Nhận thức về chất lượng giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng

86  
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94  
06(43) (2020) 86-94  
Nhận thức về chất lượng giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng  
Perception of sleep quality among nursing students  
Nguyễn Thị Bích Trâma,b*  
Nguyen Thi Bich Trama,b*  
aTrung tâm Thực hành Mô phỏng Y khoa, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam  
aMedical Simulation Center, Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam  
bKhoa Điều dưỡng, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam  
bFaculty of Nursing, Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam  
(Ngày nhận bài: 29/10/2020, ngày phản biện xong: 02/11/2020, ngày chấp nhận đăng: 17/12/2020)  
Tóm tắt  
Mục tiêu: Đánh giá mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ và xác định các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của sinh  
viên điều dưỡng năm nhất. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Áp dụng phương pháp nghiên cứu cắt ngang thông  
qua bộ câu hỏi PSQI (Thang đo chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh). Tổng cộng có 120 sinh viên Cử nhân điều  
dưỡng năm nhất tham gia vào nghiên cứu. Kết quả: Tổng điểm chỉ số chất lượng giấc ngủ PSQI trung bình của sinh  
viên là 4,88 (SD = 2,48) và có 35,4% người tham gia có tổng điểm PSQI lớn hơn 5, có liên quan đến chất lượng giấc  
ngủ kém. Có 67,5% sinh viên tự đánh giá chất lượng giấc ngủ của họ tốt và rất tốt mặc dù tổng điểm PSQI cho thấy chỉ  
có 64,5% sinh viên mới thực sự có chất lượng giấc ngủ tốt. Các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng  
năm nhất bao gồm: Các rối loạn giấc ngủ, rối loạn chức năng ban ngày và việc uống thuốc ngủ. Trong đó các rối loạn  
giấc ngủ phổ biến nhất là không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 30 phút, thức dậy vào giữa đêm hoặc sáng sớm, phải  
dậy để đi vệ sinh và tiếng ồn.  
Kết luận: Sinh viên chưa cảm nhận được thực sự chất lượng giấc ngủ của họ như thế nào điều này có thể do sinh viên  
còn thiếu kiến thức về những yếu tố tạo nên chất lượng giấc ngủ tốt.  
Từ khóa: Chất lượng giấc ngủ, sinh viên Điều dưỡng, rối loạn giấc ngủ, rối loạn chức năng ban ngày và thuốc ngủ.  
Abstract  
Objectives: Explore the perception of sleep quality and identify the sleep-related factors of freshman nursing students.  
Method: This study had a descriptive, cross-sectional survey design using the Pittsburgh Sleep Quality Index (PSQI)  
with a total of 120 students participating in this study. Result: The students' sleep quality index mean score was 4.88  
(SD = 2.48). 35.4% of participants had PSQI scores greater than 5, which was associated with poor sleep quality. 67.5%  
of students self-rated their sleep quality as good and very good although the overall PSQI score showed that only 64.5%  
of participants had good sleep quality. Sleep-related factors of freshman nursing students included: sleep disturbances,  
daytime dysfunction, and the use of sleeping pills. The most common sleep disorders were the inability to fall asleep  
within 30 minutes, waking up in the middle of the night or the early morning, having to get up to use the toilet, and  
noise. Conclusion: Students did not realize that the quality of their sleep was poor. This may be due to the lack of  
knowledge about the factors that contribute to good sleep quality.  
Keywords: Sleep quality, nursing students, sleep disturbance, daytime dysfunction, sleeping pills.  
*
Corresponding Author: Nguyen Thi Bich Tram; Medical Simulation Center, Duy Tan University, Danang, 550000,  
Vietnam; Faculty of Nursing, Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam  
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94  
87  
1. Đặt vấn đề  
HBM là mô hình tâm lý được phát triển nhằm  
giải thích và dự đoán hành vi liên quan đến sức  
khỏe. Bốn thành phần chính của HBM là: tính  
nhạy cảm nhận thức (perceived susceptibility),  
mức độ nghiêm trọng của nhận thức (perceived  
severity), lợi ích của nhận thức (perceived  
benefits) và rào cản nhận thức (perceived  
barriers) [7]. Trong những năm qua, mô hình  
được mở rộng bao gồm các tín hiệu hành động  
(cues to action), tính hiệu quả (self-efficacy) và  
các yếu tố thúc đẩy (motivating factors) [7].  
