Tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần 24 giờ của phụ nữ thu nhập thấp tại quận Nam Từ Liêm, Hà Nội năm 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ KHẨU PHẦN 24 GIỜ CỦA PHỤ NỮ
THU NHẬP THẤP TẠI QUẬN NAM TỪ LIÊM, HÀ NỘI NĂM 2019
Nguyễn Thị Thanh Luyến1,, Nguyễn Thị Hồng Diễm2, Đặng Kim Anh1,
Nguyễn Văn Giang3, Nguyễn Thị Hà1 vàLê Thị Hương1
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Cục Y tế dự phòng
3Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu mô tả cắt ngang đánh giá tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần ăn 24 giờ của 200 phụ nữ 18-49
tuổi ở hộ gia đình thu nhập thấp tại quận Nam Từ Liêm, Hà Nội năm 2019. Kết quả: 6,0% phụ nữ thiếu năng
lượng trường diễn (CED) và 9,5% phụ nữ thừa cân – béo phì (TC-BP). 54,5% đối tượng đáp ứng dưới 80% năng
lượng (E) khẩu phần 24 giờ so với khuyến nghị. Tỷ lệ phụ nữ đáp ứng Protein cao hơn khuyến nghị là 66,0%,
tỷ lệ chưa đáp ứng đủ nhu cầu khuyến nghị (NCKN) về Protein (P) Lipid (L) và Glucid (G) trong khẩu phần 24
giờ là: 18,5% (đáp ứng <80% NCKN), 58,5% và 77,0%. Tỷ lệ chưa đáp ứng đủ các vitamin và khoáng chất còn
cao. Kết luận: Khẩu phần ăn 24 giờ chưa hợp lý, đáp ứng thiếu vi chất dinh dưỡng còn cao so với khuyến nghị.
Cần có các biện pháp can thiệp để cải thiện tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần 24 giờ của nhóm phụ nữ trên.
Từ khóa: Tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần 24 giờ, phụ nữ 18-49 tuổi, thu nhập thấp.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong
cuộc đời của người phụ nữ, đặc biệt là trong
độ tuổi sinh đẻ.1 Tình trạng dinh dưỡng của
phụ nữ phản ánh sức khỏe của bản thân họ
cũng như sức khỏe của trẻ em trong tương
lai.2 Các yếu tố như cân nặng, chiều cao, chỉ
số khối cơ thể (BMI) là những chỉ số quan
trọng phản ánh tình trạng dinh dưỡng của
phụ nữ tuổi sinh đẻ.3 Tại Việt Nam, theo Tổng
điều tra dinh dưỡng năm 2010 cho thấy tỉ lệ
thiếu năng lượng trường diễn ở nữ là 18,5%,
đặc biệt cao ở độ tuổi sinh đẻ từ 20-30 chiếm
22,9 - 27,7%.4 Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này nhưng yếu tố trực tiếp là do
khẩu phần ăn thực tế không đáp ứng đủ nhu
cầu về năng lượng và các chất dinh dưỡng.5
Bên cạnh đó, thu nhập thấp cũng là một trong
những yếu tố quan trọng vừa ảnh hưởng trực
tiếp, vừa ảnh hưởng gián tiếp lên sức khỏe và
tình trạng dinh dưỡng của phụ nữ và trẻ em ở
tất cả các khu vực.
