Thái độ và niềm tin của nữ sinh viên Đại học Duy Tân với trải nghiệm về chu kỳ kinh nguyệt
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146
137
04(41) (2020) 137-146
Thái độ và niềm tin của nữ sinh viên Đại học Duy Tân
với trải nghiệm về chu kỳ kinh nguyệt
Attitudes and beliefs of female students at Duy Tan University about the experience
of menstruation
Nguyễn Thị Bích Trâma,b*
Tram Thi Bich Nguyena,b*
aTrung tâm Thực hành Mô phỏng Y khoa - Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam
b
Khoa Điều dưỡng, Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam
aMedical Simulation Center - Duy Tan University, Danang, 550000, Vietnam
bFaculty of Nursing, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam
(Ngày nhận bài: 29/6/2020, ngày phản biện xong: 01/7/2020, ngày chấp nhận đăng: 26/8/2020)
Tóm tắt
Trải nghiệm về chu kỳ kinh nguyệt là một trong những vấn đề về sức khỏe sinh sản có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc
đời của người phụ nữ. Các mục tiêu của nghiên cứu này bao gồm: Mô tả thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt;
xác định mối tương quan và sự khác biệt giữa các biến liên quan đến thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt ở
nữ sinh viên. Phương pháp nghiên cứu: Bộ công cụ BATM đã được sử dụng trong nghiên cứu này. Kết quả: Có 200 nữ
sinh viên độ tuổi từ 18 đến 21 đã tham gia vào nghiên cứu. Hầu hết những người tham gia trải nghiệm kinh nguyệt ở độ
tuổi bình thường (90%) và đa số người tham gia cảm thấy rằng họ không chuẩn bị bất cứ điều gì cho việc hành kinh
(79.5%).
Kết luận: Mức độ chuẩn bị có mối tương quan thuận với mức độ hài lòng. Không chỉ ra sự khác biệt đáng kể nào giữa
các nhóm liên quan đến thái độ và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt. Nhìn chung, nghiên cứu này cung cấp khám phá
ban đầu để kiểm tra thái độ và niềm tin về kinh nguyệt. Do đó, nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để xác định các yếu tố
góp phần vào những thái độ và niềm tin này.
Từ khóa: Chu kỳ kinh nguyệt; trải nghiệm; sinh viên nữ; thái độ; niềm tin.
Abstract
The experience of menstruation is one of the reproductive health issues that are important in a woman’s life. The aims
of this study include: Describe attitudes and beliefs about the menstrual experience; identify the correlation and
differences between variables related to the attitudes and beliefs about the experience of menstruation in female
students. The BATM questionnaire was used in this study. 200 female students aged 18 to 21 participated in the study.
The findings showed that the vast majority of participants experienced menstruation at a normal age (90%). Most of the
participants felt that they weren't adequately prepared for menstruation (79.5%). The level of preparation had a positive
correlation with the level of satisfaction. The results did not show any significant differences between the variables
related to attitudes and beliefs about the menstrual experience. Overall, this study provided an initial exploration to test
the attitudes and beliefs about menstruation. Therefore, further studies are needed.
Keywords: Menstruation; experience; female students; attitudes; beliefs.
*
Corresponding Author: Tram Thi Bich Nguyen; Medical Simulation Center, Duy Tan University, Da Nang, 550000,
Vietnam; Faculty of Nursing, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam.
138
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146
hành kinh, thời gian kéo dài của một chu kỳ kinh
1. Đặt vấn đề
nguyệt và cường độ kinh nguyệt của phụ nữ [8].
Kinh nguyệt là một quá trình sinh lý bình
thường nhưng những hạn chế trong suốt thời
gian kinh nguyệt có thể ảnh hưởng tiêu cực đến
tâm lý của phụ nữ [11]. Có niềm tin cho rằng
kinh nguyệt ảnh hưởng đến năng suất của phụ
nữ, trong đó người phụ nữ đang có kinh nguyệt
sẽ khó tập trung, thể hiện khả năng phán đoán
kém, thiếu phối hợp thể chất, giảm hiệu quả và
hoạt động kém ở trường học hoặc tại nơi làm
việc [4]. Có rất ít bằng chứng khoa học ủng hộ
niềm tin này, tuy nhiên nếu niềm tin này lan
rộng có thể dẫn đến hạn chế các cơ hội của phụ
nữ tại nơi làm việc và trong xã hội nói chung,
đây có thể là nguyên nhân dẫn đến sự phân biệt
đối xử đối với phụ nữ [4].
Chính vì vậy 3 mục tiêu của nghiên cứu
được đặt ra như sau: Mô tả thái độ và niềm tin
về trải nghiệm kinh nguyệt. Xác định mối
tương quan giữa tuổi hành kinh, mức độ chuẩn
bị đối với mức độ khó chịu, mức độ kiêng cử,
mức độ giữ bí mật, mức độ bất lực và mức độ
hài lòng liên quan đến kinh nguyệt. Xác định sự
khác biệt giữa các nhóm dựa trên a.) Tuổi hành
kinh, b.) Mức độ chuẩn bị đối với mức độ khó
chịu, mức độ kiêng cử, mức độ giữ bí mật, mức
độ bất lực và mức độ hài lòng liên quan đến
kinh nguyệt.