Giấc ngủ là điều cần thiết cho sức khỏe thể  
chất và tinh thần. Chất lượng giấc ngủ kém và  
thói quen ngủ kém có thể dẫn đến thiếu ngủ,  
gây hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe và xã  
hội [8]. So với các vấn đề sức khỏe khác thì sức  
khỏe giấc ngủ là chủ đề chưa được nghiên cứu  
nhiều [12]. Đặc biệt vấn đề giấc ngủ của sinh  
viên điều dưỡng cũng cần phải được quan tâm.  
Nghiên cứu chỉ ra rằng sinh viên điều dưỡng  
còn thiếu kiến thức về hậu quả của việc thiếu  
ngủ cũng như ảnh hưởng của nó đến chất lượng  
và sự an toàn khi chăm sóc người bệnh [16].  
Bên cạnh đó, sinh viên năm nhất có nguy cơ  
thiếu ngủ nghiêm trọng vì đây là thời gian ít sự  
giám sát của người lớn, lịch trình thất thường  
và dễ dàng tiếp cận với các loại hình giải trí  
khác nhau [14]. Ngoài ra, đây cũng có thể là lần  
đầu sinh viên phải sống trong ký túc xá hoặc  
nhà trọ, điều này cũng liên quan đến chất lượng  
giấc ngủ kém [3]. Đối với sinh viên điều  
dưỡng, các nguyên nhân gây rối loạn giấc ngủ  
được báo cáo bao gồm phải thức dậy quá sớm  
hoặc thường xuyên thức dậy lúc nửa đêm [10].  
Đối với sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất,  
việc vừa học vừa làm và thức khuya để học bài  
cũng được tìm thấy có ảnh hưởng tiêu cực đến  
chất lượng giấc ngủ [4].  
Một nghiên cứu gần đây đã sử dụng HBM  
để dự đoán hành vi giấc ngủ ở sinh viên đại  
học, nghiên cứu tìm thấy có mối tương quan  
thuận giữa mức độ nghiêm trọng của nhận thức  
với giấc ngủ [11]. Sinh viên cảm nhận được các  
hậu quả tức thời của việc ngủ không đủ giấc,  
chẳng hạn như căng thẳng hoặc không thể tập  
trung vào công việc. Bên cạnh đó, các tín hiệu  
hành động để có được giấc ngủ đầy đủ được  
tìm thấy bao gồm tạo môi trường phòng ngủ  
thoải mái, giảm căng thẳng, thư giãn trước khi  
đi ngủ và duy trì lịch trình ngủ đều đặn [11].  
Thành phần HBM được sử dụng trong  
nghiên cứu này là nhận thức cá nhân (tính nhạy  
cảm và mức độ nghiêm trọng của nhận thức) và  
yếu tố thúc đẩy. Nhận thức cá nhân chứa bảy  
thành phần của chỉ số chất lượng giấc ngủ  
Pittsburgh (PSQI: Pittsburgh Sleep Quality  
Index) và số giờ ngủ mỗi đêm cần thiết để cảm  
thấy được nghỉ ngơi. Yếu tố thúc đẩy gồm  
thông tin sinh viên (tuổi, giới tính) và tín hiệu  
hành động có thể xảy ra (sinh viên tin rằng  
điểm số sẽ được cải thiện nếu ngủ nhiều hơn).  
Để hiểu rõ hơn về giấc ngủ của sinh viên  
điều dưỡng, người sẽ trực tiếp chăm sóc người  
bệnh và ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ  
chăm sóc y tế trong tương lai.  
