030
và 135,46 triệu vào năm 20504. Cũng theo số
liệu của WHO, 63% số người mắc sa sút trí tuệ
sống ở các nước thu nhập thấp và trung bình
nơi việc tiếp cận với bảo trợ xã hội, dịch vụ, hỗ
trợ và chăm sóc rất hạn chế.3,4 Với nền kinh tế
của đất nước đang phát triển, Việt Nam được
tổ chức Liên Hợp Quốc (UN) và các tổ chức
quốc tế khác đánh giá là nước có tốc độ già hóa
dân số thuộc các nước nhanh nhất trong khu
vực. Tỉ lệ người cao tuổi trong cơ cấu dân số
ngày càng gia tăng: năm 2012 là 10.2%, năm
2014 là 10,5%, và dự báo đến năm 2050 nếu
không có sự can thiệp thì sẽ chiếm đến khoảng
30%.5,6 Hiện nay các nghiên cứu về chứng sa
sút trí tuệ ở người cao tuổi còn rất hạn chế. Từ
đó chúng tôi thực hiện đề tài “Sa sút trí tuệ ở
người cao tuổi tại một số huyện thuộc tỉnh Hà
Nam năm 2018”.
Tác giả liên hệ: Hoàng Thị Hải Vân,
Viện ĐT YHDP &YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội
Email: hoangthihaivan@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 04/02/2020
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tiêu chuẩn lựa chọn: Người cao tuổi (từ 60
tuổi trở lên) tại tỉnh Hà Nam, tự nguyện tham
Ngày được chấp nhận: 28/03/2020
TCNCYH 129 (5) - 2020
121
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
gia nghiên cứu
(huyện Bình Lục); Bạch Thượng, Yên Bắc
(huyện Duy Tiên); Đồng Hóa, Nhật Tân (huyện
Kim Bảng)
Tiêu chuẩn loại trừ: người có bệnh lý tâm
thần kinh.
Công cụ và kĩ thuật thu thập số liệu
- Công cụ thu thập số liệu: Bộ câu hỏi thiết
kế sẵn bao gồm các thông tin nhân khẩu học
kết hợp bộ công cụ Đánh giá nhận thức Mini -
Cog.7,8,9 để khảo sát, sử dụng bộ công cụ tiếng
Việt
2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ 6/2018 đến
6/2019.
- Địa điểm nghiên cứu: 3 huyện thuộc tỉnh
Hà Nam: huyện Bình Lục; huyện Duy Tiên; và
huyện Kim Bảng.
- Kỹ thuật thu thập số liệu: các bước tiến
hành
3. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu:
+ Bước 1 - Ghi nhớ 3 từ: Điều tra viên sẽ
đọc 3 từ trong danh sách các từ trong bộ câu
hỏi, yêu cầu đối tượng hãy cố nhớ và nhắc lại
3 từ này. Một điểm cho mỗi từ được nhớ lại
tự nhiên mà không cần nhắc. Nếu đối tượng
nghiên cứu không nhắc lại được chuyển sang
bước 2.
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho 1 tỷ lệ
trong cộng đồng
p(1 - p)
n = Z2(1 - α/2)
2
d
+ Bước 2 - Vẽ đồng hồ: Điều tra viên sẽ
yêu cầu đối tượng vẽ một cái đồng hồ. Đồng
hồ bình thường = 2 điểm. Trên đồng hồ bình
thường, tất cả các số nꢀm đúng thứ tự và vị trí
của chúng tương đối chính xác (ví dụ như 12,
3, 6 và 9 nꢀm ở các vị trí chính và 2 (11:10).
Không tính điểm độ dài kim đồng hồ. Không thể
hoặc từ chối vẽ đồng hồ (bất thường) = 0 điểm.
+ Bước 3 – Nhớ lại từ: Đề nghị đối tượng
nghiên cứu nhớ lại ba từ điều tra viên đã nói ở
Bước 1.
Trong đó:
- p = 32% là tỷ lệ người cao tuổi có tình
trạng suy giảm nhận thức sau khi tiến hành
nghiên cứu thử.
- Z 1 - α/2 = 1,96 (với độ tin cậy 95%)
- d = 0,05 (sai số tuyệt đối)
Thay vào công thức ta có n = 334/1 huyện.
Cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được là 1002 đối
tượng. Trên thực tế có 1210 đối tượng tham
gia nghiên cứu.
Cách chọn mẫu
+ Tính tổng điểm: Tổng điểm = Điểm Nhớ
Lại Từ + điểm Vẽ Đồng Hồ.
- Lập danh sách các xã trong từng huyện
- Tại mỗi huyện căn cứ vào số lượng người
cao tuổi tại từng xã, chọn ngẫu nhiên 2 xã mỗi
huyện để đạt tối thiểu 334 người cao tuổi.
- Tại mỗi xã lập danh sách các hộ gia đình
có người cao tuổi. Chọn ngẫu nhiên hộ gia đình
có người cao tuổi đầu tiên, phỏng vấn trực tiếp
người cao tuổi. Người cao tuổi tiếp theo thuộc
hộ gia đình gần nhất hộ gia đình đầu tiên, cứ
như vậy đến khi đủ cỡ mẫu.
+ Điểm đánh giá < 3 theo Mini - Cog ™ đã
được công nhận trong việc tầm soát chứng sa
sút trí tuệ.7,8,9
3. Phân tích và xử lý số liệu
Biến đầu ra: có suy giảm nhận thức hay
không
Biến giải thích: Các biến số nhân khẩu học
và ảnh hưởng đến tình trạng suy giảm nhận
thức bao gồm tuổi, giới, trình độ học vấn, tình
trạng hôn nhận, thu nhập, vai trò lao động chính
- Các xã được chọn là: An Lão, An Mỹ
122
TCNCYH 129 (5) - 2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
trong gia đình
tin cho đối tượng phỏng vấn và chỉ tiến hành
Thống kê mô tả bao gồm tính tỷ lệ phần trăm
cho các biến định tính được áp dụng để mô
tả các đặc điểm đối tượng nghiên cứu và tình
trạng suy giảm nhận thức của đối tượng nghiên
cứu. Thống kê quy luận bao gồm phân tích hồi
quy logistics đơn biến (tính OR thô) và đa biến
(tính OR có hiệu chỉnh) để tìm mối liên quan
giữa đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng
nghiên cứu với tình trạng suy giảm nhận thức.
Số liệu được làm sạch và nhập liệu bꢀng
phần mềm Epidata 3.1 và phân tích số liệu
bꢀng phần mềm Stata 14.
phỏng vấn khi đối tượng nghiên cứu đồng ý trả
lời.
- Các thông tin thu được chỉ phục vụ cho
mục đích nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
Trong các đối tượng nghiên cứu, nữ giới
chiếm đa số (60,83%) và từ 70 tuổi trở xuống
(54,96%). Còn khoảng 1/3 người cao tuổi có
thu nhập gia đình thấp, không có hoặc không
nhớ thu nhập của mình. Phần lớn người cao
tuổi (71,98%) vẫn sống cùng vợ/chồng; trình độ
học vấn chủ yếu là tốt nghiệp trung học cơ sở
và trung học phổ thông (THCS, THPT). Khoảng
một nửa người cao tuổi không còn đảm nhiệm
vai trò làm việc trong gia đình (Bảng 1).
4. Đạo đức của nghiên cứu
- Nghiên cứu đảm bảo tính bí mật thông
Bảng 1. Thông tin chung đối tượng nghiên cứu (n = 1210)
Đặc điểm
n
%
Nhóm tuổi
Từ 60 - 70 tuổi
665
352
193
54,96
29,09
15,95
71 đến 80 tuổi
trên 80 tuổi
Giới tính
Nam
Nữ
474
736
39,17
60,83
Thu nhập
Thu nhập thấp/không có/không nhớ
Từ 5 triệu đồng/tháng trở lên
Tình trạng hôn nhân
Độc thân
454
756
37,52
62,48
33
2,73
71,98
25,29
Sống cùng vợ/chồng
Góa/ly thân
871
306
Trình độ học vấn
Mù chữ
186
413
438
173
15,37
34,13
36,2
Tiểu học
Trung học (THCS, THPT)
Cao đẳng/Đại học, trên ĐH
14,3
TCNCYH 129 (5) - 2020
123
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Đặc điểm
n
%
Đảm nhiệm vai trò lao động chính
Có
588
622
48,6
51,4
Không
Kết quả đánh giá sử dụng bộ công cụ sàng lọc suy giảm nhận thức cho thấy tỷ lệ người cao tuổi
có suy giảm nhận thứctình trạng suy giảm nhận thức là 33,31% (trong đó tỷ lệ người có điểm 0 là
15,37%; 7,27% có điểm 1; 10,66 có điểm 2; 25,79% có điểm 3; 24,30 có điểm 4 và 16,61 có điểm 5
(Biểu đồ 1). Như vậy 1/3 số người cao tuổi tham gia nghiên cứu có tình trạng suy giảm nhận thức
theo đánh giá dựa trên thang đo sàng lọc Mini - Cog.