Các nghiên cứu dịch tễ học đã chứng minh
rằng những người sống ở thành thị có tình
trạng sức khỏe tốt hơn những người sống ở
nông thôn.6 Tuy nhiên, ngày càng có nhiều
bằng chứng cho rằng sống ở khu vực thành thị
có thể gây ảnh hưởng tiêu cực cho sức khỏe và
dinh dưỡng, ví dụ, do những thách thức về vệ
sinh hoặc mật độ dân số cao hơn tạo điều kiện
cho việc lây lan các bệnh truyền nhiễm. Một số
nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có sự bất bình
đẳng đáng kể giữa tình trạng sức khỏe và dinh
dưỡng của phụ nữ và trẻ em thành thị.7
Việc đánh giá các vấn đề về sức khỏe và
tình trạng dinh dưỡng của người phụ nữ trong
độ tuổi sinh sản là rất quan trọng, đặc biệt là
những gia đình có thu nhập thấp trong bối cảnh
ngày càng có nhiều bấp cập và thách thức
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thanh Luyến
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: dr.thanhluyen91hmu@gmail.com
Ngày nhận: 06/04/2021
Ngày được chấp nhận: 15/04/2021
TCNCYH 140 (4) - 2021
203
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
do đô thị hóa mang lại. Tại Việt Nam, đã có
nhiều bằng chứng đánh giá về tình trạng dinh
dưỡng và khẩu phần ăn của phụ nữ, tuy nhiên
các nghiên cứu thực hiện trên những phụ nữ
có thu nhập thấp tại các đô thị còn nhiều hạn
chế. Do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này
nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng và khẩu
phần ăn 24 giờ thực tế của phụ nữ 18-49 tuổi
tại hộ gia đình có thu nhập thấp.
quốc theo thống kê của Viện Dinh dưỡng năm
2014.8
Từ đó, ta thu được cỡ mẫu n = 197. Thực
tế nghiên cứu tiến hành trên 200 đối tượng.
Phương pháp chọn mẫu: Theo phương
pháp chọn mẫu qua nhiều giai đoạn:
Bước 1: Chọn chủ đích 3 phường Đại Mỗ,
Tây Mỗ, Mễ Trì thuộc quận Nam Từ Liêm, Hà
Nội. Sau đó liên hệ thực địa, lập danh sách hộ
gia đình có các phụ nữ 18-49 tuổi hiện đang
sinh sống trên địa bàn ≥ 12 tháng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bước 2: Lựa chọn ngẫu nhiên các hộ
gia đình thuộc danh sách tại bước 1 và có
thu nhập bình quân đầu người dưới 5 USD/
người/ngày (dưới 3.300.000/người/tháng)
cho đến khi đủ cỡ mẫu.
Phụ nữ 18 - 49 tuổi ở hộ gia đình có thu
nhập bình quân đầu người < 5USD người/
ngày (3.300.000 đồng/người/tháng)5 đang
sinh sống ít nhất 12 tháng tại Quận Nam Từ
Liêm, Hà Nội.
Bước 3: Đặt cuộc hẹn qua điện thoại và
đến hộ gia đình để tiến hành thu thập số liệu.
Những phụ nữ mang thai hoặc đang cho
con bú hay có dị dạng về số đo nhân trắc sẽ
không được lựa chọn trong nghiên cứu này.
Nội dung/chỉ số của nghiên cứu
Một số đặc điểm của đối tượng nghiên
cứu: tuổi, trình độ học vấn.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
Chỉ số nhân trắc: cân nặng, chiều cao.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/2019
Khẩu phần 24h: Năng lượng khẩu phần,
thành phần một số chất dinh dưỡng.
đến tháng 02/2020.
Địa điểm nghiên cứu: Tại phường Đại Mỗ,
Quy trình nghiên cứu
Tây Mỗ, Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.
+ Phỏng vấn thông tin chung của đối tượng
bằng bộ câu hỏi có sẵn.
Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu
ước lượng cho một tỷ lệ:
+ Điều tra khẩu phần bằng phương pháp
hỏi ghi khẩu phần 24h :
p (1- p)
N = Z2
(1-a/2)
d 2
Bước 1: Điều tra viên gọi điện thoại liên
hệ xác minh lại thông tin đối tượng và xếp
lịch phỏng vấn. Không phỏng vấn vào các
ngày mà trước đó là cuối tuần, giỗ tết, ăn cỗ
vì khẩu phần ăn vào các ngày đó không đại
diện cho khẩu phần ăn ngày thường của đối
tượng.