Nghiên cứu gồm 2 mục tiêu:  
1. Đánh giá mức độ nhận thức về chất lượng  
giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng năm nhất,  
2. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu  
2. Xác định các yếu tố liên quan đến giấc  
ngủ của sinh viên.  
2.1. Thiết kế nghiên cứu  
Mô hình khung khái niệm được sử dụng  
trong nghiên cứu này là mô hình niềm tin sức  
khỏe Rosenstock (HBM - Health Belief Model).  
Thiết kế nghiên cứu được sử dụng trong  
nghiên cứu này là thiết kế nghiên cứu cắt ngang  
và sử dụng bảng câu hỏi có cấu trúc.  
88  
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94  
2.2. Cỡ mẫu  
Công thức tính cỡ mẫu:  
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng  
một tỷ lệ:  
nguyện và họ được phép rút khỏi nghiên cứu  
bất kỳ thời điểm nào trong khi hoàn thành bảng  
câu hỏi. Bảng câu hỏi sẽ được trao cho sinh  
viên để hoàn thành và gửi lại cho tác giả, việc  
này sẽ không mất quá 15 phút.  
2.5. Bộ công cụ nghiên cứu  
Bộ công cụ nghiên cứu gồm ba phần: các  
câu hỏi về thông tin người tham gia, câu hỏi về  
nhận thức cá nhân và tín hiệu hành động, và bộ  
câu hỏi về thang đo chỉ số chất lượng giấc ngủ  
Pittsburgh (PSQI). Phần thông tin người tham  
gia gồm các câu hỏi về tuổi và giới tính. Phần  
nhận thức cá nhân và tín hiệu hành động gồm  
hai câu hỏi. Câu hỏi đầu tiên kiểm tra xem số  
giờ ngủ mỗi đêm mà sinh viên cảm thấy là cần  
thiết để được nghỉ ngơi (nhận thức cá nhân) và  
câu hỏi thứ hai kiểm tra xem sinh viên có tin  
rằng nếu ngủ nhiều hơn thì điểm số của họ sẽ  
được cải thiện (tín hiệu hành động).  
Trong đó:  
n: cỡ mẫu  
α: xác suất sai lm loi I (=0,05)  
Z
(1-α/2) = 1,96  
d: sai số cho phép, chọn d = 0,05  
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Trang  
thì tỷ lệ p = 8% [2]. Do đó, cỡ mẫu ước lượng  
là 114 đối tượng.  
Thực tế chúng tôi nghiên cứu được 120 đối  
tượng.  
Đối tượng nghiên cứu ở đây là các sinh viên  
cử nhân Điều dưỡng năm thứ nhất đang học tại  
Trường Đại học Duy Tân.  
PSQI là công cụ được sử dụng phổ biến  
nhất trên nghiên cứu lâm sàng, hiện tại đây là  
công cụ lâm sàng được tiêu chuẩn hóa duy nhất  
bao gồm một loạt các chỉ số liến quan đến chất  
lượng giấc ngủ [15][4]. PSQI bao gồm 7 phần  
và 19 mục, mỗi mục có phạm vi từ 0 đến 3  
điểm, điểm tổng có thể dao động từ 0 - 21.  
Tổng điểm càng cao, chất lượng giấc ngủ càng  
kém [5]. Bảy thành phần của PSQI gồm: chất  
lượng giấc ngủ (sleep quality), thời gian đi vào  
giấc ngủ (sleep latency), thời gian ngủ (sleep  
duration), hiệu quả giấc ngủ theo thói quen  
(habitual sleep efficiency), rối loạn giấc ngủ  
(sleep disturbances), sử dụng thuốc ngủ (use of  
sleeping medications) và rối loạn chức năng  
ban ngày (daytime dysfunction). PSQI có hệ số  
tương quan là 0,85 (p < 0,001) và hệ số độ tin  
cậy (Cronbach alpha) là 0,83; khi phân biệt  
giữa người ngủ kém và người ngủ tốt, điểm số  
lớn hơn 5 trên PSQI được chứng minh có độ  
nhạy 89,6% và độ đặc hiệu 86,5% [5].  