100%
80%
60%
40%
25,79%
24,30%
16,61%
15,37%
20%
0%
10,66%
7,27%
0 điểm
1 điểm
2 điểm
3 điểm
4 điểm
5 điểm
Biểu đồ 1. Tỉ lệ người cao tuổi theo nhóm điểm đánh giá suy giảm nhận thức (n = 1210)
Nghiên cứu cho thấy, tuổi thọ có ảnh hưởng đến sa sút trí tuệ. Cụ thể, ở người cao tuổi, nhóm
có tuổi thọ càng cao tỉ lệ có suy giảm nhận thức càng lớn. Trong nghiên cứu, các nhóm có thu nhập
khác nhau tỉ lệ suy giảm nhận thức cũng khác nhau. Suy giảm nhận thức có sự khác biệt giữa Tình
trạng hôn nhân. Nhóm độc thân (51,5%) và nhóm ly thân/góa (39,2%) có tỉ lệ suy giảm nhận thức
cao hơn nhóm đang Sống cùng vợ/chống (30,5%). Suy giảm nhận thức cũng có sự khác biệt giữa
các nhóm có Trình độ học vấn khác nhau. Nhóm có trình độ học vấn càng cao, tỉ lệ suy giảm nhận
thức càng thấp; tỉ lệ này cao nhất ở nhóm mù chữ (56,4%) và thấp dần, thấp nhất ở nhóm trình độ
Cao đẳng/Đại học, trên ĐH (20,2%) (p < 0,001). Giữa các đối tượng nghiên cứu, tỉ lệ suy giảm nhận
thức giữa 2 nhóm làm việc đóng góp vào kinh tế gia đình và nhóm không làm việc cũng khác nhau.
Nhóm có làm kinh tế (26,5%) tỉ lệ suy giảm nhận thức cũng thấp hơn so với nhóm Không (39,7%);
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001) (bảng 2).
124
TCNCYH 129 (5) - 2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 2. Mối liên quan giữa suy giảm nhận thức và một số đặc điểm nhân khẩu học
(n = 1210)
Có tình trạng suy
cOR
aOR
Một số đặc điểm nhân khẩu học
giảm nhận thức
n(%)
(95% CI)
(95%CI)
60 - 70 tuổi
165 (24,8%)
1
1
1,86**
(1,40 - 2,46)
3,54**
1,53**
(1,13 - 2,07)
2,47**
Nhóm
tuổi
71 đến 80 tuổi
134 (38,0%)
trên 80 tuổi
Nam
104 (53,8%)
147 (31,0%)
256 (34,7%)
174 (38,3%)
229 (30,2%)
17 (51,5%)
266 (30,5%)
(2,50 - 5,00)
(1,68 - 3,62)
1
1
Giới
1,18
0,85
Nữ
(0,92 - 1,51)
(0,63 - 1,13)
Thu nhập thấp
1
1
Thu
Từ 5 triệu đồng/tháng trở
lên
0,69*
1,10
nhập
(0,54 - 0,89)
(0,83 - 1,45)
Độc thân
1
1
Tình
trạng
hôn
0,41*
(0,20 - 0,83)
0,60
0,41*
(0,19 - 0,86)
0,37*
Sống cùng vợ/chồng
nhân
Góa/ly thân
Mù chữ
120 (39,2%)
105 (56,4%)
158 (38,2%)
(0,29 - 1,25)
(0,17 - 0,79)
1
1
0,47**
(0,33 - 0,68)
0,24**
0,55**
(0,38 - 0,79)
0,31**
Tiểu học
Trình
độ học
vấn
Trung học (THCS, THPT)