Khung lý thuyết làm nền tảng cho nghiên
cứu này là mô hình sinh học - tâm lý - xã hội
(biopsychosocial model). Trong đó, các yếu tố
sinh học bao gồm tất cả các yếu tố liên quan
đến di truyền, sinh lý và sức khỏe. Yếu tố tâm
lý bao gồm tất cả các yếu tố nhận thức, cảm xúc
và tính cách bên trong. Các yếu tố văn hóa xã
hội bao gồm các yếu tố cá nhân, xã hội, văn hóa
và dân tộc [3].
Những nhận thức về kinh nguyệt, cả tiêu cực
và tích cực, sẽ được duy trì và bị ảnh hưởng bởi
các nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống khác
nhau [9]. Bên cạnh đó, thái độ của phụ nữ và
hành vi của họ đối với kinh nguyệt là kết quả của
sự tương tác phức tạp với niềm tin văn hóa, yếu
tố xã hội hóa và kinh nghiệm thực tế. Thái độ
đối với kinh nguyệt có thể bị ảnh hưởng bởi tuổi
Hình 1: Mô hình sinh học - tâm lý - xã hội
2. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu
2.2. Cỡ mẫu
2.1. Thiết kế nghiên cứu
Công thức tính cỡ mẫu:
Thiết kế nghiên cứu được sử dụng trong
nghiên cứu này là thiết kế nghiên cứu cắt ngang
và sử dụng bảng câu hỏi có cấu trúc.
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng
một tỷ lệ:
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146
139
Cronbach alpha = 0.83). Các giá trị này dựa trên
mẫu gồm 30 người và đây có thể là lý do khiến
các giá trị quá thấp. Từ ngữ của các mục được
báo cáo là dễ hiểu và dễ phản hồi, do đó không
có thay đổi nào được thực hiện đối với các mục
ban đầu trong bảng câu hỏi. 30 sinh viên nữ này
không được tính trong kích thước mẫu chính
thức của nghiên cứu.
Trong đó:
n: cỡ mẫu
α: xác suất sai lầm loại I (훂 = 0,05)
Z
(1-α/2) = 1,96
d: sai số cho phép, chọn d = 0,05
2.4.2. Thu thập số liệu
Theo nghiên cứu của Morrison và cộng sự
thì tỷ lệ p = 5,1% [7]. Chúng tôi có n = 75 đối
tượng.
Sau nghiên cứu thí điểm, tác giả tiến hành gửi
bộ khảo sát online đến các sinh viên. Mục đích
của nghiên cứu, vai trò của người tham gia, cũng
như những gì tác giả dự định làm sẽ được giải
thích cho từng người tham gia. Mỗi sinh viên sẽ
được cung cấp một mẫu thông tin giải thích chi
tiết về nghiên cứu và sau khi đọc, họ sẽ được yêu
cầu hoàn thành một mẫu đơn đồng ý trước khi trả
lời bảng câu hỏi. Những người tham gia sẽ được
thông báo rằng việc tham gia vào nghiên cứu là
hoàn toàn tự nguyện và họ được phép rút khỏi
nghiên cứu bất kỳ thời điểm nào trong khi hoàn
thành bảng câu hỏi. Bảng câu hỏi sẽ được trao
cho sinh viên để hoàn thành và gửi lại cho tác giả,
việc này sẽ không mất quá 15 phút.
Tổng số mẫu cuối cùng bao gồm 200 nữ sinh
viên Trường Đại học Duy Tân trong độ tuổi từ
18 đến 21. Sinh viên trong độ tuổi từ 18 -21 vẫn
có thể nhớ lại những trải nghiệm của họ về kinh
nguyệt với mức độ chính xác cao hơn cũng như
cung cấp một cái nhìn hồi tưởng về thái độ và
niềm tin của họ đối với trải nghiệm kinh nguyệt
một cách đáng tin cậy hơn. Tóm lại, tiêu chí lựa
chọn mẫu của đề tài bao gồm: sinh viên nữ, đang
theo học tại Trường Đại học Duy Tân, độ tuổi từ
18 - 21 và phải trả lời tất cả câu hỏi của bộ câu
hỏi.
2.5. Bộ công cụ nghiên cứu
2.3. Phương pháp chọn mẫu
Phần đầu tiên của bảng câu hỏi bao gồm
thông tin của người tham gia như tuổi của đối
tượng, tuổi hành kinh [1], tôn giáo, mức độ
chuẩn bị cho tuổi hành kinh [6]. Tuổi hành kinh
được chia thành ba mức độ, cụ thể là: khởi phát
kinh nguyệt sớm, khởi phát bình thường và
khởi phát kinh nguyệt muộn. Khởi phát sớm là
< 11 tuổi và khởi phát muộn là > 15 tuổi, với độ
tuổi hành kinh từ 11-15 tuổi được coi là khởi
phát bình thường. Phân loại này được hỗ trợ bởi
một nghiên cứu của Glameck và đồng nghiệp
(2013). Tôn giáo được định nghĩa là một hệ
thống tín ngưỡng hoặc thờ cúng cụ thể. Đối với
mục đích của nghiên cứu, tôn giáo bao gồm
Phật giáo, Thiên chúa giáo, Kitô giáo, thờ cúng
ông bà (không tôn giáo) hoặc khác.