2.3. Phương pháp chọn mẫu  
Chọn mẫu thuận tiện (Convenience sampling)  
được sử dụng để tiếp cận sinh viên.  
2.4. Quy trình thu thập số liệu  
Tác giả đã khảo sát các sinh viên năm nhất  
trong học kỳ thứ hai của năm học 2019-2020,  
thời gian khảo sát kéo dài từ ngày 10 tháng 01  
năm 2020 đến ngày 29 tháng 3 năm 2020. Tác  
giả đã gửi bộ khảo sát online đến các sinh viên.  
Mục đích của nghiên cứu, vai trò của người  
tham gia, cũng như những gì tác giả dự định  
làm sẽ được giải thích cho từng người tham gia.  
Mỗi sinh viên sẽ được cung cấp một mẫu thông  
tin giải thích chi tiết về nghiên cứu và sau khi  
đọc, họ sẽ được yêu cầu hoàn thành một mẫu  
đơn đồng ý trước khi trả lời bảng câu hỏi.  
Những người tham gia sẽ được thông báo rằng  
việc tham gia vào nghiên cứu là hoàn toàn tự  
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94  
89  
2.6. Phân tích dữ liệu  
Tt  
68 (56,7)  
Kém  
37 (30,8)  
2 (1,7)  
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS  
18.0, sử dụng phép phân tích thống kê mô tả và  
phân tích mối tương quan Spearman giữa bảy  
thành phần của PSQI với mức ý nghĩa thống kê  
là p < 0,05.  
Rt kém  
Bảng 3.1 cho thấy phần lớn sinh viên báo  
cáo cần ngủ từ 7 - 9 giờ mỗi đêm để cảm thấy  
được nghỉ ngơi (n = 92; 76,7%). Sinh viên  
được yêu cầu tự đánh giá chất lượng giấc ngủ  
của họ nói chung và có 67,5% sinh viên đánh  
giá chất lượng giấc ngủ của họ tốt và rất tốt  
(n = 81), mặc dù tổng điểm PSQI cho thấy chỉ  
có 64,5% số người tham gia (n = 75) mới thực  
sự có chất lượng giấc ngủ tốt.  
2.7. Đạo đức nghiên cứu  
Nghiên cứu đã được phê duyệt bởi Hội đồng  
Y Sinh Dược Trường Đại học Duy Tân. Sự  
đồng thuận tham gia nghiên cứu của người  
tham gia được ngụ ý thông qua việc người tham  
gia gửi lại bảng câu hỏi sau khi hoàn thành. Sự  
tham gia là tự nguyện và người tham gia hoàn  
toàn được ẩn danh.  
Bảng 3.2. Giá trị trung bình và độ lệch  
chuẩn của các biến đo lường giấc ngủ  
3. Kết quả và phân tích  
Đo lường gic ngủ  
Giờ đi ngủ  
M ± SD  
11:26 pm ± 1,12  
21,4 phút ± 18  
7:11 am ± 1,54  
7,06 gi± 1,47  
3.1. Thông tin người tham gia  
Số phút đi vào giấc ngủ  
Thi gian thc dy  
Thi gian ngủ  
Có 120 sinh viên điều dưỡng năm nhất đã  
tham gia vào nghiên cứu này. Tuổi trung bình của  
những người tham gia là 18,7 tuổi (trong khoảng  
18 - 25 tuổi) và 90% sinh viên là nữ (n = 108).  
Bảng 3.2 cho thấy thời gian đi ngủ trung  
bình của sinh viên là khoảng vào lúc 11:26 pm  
(SD = 1,12; range: 9:30 pm - 2:30 am) và số  
phút đi vào giấc ngủ mỗi đêm trung bình là  
21,4 phút (SD = 18; range: 1 - 120 phút).  
