Tài liệu Chuyên đề Tổ chức và điều hành doanh nghiệp - Trần Văn Hùng

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƢ  
CỤC PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP  
Chuyên đề  
TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH DOANH NGHIỆP  
(Tài liệu dành cho đào tạo, bồi dƣỡng ngun nhân lc  
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa)  
Biên soạn: TS. Trần Văn Hùng  
HÀ NỘI - 2012  
MỤC LỤC  
LỜI NÓI ĐẦU....................................................................Error! Bookmark not defined.  
1
2
CHƢƠNG 1  
TỔ CHỨC SẢN XUẤT TRONG DOANH NGHIỆP  
Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và thuận lợi trong điều hành cần phải  
xã định rõ cơ cấu sản xuất và tổ chức tốt hệ thống sản xuất của nó. Trong chương này  
sẽ tập trung giới thiệu các kiểu cơ cấu sản xuất và tổ chức sản xuất trong doanh  
nghiệp.  
1.1.  
Khái quát về tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp  
1.1.1. Khái niệm  
Có nhiều khái niệm khác nhau về tổ chức sản xuất. Có khái niệm cho rằng: “Tổ  
chức sản xuất là bố trí người làm, người theo dõi, chỉ huy, bố trí nguyên vật liệu, công  
cụ, mặt bằng để sản xuất một mặt ng náo đó.” Theo khái niệm này, tổ chức sản xuất  
hướng đến việc sắp xếp, bố trí các yếu tố: lao động, nguyên vật liệu, công cụ lao động  
và mặt bằng sản xuất để tạo ra một loại sản phẩm hàng hoá.  
Có khái niệm cho rằng: “Tổ chức sản xuất là tổng hợp các biện pháp chỉ đạo  
hướng tới một tổng hợp hợp lý của quá trình lao động với các yếu tố vật lý của sản  
xuất trong không gian và thời gian cho mục đích nâng cao hiệu quả.” Theo cách  
định nghĩa này, tổ chức sản xuất là hành động của chủ thể quản lý nhằm mục tiêu  
sử dụng tối ưu các nguồn lực nhờ các hoạt động bố trí hợp lý các nguồn lực trong  
một không gian và thời gian nhất định.  
Các khái niệm trên đều có chung một nội dung, đó là: “Tổ chức sản xuất là sự  
phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động  
cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ sản xuất, quy mô sản xuất và công nghệ sản xuất  
đã xác định nhằm sản xuất ra sản phẩm chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường.”  
1.1.2. Ý nghĩa và mục đích của tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp  
Việc tổ chức sản xuất hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao về các mặt sau đây:  
Cho phép hoặc góp phần quan trọng vào việc sử dụng có hiệu quả các  
nguồn lực như nguyên nhiên liệu, vật liệu, lao động, máy móc thiết bị trong doanh nghiệp.  
Góp phần quan trọng vào việc tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh  
doanh của doanh nghiệp, thực hiện mục tiêu kinh tế tổng hợp của doanh nghiệp là kinh  
doanh có lãi để tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng.  
Tổ chức sản xuất khoa học sẽ có tác dụng tích cực trong việc bảo vệ môi  
trường như giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm thiểu độc hại cho môi trường sống  
của doanh nghiệp và vùng lân cận.  
Tổ chức sản xuất khoa học, hợp lý là căn cứ và cơ sở quan trọng cho tổ  
chức quản lý doanh nghiệp một cách khoa học.  
3
       
1.1.3. Nội dung của quá trình sản xuất trong doanh nghiệp  
1.1.3.1. Quan niệm về quá trình sản xuất  
Để tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp được hợp lý và hiệu quả, việc đầu tiên  
cần nắm vững là hiểu đầy đủ về quá trình sản xuất của doanh nghiệp - đối tượng của tổ  
chức sản xuất. Có nhiều quan niệm khác nhau về quá trình sản xuất. Mỗi cách quan  
niệm đứng trên một góc độ khác nhau. Sau đây là các cách tiếp cận quá trình sản xuất  
của doanh nghiệp:  
Theo nghiã rộng: quá trình sản xuất bắt đầu từ khi xác định phương án  
sản phẩm, chuẩn bị các điều kiện cho sản xuất để sản xuất ra sản phẩm và đem sản  
phẩm đó tiêu thụ trên thị trường.  
Theo nghĩa hẹp: quá trình sản xuất là quá trình khai thác hoặc chế biến  
một loại sản phẩm nào đó nhờ kết hợp một cách chặt chẽ ba yếu tố của quá trình sản  
xuất.  