Chọn mẫu thuận tiện (Convenience sampling)
được sử dụng để tiếp cận sinh viên.
2.4. Quy trình thu thập số liệu
2.4.1. Nghiên cứu thí điểm
Nghiên cứu thí điểm được thực hiện trên 30
sinh viên nữ được chọn một cách thuận tiện để
xác định mức độ phù hợp, để tìm hệ số độ tin
cậy alpha của bộ công cụ nghiên cứu và thay đổi
bộ câu hỏi sao cho thích hợp. Những người tham
gia cũng được hỏi về việc đưa ra bất kỳ đề xuất
nào có thể cải thiện bảng câu hỏi. Nghiên cứu thí
điểm đã tiết lộ các hệ số độ tin cậy alpha sau đây
đối với từng yếu tố trong bảng câu hỏi: sự bí mật
(12 mục: Cronbach alpha = 0.66), sự khó chịu
(13 mục: Cronbach alpha = 0.82), sự kiêng cử (9
mục: Cronbach alpha = 0.67), sự bất lực(5 mục:
Cronbach alpha = 0.75) và sự hài lòng (6 mục:
Mức độ sẵn sàng cho kinh nguyệt bao gồm
nhận thức đầy đủ về sự chuẩn bị. Điều này sẽ
140
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146
được đo lường bằng hai câu hỏi. Câu hỏi đầu
tiên đề cập đến mức độ chuẩn bị đối với việc
hành kinh mà người tham gia nhớ lại. Điều này
được đo bằng thang đo Likert 4 điểm (với 1 là
hoàn toàn không chuẩn bị và 4 là được chuẩn bị
hoàn toàn). Câu hỏi thứ hai liên quan đến sự
chuẩn bị về kiến thức từ trước: Người tham gia
có hiểu biết về nguyên nhân chảy máu, cảm
giác kinh nguyệt, tần suất kinh nguyệt, lượng
máu chảy ra mỗi ngày, thời gian hành kinh và
cách đảm bảo vệ sinh kinh nguyệt hay không.
Điều này cũng được đo bằng thang đo Likert 4
điểm (với 1 là không có thông tin và 4 là có đủ
thông tin). Điểm số được cộng lại với nhau và
tổng điểm ≤ 5 cho thấy người tham gia không
chuẩn bị cho việc hành kinh và điểm
≥ 6 cho thấy người tham gia đã chuẩn bị cho
việc hành kinh.
p < 0.0001). Cuối cùng, việc kiêng cử có mối
tương quan thuận với sự bất lực (r = .37;
p < 0.0001), nhưng tương quan nghịch với sự
hài lòng (r = -.08; p < 0.01).
2.6. Phân tích dữ liệu
Dữ liệu thô thu được từ bảng câu hỏi sẽ được
nhập, mã hóa, và phân tích bằng phương pháp
thống kê SPSS (the Statistical Package in the
Social Sciences) để cung cấp thông tin cần thiết
cho nghiên cứu. Các biến độc lập trong nghiên
cứu này là: tuổi hành kinh và mức độ sẵn sàng.
Các biến phụ thuộc là: mức độ khó chịu, mức
độ kiêng cử, mức độ giữ bí mật, mức độ bất lực
và mức độ hài lòng liên quan đến kinh nguyệt.
Dữ liệu bị mất đã được xử lý bằng cách: thay
thế nó bằng giá trị trung bình (có thể dẫn đến
kết quả quan trọng, có thể không có ý nghĩa
khác); loại trừ các trường hợp theo cách liệt kê
(tức là bất kỳ người tham gia nào có dữ liệu bị
thiếu cho bất kỳ biến nào đều bị loại trừ) hoặc
không bao gồm các trường hợp theo cặp (tức là
dữ liệu của người tham gia chỉ được loại trừ
khỏi các tính toán mà dữ liệu bị thiếu). Field
(2005) đề xuất rằng an toàn nhất là loại trừ các
trường hợp theo cách liệt kê nếu nó không dẫn
đến việc mất dữ liệu lớn.
Phần thứ ba của bảng câu hỏi bao gồm các
câu hỏi về niềm tin và thái độ đối với việc hành
kinh (Beliefs and Attitudes Towards
Menstruation Questionnaire: BATM). Bảng câu
hỏi có độ tin cậy và tính hiệu lực cao [7]. Bảng
câu hỏi gồm 45 mục đo lường, về thái độ đối
với kinh nguyệt gồm năm thái độ (sự giữ bí
mật, sự khó chịu, việc kiêng cử, sự bất lực và
sự hài lòng). Mỗi mục được đo bằng thang đo
Likert 5 điểm, với 1 cho thấy điểm thấp và 5
cho thấy điểm cao [7].