105 (23,9%)
35 (20,2%)
(0,16 - 0,35)
0,19**
(0,21 - 0,47)
0,21**
Cao đẳng/Đại học, trên
ĐH
(0,11 - 0,32)
(0,12 - 0,35)
Đảm
nhiệm Không
247 (39,7%)
156 (26,5%)
1
1
vai trò
lao
0,54**
0,66**
động
chính
Có
(0,42 - 0,70)
(0,50 – 0,87)
*: p < 0,05 **:p < 0,01
IV. BÀN LUẬN
Theo nhận định của WHO, hiện nay có khoảng 63% số người mắc suy giảm nhận thức sống ở
các nước thu nhập thấp và trung bình, nơi việc tiếp cận với bảo trợ xã hội, dịch vụ, hỗ trợ và chăm
TCNCYH 129 (5) - 2020
125
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
sóc hạn chế, điều này sẽ dẫn đến giảm chất
lượng cuộc sống của người cao tuổi.3,4 Thậm
chí, dự báo đến năm 2040, nếu tốc độ gia tăng
dân số già giữ nguyên và không có thay đổi về
tỷ lệ tử vong không có các biện pháp phòng
ngừa, tỉ lệ mắc suy giảm nhận thức (SGNT) ở
các nước đang phát triển sẽ còn tăng lên đến
71% số trường hợp toàn cầu.10 Các nghiên cứu
về đánh giá chứng SGNT ở người cao tuổi tại
Việt Nam không chỉ hạn chế về số lượng, mà
còn về phương pháp đánh giá. Nghiên cứu
của chúng tôi cho kết quả 33,31% đối tượng
thể hiện dấu hiệu tình trạng SGNT, kết quả
này cao hơn nghiên cứu Kết quả Điều tra về
NCT năm 2011.11 Điều này có thể giải thích do
Điều tra mới chỉ sử dụng Bộ bài kiểm tra ngắn
Trạng thái Tâm thần (MMSE) đánh giá trí nhớ
người cao tuổi bꢀng kiểm tra danh sách các
từ được đọc lên mà họ nhớ được,11 trong khi
nghiên cứu của chúng tôi sử dụng bộ Đánh giá
nhận thức Mini - Cog – kết hợp giữa hỏi từ và
vẽ đồng hồ (CDT).7 - 9 Kết quả của nghiên cứu
chúng tôi cũng cao hơn so với các nghiên cứu
cùng thực hiện trên người cao: tuổi. tại Mỹ, dựa
trên nghiên cứu về nhân khẩu học và trí nhớ
(ADAM), khoảng 14% số người trên 71 tuổi mắc
chứng SGNT.12 Nghiên cứu từ Leipzig, Đức cho
tỷ lệ mắc bệnh chung ở các đối tượng từ 75
tuổi trở lên là 19,2%.13 Tại Hàn Quốc, nghiên
cứu năm 2008 thực hiện trên các cư dân từ 65
tuổi trở lên sống ở Seongnam cho thấy, tỷ lệ
mắc chứng SGNT được ước tính là 6,3%;14 một
nghiên cứu khác thực hiện cùng phương pháp
tại thành phố Seoul cho tỷ lệ mắc SGNT dao
động từ 2,6% ở những người từ 65 - 69 tuổi; và
lên đến 32,6% ở những người từ 85 tuổi trở lên.