Theo nghĩa tổng quát: quá trình sản xuất trong doanh nghiệp là tổng  
hợp của hai mặt vật chất - kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất.  
Mặt vật chất - kỹ thuật của sản xuất bao gồm sự tác động của sức lao  
o
động lên đối tượng lao động bằng các công cụ lao động cần thiết để tạo ra của cải vật  
chất cho xã hội.  
o
Mặt kinh tế - xã hội của sản xuất cho thấy, quá trình sản xuất trong  
doanh nghiệp còn là quá trình củng cố mối quan hệ sản xuất giữa người với người, đó  
là quá trình lao động sáng tạo và hiệp tác giữa những người lao động với nhau.  
1.1.3.2. Nội dung của quá trình sản xuất  
Với quan niệm trên về quá trình sản xuất, nội dung chủ yếu của quá trình sản  
xuất trong doanh nghiệp bao gồm quá trình công nghệ, quá trình kiểm tra và quá trình  
điều chuyển, trong đó quá trình công nghệ có vai trò quan trọng hơn cả.  
Tuỳ theo phương pháp chế biến hay gia công được áp dụng trong doanh nghiệp  
mà quá trình công nghệ được chia thành nhiều hay ít giai đoạn công nghệ khác nhau  
và mỗi giai đoạn công nghệ lại được chia ra thành nhiều bước công việc (còn được gọi  
là nguyên công) khác nhau.  
Bước công việc được gọi là đơn vị cơ bản của quá trình sản xuất. Đó là một phần  
của quá trình sản xuất, được thực hiện trên một nơi làm việc, do một công nhân hoặc  
một nhóm công nhân cùng tiến hành trên một đối tượng lao động nhất định. Khi xem  
xét bước công việc phải căn cứ vào 3 nhân tố : (1) nơi làm việc, (2) công nhân, (3) đối  
tượng lao động. Nếu một trong ba nhân tố trên thay đổi thì bước công việc cũng thay  
đổi.  
4
 
Việc phân chia bước công việc càng nhỏ, càng có ý nghĩa to lớn đối với việc  
nâng cao trình độ chuyên môn hoá công nhân, nâng cao năng suất lao động và chất  
lượng sản phẩm và sử dụng hợp lý công suất của thiết bị, máy móc.  
Tuy nhiên, nhược điểm của việc chia nhỏ các bước công việc sẽ làm cho thời  
gian gián đoạn trong sản xuất lại tăng lên trong một mức độ nhất định, vì phải dừng lại  
ở nhiều khâu, nhiều nơi làm việc khác nhau và phải chuyển nhiều lầm từ nơi làm việc  
này đến nơi làm việc khác.  
Nói chung, việc phân chia thành nhiều bứoc công việc nhỏ chỉ để phù hợp với  
trình độ sản xuất thủ công, cũng như ở giai đoạn đầu của sản xuất cơ khí hoá.  
Cùng với sự phát triển của các loại máy móc, công nghệ sản xuất tiến tiến hơn,  
hiện đại hơn, một xu hướng chung là gộp các bước công việc nhỏ thành những bước  
công việc lớn hơn.  
1.1.4. Một số nguyên tắc tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp  
Khi tổ chức quá trình sản xuất trong doanh nghiệp, cần tuân thủ một số nguyên  
tắc sau đây:  
Nguyên tắc thứ nhất: Tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp phải đảm bảo kết  
hợp giữa phát triển chuyên môn hoá với phát triển kinh doanh tổng hợp.  
Chuyên môn hoá là hình thức phân công lao động xã hội nhằm làm cho doanh  
nghiệp nói chung, các bộ phận sản xuất và các nơi làm việc nói riêng có nhiệm vụ chỉ  
chế tạo một (hoặc một số ít) loại sản phẩm, chi tiết của sản phẩm hoặc chỉ tiến hành  
một (hoặc một số ít) bước công việc.  
Sản xuất chuyên môn hoá được coi là nhân tố quyết định ảnh hướng lớn đến  
việc phát triển các loại hình sản xuất, tạo điều kiện cho công tác tiêu chuẩn hoá,  
thống nhất hoá, ứng dụng kỹ thuật tiên tiến hiện đại, tổ chức mua sắm vật tư, tổ  
chức lao động khoa học.  