Khoảng 11,8% người tham gia (n = 14) báo cáo  
thời gian đi vào giấc ngủ từ 45 phút trở lên.  
Thời gian thức dậy trung bình khoảng 7:11 am  
(SD = 1,54; range: 4 am - 1 pm) và thời gian  
ngủ trung bình là 7,06 giờ (SD = 1,47; range:  
2,5 - 11 giờ) Bảng 2). Có 20% sinh viên cảm  
thấy rằng nếu ngủ nhiều hơn, điểm số của họ sẽ  
được cải thiện (n = 24).  
3.2. Mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ  
của sinh viên điều dưỡng năm nhất  
Tổng điểm chỉ số chất lượng giấc ngủ PSQI  
trung bình của mẫu là 4,88 (SD = 2,48; range:  
0 - 12), hai giá trị xuất hiện thường xuyên nhất  
(mode) là 4 và 5. Có 35,4% (n = 41) người  
tham gia có tổng điểm PSQI lớn hơn 5, có liên  
quan đến chất lượng giấc ngủ kém.  
Bảng 3.1. Phần trăm các biến đo lường giấc  
ngủ  
Biến số  
n = 120 (%)  
Sgingcn thiết để cm thấy được nghỉ  
ngơi  
Bảng 3.3. Tần suất xuất hiện các rối loạn  
giấc ngủ  
0 - 4 tiếng  
0 (0)  
n = 120  
(%)  
Trong tháng qua, bn có  
thường xuyên khó ngvì  
5 - 6 tiếng  
7 - 8 tiếng  
25 (20,8)  
69 (57,5)  
23 (19,2)  
3 (2,5)  
Không thể đi vào giấc ngtrong vòng 30 phút  
8 - 9 tiếng  
35 (29,2)  
26 (21,7)  
Không  
Nhiều hơn 9 tiếng  
Chất lượng gic ngnói chung  
Rt tt  
Có vi tn sut trung bình ít  
hơn 1 lần 1 tun  
13 (10,8)  
90  
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94  
32 (26,7)  
27 (22,5)  
5 (4,2)  
1 hoc 2 ln 1 tun  
3 ln trlên trong 1 tun  
Gp ác mng  
3 ln trlên trong 1 tun  
Thc dy giữa đêm và sáng sớm  
Không  
77 (64,2)  
24 (20,0)  
Không  
50 (41,7)  
24 (20,0)  
Có vi tn sut trung bình ít  
hơn 1 lần 1 tun  
Có vi tn sut trung bình ít  
hơn 1 lần 1 tun  
12 (10,0)  
7 (5,8)  
1 hoc 2 ln 1 tun  
3 ln trlên trong 1 tun  
Bị đau  
26 (21,7)  
20 (16,7)  
1 hoc 2 ln 1 tun  
3 ln trlên trong 1 tun  
Phi dậy để đi vệ sinh  
Không  
82 (68,3)  
28 (23,3)  
Không  
59 (49,2)  
35 (29,2)  
Có vi tn sut trung bình ít  
hơn 1 lần 1 tun  
Có vi tn sut trung bình ít  
hơn 1 lần 1 tun  
3 (2,5)  
7 (5,8)  
1 hoc 2 ln 1 tun  
3 ln trlên trong 1 tun  
Nhng lý do khác  
Không  
14 (11,7)  
12 (10,0)  
1 hoc 2 ln 1 tun  
3 ln trlên trong 1 tun  
Không thththoi mái  
Không  
7 (14,6)  
90 (75,0)  
16 (13,3)  
14 (29,2)  
Có vi tn sut trung bình ít  
hơn 1 lần 1 tun  
Có vi tn sut trung bình ít  
hơn 1 lần 1 tun  
14 (29,2)  
13 (27,1)  
1 hoc 2 ln 1 tun  
8 (6,7)  
6 (5,0)  
1 hoc 2 ln 1 tun  
3 ln trlên trong 1 tun  
Ho hoc ngáy to  
Không  
3 ln trlên trong 1 tun  
Sinh viên được yêu cầu chọn tần suất trải  
qua một số rối loạn giấc ngủ trong vòng một  
tháng qua dựa trên thang điểm sau: Không trải  
qua, có trải qua nhưng với tần suất trung bình ít  
hơn một lần một tuần, một hoặc hai lần một  
tuần, ba hoặc nhiều lần một tuần (Bảng 3.3).  