Trong đó:
n: cỡ mẫu tối thiểu
Z: hệ số tin cậy tính theo α, chọn α = 0,05
với khoảng tin cậy 95%
d: khoảng sai lệch mong muốn giữa tham số
mẫu và tham số quần thể, chọn d= 0,05
p: Chọn p=0,151 là tỷ lệ bị thiếu năng
lượng trường diễn (BMI <18,5) của phụ nữ
trong độ tuổi sinh đẻ nói chung trong toàn
Bước 2: Hỏi ghi khẩu phần ăn 24h là hỏi
tất cả những gì mà đối tượng đã ăn kể cả
uống tính từ thời điểm buổi sáng ngày hôm
204
TCNCYH 140 (4) - 2021
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
qua thức dậy đến sáng hôm nay.
Thiếu năng lượng
BMI < 18,50
Dụng cụ sử dụng cho phương pháp hỏi ghi
khẩu phần 24 giờ qua gồm:
trường diễn
Bình thường
Thừa cân
Béo phì
BMI 18,50 - 24,99
BMI ≥ 25,00
- Cân điện tử Tanita.
- Bình và cốc đong bằng nhựa có vạch
chia mức (2000 Ml, 1000mL, 250 Ml, 100mL).
BMI ≥ 30,00
+ Đánh giá khẩu phần 24 giờ: Dựa vào bảng
nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người
VN 2016.10 Áp dụng đối với người trưởng
thành mức độ lao động vừa.
- Đất nặn/hộp diêm (được sử dụng với mục
đích ước lượng kích thước tất cả các loại thức
ăn có hình thù kì lạ, ví dụ như các miếng thịt
hoặc bánh đậu phụ), 4 hộp đất nặn cho mỗi
danh sách thực phẩm hoặc 4 hộp diêm.
3. Xử lý số liệu:
- Số liệu về thông tin chung và các chỉ số nhân
trắc được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1.
- Tranh tháp dinh dưỡng.
- Giấy ăn, và khăn vải.
- Số liệu khẩu phần 24 giờ được nhập liệu
bằng phần mềm Acess 2010.
- Giấy cắt sợi kích thước khoảng 0,5 x 2-3
cm để ước tính kích cỡ thực phẩm (như bó
rau…)
- Các phép phân tích số liệu được thực
hiện bằng phần mềm Stata 14.0.
+ Thu thập số liệu nhân trắc được lấy 2 lần
và lấy giá trị trung bình:
4. Đạo đức nghiên cứu
Các dữ liệu được sử dụng nghiên cứu này
là một phần trong số liệu được thu thập từ Dự
án Tăng khẩu phần rau quả cho nhóm dân cư
có thu nhập thấp tại Việt Nam thông qua sáng
kiến đổi mới hệ thống thực phẩm do trường
đại học Wagenigen – Hà Lan tài trợ. Dự án
được phê duyệt theo Quyết định số 377/QĐ-
BYT ngày 29/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Y Tế
do Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công
cộng làm cơ quan chủ dự án.
Cân nặng: Sử dụng cân điện tử Tanita có
độ chính xác 100gr. Trọng lượng cơ thể được
ghi theo kg với 1 số lẻ.
Chiều cao: Đo chiều cao đứng bằng thước
Seca có độ chính xác đến milimet.
Tiêu chuẩn đánh giá
+ Đánh giá tình trạng dinh dưỡng: dựa vào
chỉ số khối cơ thể (BMI) (kg/m2). Phân loại
theo khuyến nghị của WHO 2000:9
III. KẾT QUẢ
1. Thông tin chung và tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu.
Phụ nữ nằm trong độ tuổi từ 30-40 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 50,5%. 43,5% phụ nữ có trình độ
học vấn dưới trung học phổ thông. Tỷ lệ phụ nữ có nghề nghiệp làm công ăn lương chiếm cao nhất
với 56,6% và có 9,5% phụ nữ không có thu nhập.
Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu.