Dữ liệu được phân tích đầu tiên bằng phân
tích đơn biến [2]. Mối tương quan không tham
số, được sử dụng để xác định xem có mối liên
quan đáng kể nào giữa các biến độc lập và biến
phụ thuộc hay không. Phân tích đa phương sai
(MANOVA) được sử dụng để xác định xem có
sự khác biệt giữa các nhóm trên các biến phụ
thuộc hay không. Trong thử nghiệm giả thuyết
2, biến độc lập, tuổi hành kinh được kiểm tra
bằng Roy’s Largest Root. Phân tích sâu Gabriel
post hoc test được tiến hành để kiểm tra hướng
tương phản cho từng khác biệt nhóm đáng kể
được tìm thấy trong MANOVA. Tính đồng nhất
của phương sai được kiểm tra bằng phép thử M
của Box, vì có nhiều hơn một biến số đã được
kiểm tra và so sánh liên quan đến sự bằng nhau
của ma trận phương sai / hiệp phương sai. Thử
BATM được phát triển tại Mexico bởi tác
giả Marvan và đồng nghiệp (2006). Năm yếu tố
được đo bằng BATM có các giá trị alpha sau:
sự bí mật (12 mục: Cronbach alpha = 0.82), sự
khó chịu (13 mục: Cronbach alpha = 0.83), việc
kiêng cử (9 mục: Cronbach alpha = 0.76), sự
bất lực (5 mục: Cronbach alpha = 0.75) và sự
hài lòng (6 mục: Cronbach alpha = 0.71). Mối
tương quan có ý nghĩa đối với các yếu tố sau:
Giữ bí mật có mối tương quan thuận với sự khó
chịu (r = .26; p < 0.0001), tương quan thuận với
việc kiêng cử (r = .46; p < 0.0001), và bất lực
(r = .44; p < 0.0001). Sự khó chịu cũng có mối
tương quan thuận với việc kiêng cử
(r = .34; p < 0.0001), và bất lực (r = .42;
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146
141
nghiệm M của Box cho thấy kết quả không có ý
nghĩa (p = 0.212) và do đó, ma trận hiệp
phương sai được giả sử là gần bằng nhau.
khoa Điều dưỡng (14.5%) và khoa Quản trị
kinh doanh (10.5%). Các khoa khác bao gồm
khoa Dược (9.5%), Kế toán (5.5%), Kiến trúc
(1%), Công nghệ thông tin (1%), Đào tạo quốc
tế (0.5%) và khoa Khoa học xã hội và nhân văn
(0.5%) chiếm phần còn lại.
2.7. Đạo đức nghiên cứu
Các sinh viên sẽ được thông báo đầy đủ về
mục đích của nghiên cứu, vai trò của họ trong
nghiên cứu. Những người tham gia được biết
việc tham gia vào nghiên cứu là hoàn toàn tự
nguyện và họ được phép rời khỏi bất cứ lúc nào
trong khi hoàn thành bảng câu hỏi, không có
hậu quả tiêu cực nào sẽ xảy ra với họ khi họ
làm như vậy. Tính ẩn danh và bảo mật của
người tham gia cũng sẽ được đảm bảo, vì không
có thông tin nhận dạng nào trên bảng câu hỏi.
Câu trả lời của sinh viên cho các bảng câu hỏi
được lưu trên máy tính có khóa bảo mật, chỉ có
thể được truy cập bởi tác giả. Nếu sinh viên
cảm thấy bất kỳ tác động tiêu cực nào từ việc
tham gia nghiên cứu, và nếu người tham gia
yêu cầu biết thêm thông tin về nghiên cứu thì
tác giả sẽ sẵn sàng trả lời.
Chín mươi phần trăm người tham gia trải
nghiệm kinh nguyệt ở độ tuổi bình thường (11 -
15 tuổi), 6.5% có kinh nguyệt khởi phát muộn
(> 15 tuổi) và 3.5% trải qua giai đoạn khởi phát
sớm của kinh nguyệt (< 11 tuổi).
Liên quan đến tôn giáo, phần lớn sinh viên
không theo tôn giáo (thờ cúng ông bà) (67.5%).
Phật giáo là nhóm lớn thứ hai (24.5%), số sinh
viên theo Thiên chúa giáo chiếm 7.5%, chỉ có
0.5% sinh viên theo đạo Cao Đài. Do thực tế
chỉ có một câu hỏi duy nhất về tôn giáo trong
bảng câu hỏi còn mức độ thực hành tôn giáo
không được kiểm tra, kết quả thu được từ bảng
câu hỏi có thể không chỉ ra chính xác sự tin cậy
thực sự đối với tôn giáo của những người tham
gia. Do đó, những kết quả này chỉ được sử dụng
cho mục đích mô tả và sự khác biệt nhóm
không được kiểm tra. Liên quan đến mức độ
chuẩn bị, ta thấy rằng 79.5% người tham gia
cảm thấy họ không chuẩn bị bất cứ điều gì cho
việc hành kinh và chỉ có 20.5% cảm thấy họ đã
chuẩn bị cho thời kỳ hành kinh.