Các rối loạn giấc ngủ phổ biến nhất được báo  
cáo bởi sinh viên dựa trên tần suất xảy ra là  
không thể đi vào giấc ngủ trong vòng 30 phút,  
thức dậy vào giữa đêm hoặc sáng sớm, phải dậy  
để đi vệ sinh và những lý do khác mà sinh viên  
mô tả bao gồm: do áp lực học tập, nhớ nhà,  
căng thẳng, lo lắng chi tiêu, dùng facebook,  
uống caffe, ngủ trưa nhiều, cơ thể nhức mỏi,  
đau đầu, tức ngực, muỗi đốt và tiếng ồn. Có  
10% (n = 12) sinh viên thấy khó đi vào giấc  
ngủ do suy nghĩ nhiều và hai sinh viên báo cáo  
điều này xảy ra ba lần mỗi tuần hoặc nhiều hơn.  
100 (83,3)  
10 (8,3)  
Có vi tn sut trung bình ít  
hơn 1 lần 1 tun  
5 (4,2)  
5 (4,2)  
1 hoc 2 ln 1 tun  
3 ln trlên trong 1 tun  
Cm thy quá lnh  
Không  
71 (59,2)  
30 (25,0)  
Có vi tn sut trung bình ít  
hơn 1 lần 1 tun  
14 (11,7)  
5 (4,2)  
1 hoc 2 ln 1 tun  
3 ln trlên trong 1 tun  
Cm thy quá nóng  
Không  
85 (70,8)  
21 (17,5)  
Có vi tn sut trung bình ít  
hơn 1 lần 1 tun  
9 (7,5)  
1 hoc 2 ln 1 tun  
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94  
91  
Bảng 3.4. Phần trăm các thành phần chất lượng giấc ngủ  
Trong tháng qua, bạn có thường xuyên  
Ung thuc nghay không?  
Không  
Có vi tn suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tun  
1 hoc 2 ln 1 tun  
n = 120 (%)  
117 (97,5)  
1 (0,8)  
2 (1,7)  
0 (0)  
3 ln trlên trong 1 tun  
Cm thy bun ngủ khi lái xe, khi ăn uống hay khi tham gia vào các hoạt đng xã hi hay không?  
Không  
66 (55,0)  
37 (30,8)  
11 (9,2)  
6 (5,0)  
Có vi tn suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tun  
1 hoc 2 ln 1 tun  
3 ln trlên trong 1 tun  
Cm thấy không có đủ nhit huyết để hoàn thành công vic hay không?  
Không  
Có vi tn suất trung bình ít hơn 1 lần 1 tun  
1 hoc 2 ln 1 tun  
54 (45,0)  
34 (28,3)  
21 (17,5)  
11 (9,2)  
3 ln trlên trong 1 tun  
Bảng 3.4 hiển thị phần trăm của các thành  
phần chất lượng giấc ngủ còn lại bao gồm sử  
dụng thuốc để hỗ trợ giấc ngủ, khó tỉnh táo  
trong các hoạt động xã hội và gặp vấn đề trong  
việc nhiệt tình hoàn thành nhiệm vụ. Khoảng  
2% sinh viên báo cáo dùng thuốc để hỗ trợ giấc  
ngủ ít nhất một lần mỗi tuần và 45% sinh viên  
khó giữ được tỉnh táo khi lái xe, khi ăn hoặc khi  
tham gia hoạt động xã hội. Hơn 50% sinh viên  
báo cáo không có nhiệt huyết để hoàn thành  
công việc với tần suất nhiều hơn một lần một  
tuần và khoảng 9,2% sinh viên gặp vấn đề này  
ba lần trở lên trong một tuần.  