TCNCYH 140 (4) - 2021
205
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 1. Một số thông tin chung về đối tượng nghiên cứu (N=200)
Tổng
Thông tin chung
n
%
Từ 20 - 30 tuổi
45
22,5
50,5
27,0
43,5
56,5
10,0
56,5
24,4
9,5
Nhóm tuổi (35,5 ± 7,2)
Trình độ học vấn
Từ 30 - 40 tuổi
Từ 40 - 50 tuổi
101
54
Dưới trung học phổ thông
Từ trung học phổ thông trở lên
Nông nghiệp
87
113
20
Làm công ăn lương
Tự do/buôn bán
113
48
Nghề nghiệp
Không có thu nhập
19
6.0%
9.5%
Thiếu năng lượng trường diễn
Bình thường
Thừa cân - béo phì
84.5%
Biểu đồ 1. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu theo BMI (N=200)
Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn và thừa cân – béo phì ở đối tượng nghiên cứu lần lượt là
6,0% và 9,5%.
2. Đặc điểm khẩu phần ăn 24 giờ của đối tượng nghiên cứu
Bảng 2. Đặc điểm năng lượng trong khẩu phần ăn 24 giờ (N = 200)
Năng lượng khẩu phần ăn 24 giờ (TB ± ĐLC)
Năng lượng do P (Kcal)
Mean
297,1
943,2
427,7
1692,3
Số lượng
109
SD
123,8
377,5
277,8
606,5
Tỷ lệ (%)
54,5
Năng lượng do G (Kcal)
Năng lượng do L (Kcal)
Tổng năng lượng (Kcal)
Đáp ứng năng lượng khẩu phần 24h theo NCKN
Đáp ứng <80% so với NCKN
Đáp ứng từ 80-100% so với NCKN
Đáp ứng >100% so với NCKH
32
16,0
59
29,5
206
TCNCYH 140 (4) - 2021
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Năng lượng trung bình trong khẩu phần 24 giờ của đối tượng nghiên cứu là 1692,3±606,5 Kcal.
54,5% đối tượng nghiên cứu có năng lượng khẩu phần thấp hơn 80% so với NCKN, 16% đáp ứng
được từ 80-100% năng lượng khẩu phần so với NCKN. 29,5% đối tượng đáp ứng năng lượng khẩu
phần cao hơn so với NCKN.
Bảng 3. Thực trạng đáp ứng các chất sinh năng lượng
trong khẩu phần 24h theo nhu cầu khuyến nghị (N=200)
% đáp ứng năng lượng so
Số lượng (%)
với NCKN (Mean ±SD)
Đáp ứng khuyến nghị Protenin (g/kg/ngày)
Đáp ứng <80% so với khuyến nghị
37(18,5%)
31(15,5%)
132(66,0%)
Đáp ứng từ 80-100% so với khuyến nghị
Đáp ứng >100% so khuyến nghị
17,7 ± 4,7
21,1 ± 13,5
46,6 ± 18,6
Đáp ứng Lipid theo khuyến nghị (g/ngày)
Đáp ứng thấp hơn giới hạn khuyến nghị
Đáp ứng đủ trong giới hạn khuyến nghị
Đáp ứng cao hơn giới hạn khuyến nghị
Đáp ứng Glucid theo khuyến nghị (g/ngày)
Thấp hơn so với giới hạn khuyến nghị
Đáp ứng đủ trong giới hạn khuyến nghị
Đáp ứng cao hơn giới hạn khuyến nghị
117 (58,5)
26 (13,0)
57 (28,5)
154(77,0)
18(9,0)
28(14,0)
Tỷ lệ đáp ứng Glucid thấp hơn so với NCKN chiếm cao nhất với 77,0%. Tiếp theo là Lipid với tỷ lệ
đáp ứng thấp hơn NCKN là 58,5%. Trong khi tỷ lệ đáp ứng Protein vượt khuyến nghị lên đến 66,0%.
Cơ cấu tỷ lệ phần trăm P:L:G đạt được trung bình là 17,7:21,1:46,6.