3. Kết quả và phân tích
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Tổng số mẫu cuối cùng là 200 nữ sinh viên
Trường Đại học Duy Tân trong độ tuổi từ 18
đến 21. Mẫu bao gồm phần lớn các sinh viên nữ
ở độ tuổi 20 (27%). Nhóm sinh viên tham gia
nhiều nhất đến từ khoa Du lịch (25%) và sau đó
là khoa Y (16.5%), khoa Ngoại ngữ (15.5%),
Bảng 3.1. Mô tả thái độ và niềm tin của sinh
viên nữ
Min
26
21
18
5
Max
64
Mean
48.45
34.89
33.26
18.18
17.24
Median
50.00
35.00
33.00
18.00
17.00
SD
Skewness
-.547
-.513
.452
Kurtosis
-.267
.049
Sự khó chịu
Việc kiêng cử
Sự bí mật
8.360
4.928
6.581
3.964
5.054
45
54
-.109
.327
Sự bất lực
25
-.482
.049
Sự hài lòng
6
30
-.250
dao động từ -1 đến +1, vì vậy được coi như có
phân phối chuẩn.
Bảng 3.1 cho thấy phân phối của các nhóm
thái độ có trị số trung bình (Mean) và trung vị
(Median) gần bằng nhau và độ xiên (Skewness)
142
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146
Bảng 3.2. Giá trị trung bình của tuổi hành kinh
Sự
khó chịu
44.86
11.408
7
Việc
Sự
bí mật
33.71
9.411
7
Sự
bất lực
17.57
4.237
7
Sự
hài lòng
17.14
6.176
7
kiêng cử
35.43
6.051
7
Khởi phát sớm
Bình thường
M
SD
n
M
SD
n
48.89
8.129
180
34.96
4.806
180
33.16
6.507
180
18.30
4.025
180
17.27
5.078
180
Khởi phát muộn
M
SD
n
44.31
8.901
13
33.62
6.158
13
34.38
6.371
13
16.77
2.713
13
16.85
4.432
13
kinh muộn (M = 34.38) đạt điểm cao nhất về
thái độ giữ bí mật liên quan đến kinh nguyệt.
Bảng 3.2 cho thấy những sinh viên bắt đầu
kinh nguyệt sớm (M = 35.43) đạt điểm cao nhất
trong việc kiêng cử. Sinh viên bắt đầu hành
Bảng 3.3. Giá trị trung bình cho mức độ chuẩn bị
Sự
khó chịu
48.59
8.512
159
Việc
kiêng cử
34.96
5.157
159
Sự
bí mật
33.49
6.668
159
Sự
bất lực
18.14
4.063
159
Sự
hài lòng
17.08
5.048
159
M
SD
n
Không chuẩn bị
Có chuẩn bị
M
SD
n
47.90
7.816
41
34.61
3.955
41
32.34
6.223
41
18.29
3.600
41
17.85
5.092
41
lực (M = 18.29) và mức độ hài lòng (M =
17.85).
Bảng 3.3 cho thấy những người không chuẩn
bị cho kinh nguyệt có mức độ khó chịu cao hơn
(M = 48.59), kiêng cử nhiều hơn (M = 34.96) và
có xu hướng giữ bí mật chuyện kinh nguyệt cao
hơn (M = 33.49). Những người có chuẩn bị cho
kinh nguyệt cho thấy điểm số cao hơn về sự bất
3.2. Mối tương quan giữa các biến số độc lập
Bảng 3.4. Mối tương quan giữa biến tuổi
hành kinh, biến sự chuẩn bị với các biến khác
Tuổi
hành
kinh
Sự
chuẩn bị
Sự
Việc
Sự
Sự
Sự
khó chịu kiêng cử bí mật
bất lực hài lòng
Tuổi
hành kinh
1.000
.046
.415
-.042
.423
-.051
.334
-.004
.938
-.018
.742
.021
.686
-.067
.205
-.056
.299
.006
.906
.011
.832
P
Sự
chuẩn bị
.046
.415
1.000
.140**
P
.008
Tương quan hạng Kendall
Bảng 3.4 cho thấy không có mối tương quan
nào được tìm thấy giữa biến tuổi hành kinh và
các biến phụ thuộc khác. Còn mức độ chuẩn bị
có mối tương quan thuận với mức độ hài lòng
( = 0.140, p = 0.008), điều này có nghĩa là khi
khi mức độ chuẩn bị tăng lên thì mức độ hài
lòng liên quan đến kinh nguyệt cũng tăng.
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146
143
3.3. Sự khác biệt giữa các nhóm
Bảng 3.5. Ảnh hưởng giữa tuổi hành kinh và sự chuẩn bị đối với thái độ và niềm tin về trải
nghiệm kinh nguyệt
Value
.107
.061
F
p
Tuổi hành kinh
Sự chuẩn bị
Roy’s Largest Root
Roy’s Largest Root
2.015c
1.961c
.034
.073
mức độ chuẩn bị với thái độ và niềm tin về trải
nghiệm kinh nguyệt, được đo bằng các biến phụ
thuộc, p = 0.073.