Bảng 3.5. Mối tương quan của các thành phần PSQI  
Thành phn  
Thi  
gian  
ngủ  
Ri lon Thi gian  
Hiu  
Ung  
Ri lon  
Cht  
lượng  
gic ngủ  
Gii  
tính  
Tui  
PSQI  
gic ngủ  
đi vào  
gic ngủ  
0,067  
sut gic thuc chức năng  
ngủ  
-0,422  
ngủ  
ban ngày  
Thi gian  
ngủ  
Ri lon  
gic ngủ  
1,000  
0,085  
-0,261 -0,021  
0,209* 0,461**  
-0,042 -0,030  
-0,265  
-0,122 -0,045  
-0,151 -0,161  
-0,006 -0,096  
0,085  
1,000  
0,100  
1,000  
-0,022  
-0,063  
0,331**  
0,234**  
Thời gian đi 0,067  
0,100  
vào gic  
ngủ  
Hiu sut  
gic ngủ  
-0,422 -0,022  
-0,063  
-0,042  
-0,030  
1,000  
0,085  
0,041  
0,085 0,041  
1,000 0,226*  
0,226* 1,000  
0,073  
0,039  
0,265**  
-0,067 -0,008  
-0,051 -0,010  
-0,003 -0,079  
Ung thuc -0,261 0,209*  
ngủ  
Ri lon  
chức năng  
ban ngày  
Chất lượng -0,265 0,331**  
gic ngủ  
-0,021 0,461**  
0,234**  
0,073  
0,039 0,265**  
1,000  
-0,119 -0,139  
Gii tính  
Tui  
-0,122 -0,151  
-0,045 -0,161  
-0,006  
-0,096  
-0,067  
-0,008  
-0,051 -0,003  
-0,010 -0,079  
-0,119  
-0,139  
1,000  
0,068  
0,068  
1,000  
Ghi chú: * p < 0,05 và ** p ≤ 0,01  
92  
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 06(43) (2020) 86-94  
3.3. Các yếu tố liên quan đến giấc ngủ của  
sinh viên điều dưỡng  
viên Điều dưỡng mỗi đêm cần ngủ 7 tiếng trở  
lên để cảm thấy được nghỉ ngơi [16][5]. Ngoài  
ra, có 20% sinh viên tin rằng nếu họ ngủ nhiều  
hơn, điểm số của họ sẽ được cải thiện, cho thấy  
20% sinh viên này đang thừa nhận rằng việc  
thiếu ngủ có ảnh hưởng đến khả năng học tập  
của họ, đây là một dấu hiệu tích cực có thể dẫn  
đến thay đổi hành vi. Tuy nhiên, kết quả này  
trái với kết quả của một nghiên cứu gần đây,  
nghiên cứu đó báo cáo rằng 74% sinh viên Điều  
dưỡng tin rằng họ sẽ cải thiện học tập nếu ngủ  
nhiều hơn [16][5].  
Mối tương quan được đánh giá giữa bảy  
thành phần của PSQI. Có 6 mối tương quan đã  
được tìm thấy giữa các biến: rối loạn giấc ngủ  
và uống thuốc ngủ (r = 0,209; p = 0,022), rối  
loạn giấc ngủ và rối loạn chức năng ban ngày  
(r = 0,461; p = 0,000), rối loạn giấc ngủ và chất  
lượng giấc ngủ (r = 0,331; p = 0,000), thời gian  
đi vào giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ (r =  
0,234; p =0,010), uống thuốc ngủ và rối loạn  
chức năng ban ngày (r = 0,226; p = 0,013), rối  
loạn chức năng ban ngày và chất lượng giấc  
ngủ (r = 0,265; p = 0,003) (bảng 3.5).  