Bảng 4. Tỷ lệ phụ nữ đáp ứng thấp hơn khuyến nghị một số vitamin
và khoáng chất trong khẩu phần 24 giờ (N=200)
Chất dinh dưỡng
Canxi (mg)
Số lượng (%)
183(91,5)
87(43,5)
Chất dinh dưỡng
Vitamin B1(mg)
Số lượng (%)
99(49,5)
Sắt (mg)
Vitamin B2 (mg)
167(83,5)
123(61,5)
78(39,0)
Kẽm (mg)
88(44,0)
Vitamin B3 (mg)
Vitamin A-RE (µg)
Vitamin C*(mg)
Vitamin B12 (µg)
128(64,0)
68(34,0)
Vitamin B6 (mg)
Folate(vitamin B9) (µg)
137(68,5)
142(71,0)
Tỷ lệ phụ nữ đáp ứng Vitamin và khoáng chất thấp hơn NCKN còn cao. Trong đó tỷ lệ phụ nữ
đáp ứng Canxi thấp hơn so với NCKN chiếm cao nhất với 91,5%. Vitamin C có tỷ lệ phụ nữ đáp ứng
thấp hơn NCKN thấp nhất với 34,0%.
TCNCYH 140 (4) - 2021
207
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
nhiều nghiên cứu khác, tuy nhiên tỷ lệ thừa cân
béo phì khá cao với 9,5%. Kết quả nghiên cứu
này cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của
tác giả Nasima Akhter và cộng sự (2007) khi
nghiên cứu về xu hướng thiếu cân, thừa cân,
béo phì ở phụ nữ nghèo thành thị tại Banglades
trong giai đoạn 2000 đến 2004 tỷ lệ thừa cân –
béo phì là 9,1%, trong đó tỷ lệ béo phì ở những
phụ nữ nghèo tại thành thị là 1,1%. Nghiên cứu
cũng cho thấy tỷ lệ phụ nữ nghèo ở khu vực
thành thị có nguy cơ thừa cân hoặc béo phì cao
hơn và nguy cơ suy dinh dưỡng thấp hơn so với
những phụ nữ nghèo thuộc khu vực nông thôn.13
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 35,5
± 7,2 tuổi, chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 30 - 40
với tỷ lệ 50,5%. Độ tuổi của đối tượng trong
nghiên cứu của chúng tôi trẻ hơn kết quả nghiên
cứu của tác giả Đỗ Nam Khánh và cộng sự
(2019) 5 với tuổi trung bình là 37,9 và tỷ lệ nhóm
tuổi từ 40-50 tuổi chiếm 48,6%. Tỷ lệ đối tượng
nghiên cứu của chúng tôi có trình độ học vấn
dưới trung học phổ thông khá cao với 43,5%.
So với kết quả nghiên cứu của tác giả Đỗ Nam
Khánh và cộng sự (2019)5 với tỷ lệ phụ nữ có
thu nhập thấp có trình độ học vấn từ trung cấp
trở lên (93,2%) thì trình độ học vấn của nhóm
nghiên cứu chúng tôi thấp hơn khá nhiều. Sự
khác biệt này có thể do sự đặc điểm kinh tế, văn
hóa giữa 2 khu vực nghiên cứu của chúng tôi
và của tác giả Đỗ Nam Khánh.5 Về nghề nghiệp
chính của các đối tượng tham gia trong nghiên
cứu của chúng tôi, phần lớn là làm công việc làm
công ăn lương và buôn bán tự do với tỷ lệ lần
lượt là 65,5% và 24,0%. Mặc dù là tỷ lệ làm công
ăn lương tương đối cao, tuy nhiên họ vẫn thuộc
nhóm có thu nhập thấp để tham gia trong nghiên
cứu của chúng tôi, có lẽ một phần do trình độ
học vấn của họ vẫn ở mức thấp, do vậy mà mặc
dù vẫn có công ăn việc làm nhưng có lẽ thu nhập
của họ không được cao.