Kinh doanh tổng hợp là những hoạt động kinh tế mang tính chất bao trùm nhiều  
lĩnh vực khác nhau, từ sản xuất công nghiệp đến sản xuất phi công nghiệp, từ sản xuất  
đến lưu thông, phân phối và dịch vụ.  
Chuyên môn hoá và kinh doanh tổng hợp là 2 vấn đề khác nhau, có mối liên hệ  
qua lại lẫn nhau. Nếu doanh nghiệp mở rộng kinh doanh tổng hợp, thì chuyên môn hoá  
của doanh nghiệp bị thu hẹp lại, do đó vấn đề đặt ra là phải khéo léo kết hợp hai vấn  
đề trên. Trên góc độ toàn bộ doanh nghiệp xem xét thì thấy: tuy mức độ chuyên môn  
hoá có giảm, song vẫn cần phải nâng cao trình độ chuyên môn hoá của từng bộ phận  
sản xuất và từng nơi làm việc. Chính như vậy mới phù hợp với xu thế phát triển hiện  
nay của doanh nghiệp là vừa thực hiện chuyên môn hoá, vừa thực hiện đa dạng hoá  
sản phẩm và kinh doanh tổng hợp trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.  
5
 
Nguyên tắc thứ hai: tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp phải thường xuyên duy trì  
và bảo đảm cân đối giữa các khâu, các bộ phận trong quá trình sản xuất.  
Sản xuất cân đối được thể hiện qua mối quan hệ giữa các đơn vị sản xuất: các  
đơn vị sản xuất chính, các đơn vị sản xuất phụ trợ, các đơn vị sản xuất phụ, các đơn vị  
phục vụ sản xuất trong doanh nghiệp. Mục đích cơ bản của việc này là nhằm đảm bảo  
cho quá trình sản xuất được đồng bộ với hiệu quả cao và đây chính là một trong những  
chỉ tiêu của tổ chức sản xuất hợp lý.  
Ngày nay, nhờ tiến bộ của khoa học hiện đại, người ta càng ngày càng tạo ra  
công nghệ mới, thiết bị mới, máy móc mới. Kết quả của sự thay đổi này đã tạo điều  
kiện thuận lợi để xác lập và duy trì sản xuất cân đối trong doanh nghiệp.  
Nguyên tắc thứ ba: Tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp phải bảo đảm tính  
nhịp nhàng.  
Sản xuất nhịp nhàng có nghĩa là số lượng sản phẩm sản xuất ra trong từng thời  
gian quy định (giờ, ca, ngày) phải bằng hoặc xấp xỉ nhau.  
Sự nhịp nhàng của sản xuất chịu sự tác động của nhiều nhân tố như: công tác  
chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất, kế hoạch sản xuất, kế hoạch bảo dưỡng và sửa chữa  
thiết bị máy móc, kế hoạch cung ứng vật tư kỹ thuật, việc bố trí ca làm việc, trình độ  
thao tác của công nhân,…  
Nếu mỗi doanh nghiệp có biện pháp thích hợp để thực hiện phối hợp chặt chẽ  
giữa các nhân tố này, bảo đảm sản xuất nhịp nhàng nó sẽ đem lại ý nghĩa to lớn, như:  
o Thực hiện có hiệu quả các hợp đồng đã ký kết, đảm bảo việc cung ứng sản  
phẩm cho thị trường đúng như yêu cầu của thị trường.  
o Đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ và mối quan hệ hợp tác, liên kết giữa các đơn  
vị trong doanh nghiệp.  
o Khắc phục được tình trạng sản xuất theo kiểu « lúc thì thong thả, cầm chừng,  
khi thì vội vã, khẩn trương » gây nên những lãng phí về sức khoẻ của người lao động.  
Nguyên tắc thứ tư: Tổ chức sản xuất phải đảm bảo tiến hành sản xuất liên tục,  
không bị gián đoạn do những nguyên nhân chủ quan gây ra. Điển hình là những hiện  
tượng: sản xuất không cân đối, thiếu nguyên vật liệu, thiếu việc làm, thiết bị máy móc  
hỏng đột xut.  
Bảo đảm sản xuất liên tục có ý nghĩa to lớn đối với doanh nghiệp trên các mặt sau  
đây:  
+ Tiết kiệm thời gian lao động trong quá trình sản xuất;  
+ Sử dụng hợp lý công suất thiết bị máy móc;  
+ Góp phần đảm bảo sản xuất cân dối, nhịp nhàng;  
+ Bảo đảm hoàn thành kế hoạch sản xuất với hiệu quả cao;  
6
Nguyên tắc thứ năm: tổ chức sản xuất phải tạo điều kiện gắn trực tiếp hoạt động  
quản trị với hoạt động sản xuất.  