Bảng 3.5 cho thấy có sự ảnh hưởng giữa tuổi
hành kinh đối với thái độ và niềm tin về trải
nghiệm kinh nguyệt, được đo bằng các biến phụ
thuộc, p = 0.034. Không có ảnh hưởng nào giữa
Bảng 3.6. Sự khác biệt giữa các nhóm tuổi hành kinh
Biến
phụ
thuộc
(I) Tuổi hành
(J) Tuổi hành kinh
Mean
Difference
(I-J)
p
95%CI
kinh
Giới hạn
Giới hạn
dưới
-10.42
-8.71
-2.36
-.39
trên
Khởi phát
sớm
Bình thường
-4.03
.55
.341
.999
.341
.080
.999
.080
.987
.813
.987
.621
.813
.621
.991
.995
.991
.838
.995
.838
.918
.961
.918
.323
.961
.323
1.000
.999
1.000
.982
2.36
9.80
10.42
9.55
8.71
.39
Khởi phát muộn
Khởi phát sớm
Khởi phát muộn
Khởi phát sớm
Bình thường
Sự
khó
chịu
Bình thường
4.03
4.58
-.55
-4.58
.47
1.81
-.47
1.34
-1.81
-1.34
.56
Khởi phát
muộn
-9.80
-9.55
-3.33
-3.70
-4.28
-1.62
-7.32
-4.30
-4.53
-8.04
-5.65
-5.19
-6.70
-2.73
-3.78
-3.62
-2.33
-.84
Khởi phát
sớm
Bình thường
4.28
7.32
3.33
4.30
3.70
1.62
5.65
6.70
4.53
2.73
8.04
5.19
2.33
5.22
3.78
3.91
3.62
.84
Khởi phát muộn
Khởi phát sớm
Khởi phát muộn
Khởi phát sớm
Bình thường
Việc
kiêng
cử
Bình thường
Khởi phát
muộn
Khởi phát
sớm
Bình thường
Khởi phát muộn
Khởi phát sớm
Khởi phát muộn
Khởi phát sớm
Bình thường
-.67
-.56
-1.23
.67
Bình thường
Sự bí
mật
Khởi phát
muộn
1.23
-.73
.80
Khởi phát
sớm
Bình thường
Khởi phát muộn
Khởi phát sớm
Khởi phát muộn
Khởi phát sớm
Bình thường
Bình thường
.73
Sự bất
lực
1.53
-.80
-1.53
-.13
.30
Khởi phát
muộn
-5.22
-3.91
-4.04
-5.37
-3.78
-2.62
Khởi phát
sớm
Bình thường
3.78
5.96
4.04
3.47
Khởi phát muộn
Khởi phát sớm
Khởi phát muộn
Sự hài
lòng
Bình thường
.13
.43
144
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146
Khởi phát
muộn
Khởi phát sớm
Bình thường
-.30
-.43
.999
.982
-5.96
-3.47
5.37
2.62
Phân tích sâu Gabriel post hoc test
Bảng 3.6 chỉ ra rằng không có sự khác biệt
nào được tìm thấy giữa các nhóm. Những phát
hiện chính của phân tích cho thấy có sự khác
biệt nhỏ về điểm trung bình giữa các nhóm trên
tất cả các biến phụ thuộc, với một số nhóm cho
thấy sự khác biệt lớn hơn về điểm trung bình so
với các nhóm khác. Có mối tương quan được
tìm thấy giữa mức độ sẵn sàng và mức độ hài
lòng liên quan đến trải nghiệm kinh nguyệt.
Tuổi hành kinh không có mối tương quan với
các biến phụ thuộc.
có thể mang lại kết quả tương tự với nghiên cứu
của Tiwari và cộng sự (2006).
Sau khi nghiên cứu yếu tố tâm lý, nghiên cứu
hiện tại cho thấy có mối tương quan giữa mức
độ chuẩn bị và mức độ hài lòng liên quan đến
kinh nguyệt. Cụ thể hơn, khi mức độ chuẩn bị
tăng lên thì mức độ hài lòng cũng tăng lên.
Những phát hiện này cũng được tìm thấy trong
phần tổng quan tài liệu, báo cáo rằng mức độ
chuẩn bị cho kinh nguyệt ảnh hưởng trực tiếp
đến thái độ và niềm tin của người phụ nữ đối với
kinh nguyệt [6]. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại
không cho thấy bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào
giữa các mức độ chuẩn bị đối với các biến phụ
thuộc khác. Điều này trái ngược với phần tổng
quan tài liệu, trong đó chỉ ra rằng một cô gái
càng ít chuẩn bị cho việc bắt đầu kinh nguyệt, họ
càng cảm thấy muốn giữ bí mật và tiêu cực hơn
đối với trải nghiệm kinh nguyệt [6].