Kết quả nghiên cứu về khẩu phần ăn 24h của
đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy năng lượng trung bình trong khẩu phần ăn
24h là 1692,3 ± 606,5 (Kcal). Kết quả này của
chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên cứu
5
của tác giả Đỗ Nam Khánh (2019) với mức
năng lượng khẩu phần 24h trung bình của phụ
nữ thu nhập thấp khu vực Đống Đa là 1851 Kcal/
người. Ngoài ra, hơn 50% phụ nữ ở nghiên cứu
của chúng tôi có khẩu phần năng lượng thấp
hơn 80% so với khuyến nghị. Tỷ lệ phụ nữ đáp
ứng thiếu Protein, Lipid, Glucid theo khuyến
nghị còn cao tương ứng là: 18,5% (đáp ứng
dưới 80% khuyến nghị), 58,5% và 77,0%. Ngoài
ra tỷ lệ đáp ứng thiếu Vitamin và khoáng chất
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng khá cao
với 91,5% phụ nữ đáp ứng thiếu Canxi, 83,5%
phụ nữ đáp ứng thiếu Vitamin B3. Tỷ lệ phụ nữ
đáp ứng thiếu Vitamin B12, B9, A, và C lần lượt
là 71,0%, 68,5%, 64,0% và 34,0%. Sẽ là bất hợp
lý khi phần lớn khẩu phần ăn của các đối tượng
trong nghiên cứu của chúng tôi đang đáp ứng
thiếu nhu cầu khuyến nghị cả về năng lượng
khẩu phần, hàm lượng Glucid, Lipid cũng như
vi chất dinh dưỡng nhưng lại có tỷ lệ đối tượng
thiếu năng lượng trường diễn khá thấp (6,0%),
trong khi tỷ lệ thừa cân béo phì lại là 9,5%. Tuy
nhiên, xét trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ
Kết quả nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng
cho thấy tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn là
6,0% thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của
nhiều tác giả khác. Kết quả nghiên cứu của Trần
Nguyên Đức và cộng sự (2007) ở phụ nữ từ 15
- 49 tuổi tại huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, tỷ lệ
thiếu năng lượng trường diễn là 10,3%,11 nghiên
cứu của Hồ Thu Mai và cộng sự (2013) tại huyện
Côn Đảo cho thấy tỷ lệ thiếu năng lượng trường
diễn của phụ nữ tuổi sinh đẻ là 14%.12
Mặc dù tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn
trong nghiên cứu của chúng tôi khá thấp so với
208
TCNCYH 140 (4) - 2021
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
số BMI cao dường như không phản ảnh sự
dư thừa năng lượng trong khẩu phần. Có thể
tình trạng dinh dưỡng này đã tồn tại từ nhiều
năm trước đó, trong khi đối tượng nghiên cứu
của chúng tôi có thể mới tới định cư tại địa bàn
nghiên cứu trong thời gian ngắn (≥12 tháng).