Tỷ lệ chung cho cả nhóm nghiên cứu là 8,2%.15
Nhật Bản là nước có dân số già, nên việc quan
tâm tới sức khỏe tâm thần người cao tuổi đã
được chú ý từ lâu. Các nghiên cứu trong vòng
10 năm trở lại đây cho thấy, tỷ lệ mắc chứng
mất trí nhớ ở những người trên 65 tuổi và hơn
75 tuổi lần lượt là 2,4 - 8,4% và 15,8%.16 hay
cũng một nghiên cứu thuần tập trên các người
cao tuổi từ 65 tuổi trở lên tại làng đảo Ama -
cho, Nhật Bản, tỷ lệ mắc chứng SGNT bꢀng
11%.17 Số lượng ở các nước phát triển được
dự báo sẽ tăng 100% trong giai đoạn 2001 đến
2040, và tăng nhanh ở các nước châu Á, lên tới
hơn 300% ở Ấn Độ, Trung Quốc và các nước
Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Tuy nhiên,
nếu được phát hiện sớm, chúng ta có thể ngăn
ngừa được tình trạng trầm trọng bệnh, cũng
như giảm được cả số lượng bệnh nhân mắc,
tăng chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng phát hiện
ra, tuổi đối tượng nghiên cứu càng cao, tỉ lệ
mắc bệnh càng gia tăng theo, tương tự như các
nghiên cứu khác.13,15,16 Tiếp theo phải kể đến là
tình trạng hôn nhân của các đối tượng nghiên
cứu. Nghiên cứu cũng chỉ ra, những người cao
tuổi hiện tại đang còn sống cùng vợ/chồng, tỉ lệ
có dấu hiệu bệnh (30,5%) thấp hơn có ý nghĩa
thống kê so với những người độc thân (51,5%)
và Góa/ly thân (39,2%), Kết quả này cũng
tương tự như phát hiện của Petersen và đồng
nghiệp thực hiện năm 2004 trên 1,969 người
70 - 89 tuổi.18 Khi người cao tuổi sống cùng
gia đình, họ hay được người thân nhắc nhở,
chăm sóc, cũng như họ sẽ có ý thức tốt hơn khi
chăm sóc bản thân và người xung quanh. Và
trong nhóm đối tượng, kết quả cũng chỉ ra với
những đối tượng học vấn càng cao, tỉ lệ mắc
suy giảm nhận thức cũng thấp hơn. Điều này
được phát hiện tương tự ở nhiều nghiên cứu
khác.13,18,19 Với những người cao tuổi còn tiếp
tục làm việc đóng góp thu nhập, tỉ lệ mắc suy
giảm nhận thức ở họ thấp hơn có ý nghĩa thống
kê so với nhóm không còn làm việc; điều này
tương đương với phát hiện khi người cao tuổi
có thu nhập, mặc dù có thể không cao, nhưng
họ mắc suy giảm nhận thức cũng ít hơn nhóm
126
TCNCYH 129 (5) - 2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
không có thu nhập.
- viet - nam - s - ageing - population.html.
Accessed June 6, 2019.
V. KẾT LUẬN
7. Montreal Cognitive Assessment (MoCA).
Administration and Scoring Instructions. https://
Nghiên cứu thực hiện thực hiện trên 1210
người cao tuổi (độ tuổi từ 60 trở lên) cho kết quả
tỉ lệ người cao tuổi có suy giảm nhận thứctình
trạng suy giảm nhận thức cao, chiếm 33,3%.
Có mối liên quan giữa tuổi, đang sống cùng vợ/
chồng hay không, trình độ học vấn với việc có
hay không các tình trạng suy giảm nhận thức
ở người cao tuổi. Cần có những nghiên cứu
sâu hơn, tiếp tục áp dụng bộ công cụ chuẩn
quốc tế, cũng như chú trọng chăm sóc người
cao tuổi, dễ tổn thương, có yếu tố nguy cơ, từ
đó ngăn ngừa được tình trạng trầm trọng bệnh,
giảm được số lượng bệnh nhân mắc, tăng chất
lượng cuộc sống của người cao tuổi.
www.parkinsons.va.gov/resources/MOCA
-
Test - English.pdf. Accessed June 6, 2019.
8. Nasreddine ZS, Phillips NA, Bédirian V, et
al. The Montreal Cognitive Assessment, MoCA:
A Brief Screening Tool For Mild Cognitive
Impairment. J Am Geriatr Soc. 2005;53(4):695
- 699. doi:10.1111/j.1532 - 5415.2005.53221.x
9. Scanlan J, Borson S. The Mini - Cog:
receiver operating characteristics with expert
and naïve raters. Int J Geriatr Psychiatry.
2001;16(2):216 - 22.
10. Ferri CP, Prince M, Brayne C, et al. Global
prevalence of dementia: a Delphi consensus
study. Lancet Lond Engl. 2005;366(9503):2112
- 2117. doi:10.1016/S0140 - 6736(05)67889 - 0
11. Uỷ ban quốc gia về người cao tuổi Việt
Nam. Điều tra về người cao tuổi Việt Nam năm
2011. Kết quả chủ yếu. 2012.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Beard JR, Officer A, de Carvalho IA, et
al. The World report on ageing and health: a
policy framework for healthy ageing. Lancet
Lond Engl. 2016;387(10033):2145 - 2154.
doi:10.1016/S0140 - 6736(15)00516 - 4
12. L. E. Hebert, J. Weuve, P. A. Scherr,
D. A. Evans. Alzheimer disease in the United
States (2010–2050) estimated using the 2010
census,. Neurology. 2013;80(19):1778–1783.