4. Bàn luận
Liên quan đến yếu tố sinh học, nghiên cứu
hiện tại cho thấy không có mối tương quan giữa
tuổi hành kinh và các biến số phụ thuộc khác,
cụ thể là mức độ khó chịu, mức độ giữ bí mật,
mức độ bất lực, mức độ kiêng cử, và mức độ
hài lòng liên quan đến kinh nguyệt. Cũng không
có mối tương quan nào được tìm thấy giữa tuổi
hành kinh và mức độ chuẩn bị. Trái với những
phát hiện của tác giả Tiwari và cộng sự (2006)
đã báo cáo về việc tìm thấy mối tương quan
giữa mức độ chuẩn bị và tuổi hành kinh, nghiên
cứu này nói rằng nếu một cô gái không chuẩn
bị cho việc bắt đầu hành kinh vì khởi phát sớm,
điều này có thể dẫn đến cảm giác xấu hổ, sợ hãi
và lo lắng [10]. Do đó, hành kinh khởi phát sớm
và cảm thấy không chuẩn bị vào thời điểm đó,
có thể dẫn đến thái độ và niềm tin tiêu cực hơn
về trải nghiệm kinh nguyệt [10]. Sự khác biệt
về kết quả giữa nghiên cứu hiện tại và nghiên
cứu được thực hiện bởi Tiwari và cộng sự
(2006) có thể là do phần lớn những người tham
gia vào nghiên cứu hiện tại đã báo cáo trải qua
khởi phát kinh nguyệt bình thường. Ngoài ra,
cũng có nhiều người tham gia trải qua giai đoạn
khởi phát muộn hơn so với khởi phát sớm. Nếu
có nhiều người tham gia trải qua giai đoạn khởi
phát sớm của kinh nguyệt, nghiên cứu hiện tại
Không có sự ảnh hưởng đáng kể nào được
tìm thấy giữa các yếu tố sinh học và tâm lý về
thái độ và niềm tin của trải nghiệm kinh nguyệt.
Điều này là trái với các giả định lý thuyết của
mô hình sinh học - tâm lý - xã hội được mô tả
trong nghiên cứu. Mô hình sinh học - tâm lý -
xã hội cho thấy thái độ và niềm tin của phụ nữ
đối với trải nghiệm kinh nguyệt bị ảnh hưởng
và định hình bởi các quá trình sinh học, tâm lý
cũng như bối cảnh văn hóa xã hội nơi họ sinh
sống [5]. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, có
ảnh hưởng giữa tuổi hành kinh đối với thái độ
và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt. Việc
lựa chọn các biến và cách chúng được đo lường
trong nghiên cứu này có thể dẫn đến việc thiếu
sự khác biệt đáng kể được tìm thấy.
Hạn chế của nghiên cứu
Nhìn chung, những phát hiện từ nghiên cứu
có phần không phù hợp với những gì đã được
miêu tả trong phần tổng quan tài liệu. Rất ít
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146
145
nghiên cứu đã được thực hiện trong bối cảnh
Việt Nam nói chung và tại các trường đại học ở
Việt Nam nói riêng liên quan đến thái độ và
niềm tin về trải nghiệm của kinh nguyệt và do
đó việc so sánh các phát hiện từ nghiên cứu này
với nghiên cứu được thực hiện trong cùng bối
cảnh tương tự còn hạn chế. Những khác biệt
trong bối cảnh nghiên cứu có thể dẫn đến sự
khác biệt giữa kết quả của nghiên cứu này với
nghiên cứu trước đây được thực hiện trong
cùng lĩnh vực.
được chuẩn hóa cho bối cảnh Việt Nam, do đó
BATM đã được sử dụng cho nghiên cứu này.
Cuối cùng, khi đo lường các biến độc lập, câu
hỏi liên quan đến tôn giáo của người tham gia
cũng không được nêu một cách phù hợp để xác
định độ tin cậy của những người tham gia. Mức
độ mà những người tham gia theo tôn giáo đã
chọn của họ không được khám phá và do đó tôn
giáo không thể được sử dụng như một biến độc
lập trong nghiên cứu.
5. Kết luận
Những sinh viên tham gia vào nghiên cứu
này đã tiết lộ những thái độ và niềm tin rất
giống nhau về trải nghiệm kinh nguyệt. Chúng
ta cũng cần xem xét thực tế rằng tất cả những
người tham gia nghiên cứu đều là những sinh
viên nữ có học thức, những người đã qua hệ
thống trường học và hiện đang trong quá trình
học tập tại đại học. Điều này có thể dẫn đến sự
tương đồng được tìm thấy liên quan đến thái độ
và niềm tin về trải nghiệm kinh nguyệt, vì tất cả
người tham gia đều có nền tảng giáo dục tương
tự. Thực tế là nghiên cứu hiện tại cũng có một
số mẫu không có tính đại diện do tiêu chí lựa
chọn và phương pháp lấy mẫu được sử dụng
cũng có thể dẫn đến một mẫu khá đồng nhất,
trong đó những khác biệt đáng kể sẽ không
được xác định. Do đó, ngay từ đầu đáng lẽ ra
nghiên cứu nên sử dụng mẫu xác suất tỷ lệ với
kích thước PPS.
Nghiên cứu 200 nữ sinh viên độ tuổi từ 18
đến 21 Trường Đại học Duy Tân cho kết quả:
Hầu hết những người tham gia trải nghiệm kinh
nguyệt ở độ tuổi bình thường và đa số người
tham gia cảm thấy không chuẩn bị bất cứ điều
gì cho việc hành kinh.