Giả định tiếp theo có thể đặt ra trong nghiên cứu
của chúng tôi đó là xu hướng thừa cân béo phì
đang gia tăng, trong nghiên cứu của chúng tôi
tỷ lệ này theo phân loại BMI của WHO (2000) là
9,5%, nhưng nếu xét phân loại chỉ số này theo
khuyến nghị của người châu Á thì tỷ lệ này lên
đến 22,0%. Như vậy, trong thực tế tỷ lệ phụ nữ
có xu hướng TC-BP trong nghiên cứu của chúng
tôi khá cao. Với những ảnh hưởng tiêu cực của
TC-BP đến sức khỏe và thẩm mĩ đã được đề
cập nhiều trên các phương tiện thông tin đại
chúng, điều này rất có thể sẽ tác động đến hành
vi ăn uống chủ động giảm tiêu thụ thực phẩm với
mong muốn giảm cân, cải thiện vóc dáng của đối
tượng nghiên cứu. Bên cạnh đó các khuyến nghị
về sử dụng chế độ ăn thấp Cacbonhydrat nhằm
hạn chế nguy cơ bệnh tiểu đường và một số chế
độ ăn kiêng giảm cân như chế độ Ketogenic…
có thể là một trong những nguyên khiến cho
khẩu phần ăn của đối tượng nghiên cứu bị giới
hạn về năng lượng, hàm lượng Glucid và Lipid
so với NCKN nhưng có hàm lượng Protein cao
hơn so với NCKN với tỷ lệ tới phụ nữ đáp ứng
cao hơn so với NCKN là 66,0%. Kết quả nghiên
cứu của tác giả Đỗ Nam Khánh (2019) trên phụ
nữ ở hộ gia đình thu nhập thấp cũng ghi nhận
các kết quả tượng tự về sự đáp ứng thiếu hụt
Glucid và dư thừa Protein trong khẩu phần với
tỷ lệ P:L:G là 21,2:31:47,8. Mức độ đáp ứng
protein ở các đối tượng nghiên cứu cũng khá
cao lên đến 159% so với NCKN và mức độ đáp
ứng Glucid so với khuyến nghị chỉ đạt 65,8% so
với NCKN.5 Ngoài ra, có một số nghiên cứu trên
thế giới đã chỉ ra rằng khả năng thiếu hụt vi chất
dinh dưỡng có thể góp phần gây béo phì và lắng
đọng chất béo. Cải thiện tình trạng dinh dưỡng
của vitamin và khoáng chất có thể là một biện
pháp phòng ngừa chi phí thấp để giảm tỷ lệ thừa
cân-béo phì. Tuy nhiên, hiện nay, người ta cũng
chưa xác định được cơ chế nào làm cơ sở cho
mối liên hệ giữa thiếu vi chất dinh dưỡng cụ thể
và béo phì.14 Do vậy mặc dù khẩu phần ăn của
phần lớn phụ nữ trong nghiên cứu của chúng tôi
thiếu năng lượng, hàm lượng Glucid, Lipid và vi
chất dinh dưỡng so với khuyến nghị nhưng lại có
tỷ lệ CED khá thấp.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn và thừa
cân - béo phì ở phụ nữ thu nhập thấp ở lần lượt
là 6,0% và 9,5%. Cơ cấu khẩu phần 24 giờ chưa
hợp lý và tỷ lệ đáp ứng thiếu vi chất dinh dưỡng
còn cao. Do vậy cần có các biện pháp can thiệp
để cải thiện tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần
24 giờ của nhóm phụ nữ trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Thị Phương Hoa. Tình trạng dinh
dưỡng, thiếu máu và hiệu quả bổ sung sắt hàng
tuần ở phụ nữ 20-35 tuổi tại huyện Lục Nam tỉnh
Bắc Giang. Hà Nội: Luận án Tiến sĩ Dinh dưỡng,
Viện Dinh dưỡng quốc gia; 2013.
2. Nguyễn Hương Giang, Nguyễn Quang
Dũng. Tình trạng dinh dưỡng, đặc điểm cấu trúc
cơ thể của bà mẹ có con từ 1 đến 5 tuổi người
Dao tại một số xã thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao
Bằng năm 2014. Tạp chí Y tế công cộng 2017;44.
3. Văn Quang Tân. Thực trạng tình trạng dinh
dưỡng trước - trong thời kì mang thai của bà mẹ
và chiều dài, cân nặng của trẻ sơ sinh tại tỉnh
Bình Dương năm 2010 -2012. Hà Nội: Luận án
Tiến sĩ, Trường đại học Y tế công cộng; 2015.
4. Viện dinh dưỡng quốc gia, Uniceff. Tình
hình dinh dưỡng Việt Nam 2009-2010. Nhà xuất
bản Y học; 2011.