Thời gian ngủ trung bình trong nghiên cứu  
này là 7.06 giờ mỗi đêm, phù hợp với khuyến  
nghị của Tổ chức Giấc ngủ Quốc gia dành cho  
lứa tuổi vị thành niên [9][2]. Trong khi đó kết  
quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Khánh Linh và  
cộng sự cho thấy giờ ngủ trung bình của sinh  
viên hệ chính quy Trường Đại học Y Dược Huế  
là 6.1 giờ (SD = 1.05) [1][3]. Trong nghiên cứu  
này có khoảng 37.3% sinh viên Điều dưỡng  
trung bình ngủ ít hơn 7 giờ mỗi đêm. Kết quả  
này thấp hơn so với các kết quả nghiên cứu  
trước đây trên đối tượng sinh viên Điều dưỡng,  
các kết quả trước đây cho thấy 60% sinh viên  
Điều dưỡng ngủ ít hơn 7 giờ mỗi đêm trước khi  
đến lớp hoặc trước khi đi lâm sàng [4], [16]. Sự  
khác biệt có thể do đối tượng nghiên cứu được  
chọn, trong khi nghiên cứu này chỉ bao gồm  
các sinh viên Điều dưỡng năm nhất, còn nghiên  
cứu của Benavente và cộng sự gồm tất cả các  
đối tượng sinh viên Điều dưỡng từ năm 1 đến  
năm 4 và đối tượng nghiên cứu của Thomas và  
cộng sự là sinh viên Điều dưỡng năm cuối [4],  
[16]. Ngoài ra, thời gian hoàn thành khảo sát có  
thể là nguyên nhân tạo nên sự khác biệt này.  
Khảo sát này được hoàn thành từ ngày 10 tháng  
1 năm 2020 đến ngày 29 tháng 3 năm 2020.  
Trong khi nghiên cứu của Benavente và cộng  
sự được hoàn thành trong khoảng thời gian từ  
tháng 3 đến tháng 4 năm 2012, còn nghiên cứu  
của Thomas và cộng sự không chỉ rõ khoảng  
4. Thảo luận  
4.1. Mức độ nhận thức về chất lượng giấc ngủ  
của sinh viên điều dưỡng năm nhất  
Có 35.4% sinh viên Điều dưỡng năm nhất có  
chất lượng giấc ngủ kém. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ  
lệ sinh viên hệ chính quy Trường Đại học Y  
Dược Huế (có chất lượng giấc ngủ kém là  
49.4%) [1][3]. Kết quả này cũng trái với các  
nghiên cứu khác, các kết quả trước kết luận có  
71% đến 84% sinh viên Điều dưỡng có chất  
lượng giấc ngủ kém [4], [10]. Tuy nhiên, có  
67.5% sinh viên tự đánh giá chất lượng giấc  
ngủ của họ là tốt, trong khi tổng điểm PSQI cho  
thấy 64.5% sinh viên mới thực sự có chất lượng  
giấc ngủ tốt. Điều này cho thấy sinh viên chưa  
cảm nhận được thực sự chất lượng giấc ngủ của  
họ như thế nào. Sự khác biệt trong việc tự đánh  
giá của sinh viên về chất lượng giấc ngủ có thể  
do thiếu kiến thức về những yếu tố tạo nên chất  
lượng giấc ngủ tốt.  
Hầu hết sinh viên (khoảng 76.7%) thừa nhận  
cần ngủ từ 7 đến 9 giờ để cảm thấy được nghỉ  
ngơi, điều này phù hợp với khuyến nghị của Tổ  
chức Giấc ngủ Quốc gia về việc người trưởng  
thành cần ngủ từ 7 đến 9 giờ [9][2]. Kết quả  
này tương tự với kết quả từ nghiên cứu của  
Thomas và cộng sự, ông báo cáo rằng 85% sinh  
pdf 7 trang yennguyen 14/04/2022 4380
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức về chất lượng giấc ngủ của sinh viên điều dưỡng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnhan_thuc_ve_chat_luong_giac_ngu_cua_sinh_vien_dieu_duong.pdf