13.BusseA,HenselA,GühneU,Angermeyer
2. WHO. World report on ageing and health
2015. 2015. https://www.who.int/ageing/events/
world - report - 2015 - launch/en/. Accessed
June 6, 2019.
MC, Riedel
- Heller SG. Mild cognitive
3. Prince M., Guerchet M., Prina M.
Alzheimer’s Disease International. Policy brief
for heads of government: the global impact of
dementia 2013–2050. In: London.
impairment. Neurology. 2006;67(12):2176–
2185. doi:10.1212/01.wnl.0000249117.23318.
e1
14. Jhoo JH, Kim KW, Huh Y, et al.
Prevalence of Dementia and Its Subtypes in an
Elderly Urban Korean Population: Results from
the Korean Longitudinal Study on Health and
Aging (KLoSHA). Dement Geriatr Cogn Disord.
2008;26(3):270 - 276. doi:10.1159/000160960
15. Lee DY, Lee JH, Ju Y - S, et al. The
Prevalence of Dementia in Older People in an
Urban Population of Korea: The Seoul Study.
J Am Geriatr Soc. 2002;50(7):1233 - 1239.
4. WHO. The Epidemiology and Impact of
Dementia: Current State and Future Trends.
dementia/en/. Accessed June 6, 2019.
5. Ageing Asia. Ageing population in
Vietnam. 2015. http://ageingasia.org/ageing -
population - vietnam/. Accessed June 6, 2019.
6. United Nations Viet Nam. Viet Nam’s
Ageing Population. 2015. http://www.un.org.vn/
vi/videos - press - centre - submenu - 279/2987
TCNCYH 129 (5) - 2020
127
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
doi:10.1046/j.1532 - 5415.2002.50310.x
18. Petersen RC, Roberts RO, Knopman DS,
et al. Prevalence of mild cognitive impairment is
higher in men. The Mayo Clinic Study of Aging.
Neurology. 2010;75(10):889 - 897. doi:10.1212/
WNL.0b013e3181f11d85
16. Kasai M., Nakamura K., Meguro K.
[Alzheimer’s disease in Japan and other
countries: review of epidemiological studies in
the last 10 years]. Brain Nerve Shinkei Kenkyu
No Shinpo. 2010;62(7):667–678.
19. Hugo J, Ganguli M. Dementia and
cognitive impairment: epidemiology, diagnosis,
and treatment. Clin Geriatr Med. 2014;30(3):421
- 442. doi:10.1016/j.cger.2014.04.001
17. Wada - Isoe K, Uemura Y, Suto Y, et
al. Prevalence of Dementia in the Rural Island
Town of Ama - cho, Japan. Neuroepidemiology.
2009;32(2):101 - 106. doi:10.1159/000177035
Summary
COGNITIVE IMPAIRMENT IN OLDER ADULTS IN VARIOUS
DISTRICTS IN HA NAM PROVINCE, 2018
The study on 1210 older adults (aged 60 and older) was conducted to assess the status of
the cognitive impairment among older adults in a few districts of Ha Nam province in 2018. The
results showed that there was a high proportion of cognitive impairment (33.3%). Our research
results found that there was a relationship between age, living with a spouse, education,
employment, and signs of dementia. Further studies are needed, applying the international
standard toolkit, as well as focusing on caring for the vulnerable elderly and risk factors, thereby
preventing serious illness, reducing the number of patients, and increasing the quality of life.
Keywords: cognitive impairment, older adults, Ha Nam.
128
TCNCYH 129 (5) - 2020
Bạn đang xem tài liệu "Tình trạng suy giảm nhận thức ở người cao tuổi qua sàng lọc tại một số huyện thuộc tỉnh Hà Nam năm 2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tinh_trang_suy_giam_nhan_thuc_o_nguoi_cao_tuoi_qua_sang_loc.pdf