5. Đỗ Nam Khánh, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn
Thị Thu Liễu và cộng sự. Khẩu phần ăn 24 giờ và
TCNCYH 140 (4) - 2021
209
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
kiến thức, thái độ về dinh dưỡng của phụ nữ có thu
nhập thấp tại quận Đống Đa, Hà Nội, năm 20219.
Tạp chí Nghiên cứu Y học,. 2019;120(4):113-120.
11. Trần Nguyên Đức, Nguyễn Quang Hùng.
Tình trạng Dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi, phụ
nữ tuổi sinh đẻ và mức tiêu thụ lương thực thực
phẩm của các hộ gia đình thuộc xã miền núi Tà
Lài, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai năm 2005. Tạp
chí Dinh dưỡng và Thực phẩm. 2007;3(1):21-30.
6. Amelia F. Darrouzet-Nardi, William
A. Urbanization, market development and
malnutrition in farm households: evidence from
the Demographic and Health Surveys, 1986–
2011. Food Security. 2015;7: 521–533.
12. Hồ Thu Mai. Hiệu quả của truyền thông
giáo dục và bổ sung viên Sắt/Folic đối với tình
trạng dinh dưỡng và thiếu máu của phụ nữ 20
- 35 tuổi tại 3 xã huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
Hà Nội: Luận án Tiến sĩ Dinh dưỡng, Viện Dinh
dưỡng quốc gia; 2013.
7. Matthews Z, Channon, A, Neal S, et al.
Examining the “urban advantage” in maternal
health care in developing countries. PLoS
Medicine,. 2010; 7(9)
13. Shafique S, Akhter N, Stallkamp G, et al.
Trends of under- and overweight among rural and
urban poor women indicate the double burden of
malnutrition in Bangladesh. International Journal
of Epidemiology. 2007;32(6):449–457.
8. Viện dinh dưỡng quốc gia. Thông tin giám
sát dinh dưỡng năm 2014. 2014.
9. Lê Thị Hợp, Huỳnh Nam Phương. Thống
nhất phương pháp kỹ thuật sử dụng trong đánh
giá thừa cân - béo phì của các nhóm tuổi khác
nhau. Tạp chí DD&TP. 2011;7(2):1-7.
14. Olga P, García KZL, Jorge L R. Impact of
micronutrient deficiencies on obesity. Nutrition
Reviews. 2009;67(10):559–572.
10. Viện dinh dưỡng quốc gia. Nhu cầu dinh
dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam năm
2016. Nhà xuất bản y học; 2016.
Summary
NUTRITIONAL STATUS AND 24-HOUR DIET OF LOW-INCOME
WOMEN IN NAM TU LIEM DISTRICT, HANOI IN 2019
A cross-sectional descriptive study was conducted to assess the 24-hour dietary intake and
nutritional status of 200 women aged 18-49 years old in low-income households of Nam Tu Liem
district in Hanoi in 2019. Results: 6.0 % of women had chronic energy deficiency and 9.5% of women
were overweight or obese. 54.5% of subjects met less than 80% of the dietary energy (E) intake
compared to recommendation. The rate of women responding to Protein is higher than recommended
is 66.0%. The percentage of women who did not meet the recommended requirements for Protein
(P), Lipid (L) and Glucid (G) of the dietary intake were: 18.5% (meets under 80% recommended),
58.5% and 77.0%.The proportion of inadequate vitamins and minerals is still high. Conclusion: The
dietary intake is not reasonable, the response to the lack of micronutrients is still high compared to
the recommendation. Interventions are needed to improve the nutritional status and dietary intake of
women living in low-income households.
Keywords: nutritional status, the dietary intake, low - income households, women aged 18-
49 years.
210
TCNCYH 140 (4) - 2021
Bạn đang xem tài liệu "Tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần 24 giờ của phụ nữ thu nhập thấp tại quận Nam Từ Liêm, Hà Nội năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tinh_trang_dinh_duong_va_khau_phan_24_gio_cua_phu_nu_thu_nha.pdf