Những sinh viên bắt đầu kinh nguyệt sớm
(M = 35.43) đạt điểm cao nhất trong việc kiêng
cử. Sinh viên bắt đầu hành kinh muộn (M =
34.38) đạt điểm cao nhất về thái độ giữ bí mật
liên quan đến kinh nguyệt.
Những người không chuẩn bị cho kinh
nguyệt có mức độ khó chịu cao hơn (M =
48.59), kiêng cử nhiều hơn (M = 34.96) và có
xu hướng giữ bí mật chuyện kinh nguyệt cao
hơn (M = 33.49). Những người có chuẩn bị cho
kinh nguyệt cho thấy điểm số cao hơn về sự bất
lực (M = 18.29) và mức độ hài lòng (M =
17.85).
Nghiên cứu còn một số hạn chế đáng chú ý,
bao gồm phương pháp lấy mẫu được sử dụng
cũng như dụng cụ đo lường. Đầu tiên, nghiên
cứu này đã sử dụng lấy mẫu thuận tiện. Thứ
hai, dụng cụ đo lường được sử dụng trong
nghiên cứu đã dẫn đến một số khó khăn khi
phân tích dữ liệu thu được. BATM được phát
triển ở Mexico và mặc dù những người tham
gia nghiên cứu này không báo cáo bất kỳ khó
khăn nào trong việc trả lời bảng câu hỏi, nhưng
việc sử dụng một bảng câu hỏi được phát triển
riêng cho bối cảnh Việt Nam khi tiến hành
nghiên cứu là điều lý tưởng hơn. Tuy nhiên,
thực tế là không có bộ công cụ đo lường nào
Mức độ chuẩn bị có mối tương quan thuận
với mức độ hài lòng. Mối tương quan này cho
thấy khi mức độ chuẩn bị tăng lên, mức độ hài
lòng liên quan đến kinh nguyệt cũng tăng (p <
0.05). Và không có sự khác biệt giữa các nhóm
liên quan đến thái độ và niềm tin về trải nghiệm
kinh nguyệt.
Kiến nghị: Nghiên cứu cung cấp cơ sở thăm
dò ban đầu để kiểm tra thái độ và niềm tin về
trải nghiệm kinh nguyệt trong bối cảnh Việt
Nam. Nghiên cứu sâu hơn là cần thiết để xác
định các yếu tố góp phần vào những thái độ và
niềm tin này. Giáo dục về kinh nguyệt cũng là
146
Nguyễn Thị Bích Trâm / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 04(41) (2020) 137-146
[6] Marvan, M. L., & Trujillo, P. J. H. c. f. w. i. (2009).
mối quan tâm đặc biệt, vì phần lớn các mẫu
trong nghiên cứu cho thấy không chuẩn bị cho
việc bắt đầu kinh nguyệt. Để giảm bớt tình
trạng này, giáo dục nên bắt đầu từ khi trẻ còn
nhỏ, trước khi con gái đến tuổi dậy thì.
Menstrual socialization, beliefs, and attitudes
concerning menstruation in rural and urban Mexican
women. 31(1), 53-67.
[7] Morrison, L. A., Larkspur, L., Calibuso, M. J., &
Brown, S. J. A. j. o. h. b. (2010). Women's attitudes
about menstruation and associated health and
behavioral characteristics. 34(1), 90-100.
[8] Pretorius, T. B., & Payne, J. (2007). Inferential data
analysis: Hypothesis testing and decision-making:
Reach.
[9] Roberts, T.-A. J. P. o. W. Q. (2004). Female trouble:
The menstrual self-evaluation scale and women's
self-objectification. 28(1), 22-26.
Tài liệu tham khảo
[1] Allison, C. M., & Hyde, J. S. J. S. r. (2013). Early
menarche: Confluence of biological and contextual
factors. 68(1-2), 55-64.
[2] Babbie, E. R. (2015). The practice of social research:
Nelson Education.
[3] Cavanaugh, J. C., & Blanchard-Fields, F. (2018).
Adult development and aging: Cengage Learning.
[4] Chrisler, J. C., & Caplan, P. J. A. R. o. S. R. (2002).
The strange case of Dr. Jekyll and Ms. Hyde: How
[10] Ussher, J. M. (2006). Managing the monstrous
feminine: The role of PMS in the subjectification of
women.
[11] White, L. R. J. S. R. (2013). The function of
ethnicity, income level, and menstrual taboos in
postmenarcheal adolescents’ understanding of
menarche and menstruation. 68(1-2), 65-76.
PMS became
a cultural phenomenon and a
psychiatric disorder. 13(1), 274-306.
[5] Chrisler, J. C. J. P. o. W. Q. (2013). Teaching taboo
topics: Menstruation, menopause, and the
psychology of women. 37(1), 128-132.
Bạn đang xem tài liệu "Thái độ và niềm tin của nữ sinh viên Đại học Duy Tân với trải nghiệm về chu kỳ kinh nguyệt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- thai_do_va_niem_tin_cua_nu_sinh_vien_dai_hoc_duy_tan_voi_tra.pdf