Sản xuất là cơ sở hạ tầng, quản trị kinh doanh thuộc nhân tố thượng tầng nên việc  
tổ chức sản xuất phải phải đảm bảo sự phù hợp giữa hệ thống quản trị và hệ thống sản  
xuất. Để làm được điều đó, ngay trong quá trình thiết kế hệ thống sản xuất kinh doanh  
cần phải tính toán bố trí sản xuất phù hợp với công nghệ chế tạo, chế biến trong  
khoảng không gian đã định trước của doanh nghiệp. Khi bố trí mỗi bộ phận phải chú ý  
tạo điều kiện cho hoạt động quản trị diễn ra thuận lợi nhất, đồng thời đảm bảo sự quan  
sát, kiểm tra trực tiếp và thường xuyên hoạt động của dây chuyền sản xuất.  
Trên đây là 5 nguyên tắc cần quán triệt trong quá trình tổ chức sản xuất trong  
doanh nghiệp. Năm nguyên tắc trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, nguyên tắc sau  
là kết quả của việc thực hiên nguyên tắc trước.  
1.2.  
Nội dung của tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp  
1.2.1. Cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp  
1.2.1.1. Khái niệm cơ cấu sản xuất  
Cơ cấu sản xuất trong doanh nghiệp phản ánh bố cục về chất và cân đối về lượng  
của quá trình sản xuất. Cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp được tạo lập bởi các bộ phận  
sản xuất và phục vụ sản xuất của doanh nghiệp với những hình thức tổ chức xây dựng, sự  
phân bố về không gian và mối liên hệ giữa các bộ phận đó với nhau.  
1.2.1.2. Các bộ phận cấu thành của cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp  
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp có thể được xây dựng bởi các cấu thành  
chính sau đây:  
Bộ phận sản xuất chính: là bộ phận trực tiếp chế tạo ra sản phẩm chính  
(cắt, may, đóng gói trong nhà máy dệt). Đặc điểm của bộ phận này là: Nguyên vật liệu  
mà nó chế biến phải trở thành sản phẩm chính của doanh nghiệp.  
Bộ phận sản xuất phụ trợ: là bộ phận mà hoạt động của nó có tác dụng  
trực tiếp cho sản xuất chính, đảm bảo cho sản xuất chính có thể tiến hành liên tục và  
đều đặn. Chẳng hạn, bộ phận sản xuất hồ của nhà máy dệt vải, bộ phận sản xuất bao bì  
của nhà máy sản xuất thức ăn gia súc.  
Bộ phận sản xuất phụ: là bộ phận tận dụng phế liệu, phế phẩm của sản  
xuất chính để chế tạo ra những sản phẩm phụ, ngoài danh mục sản phẩm thiết kế của  
doanh nghiệp. Tuỳ theo từng doanh nghiệp, nếu xét thấy có hiệu quả thì tổ chức bộ  
phận sản xuất phụ. Nếu không có hiệu quả thì không cần tổ chức bộ phận sản xuất phụ  
mà tiến hành thu gom và bán phế liệu, phế phẩm ra ngoài.  
Bộ phận phục vụ sản xuất: là bộ phận được tổ chức ra nhằm đảm bảo  
việc cung ứng, bảo quản, cấp phát, điều chuyển nguyên vật liệu, nhiên liệu, bán thành  
7
   
phẩm và dụng cụ lao động. Bộ phận này thường bao gồm: bộ phận quản lý kho tàng,  
điều chuyển nội bộ, điều chuyển từ bên ngoài về.  
Mỗi doanh nghiệp muốn sản xuất ra nhiều loại sản phẩm với chất lượng và hiệu  
quả cao, chủ yếu phải dựa vào các phân xưởng hay các ngành sản xuất chính. Để thực  
hiện được vấn đề này, biện pháp chủ yếu và quan trọng là phải bảo đảm tự cân đối  
giữa sản phẩm chính, sản phẩm phụ, phù trợ và phục vụ sản xuất.  
Tuy nhiên, khi giải quyết mối quan hệ này, cần chú ý đến một số vấn đề sau:  
+ Xu hướng chung là tăng tỷ trọng của sản xuất chính về mặt năng lực sản xuất  
so với năng lực sản xuất của toàn doanh nghiệp.  
+ Nâng cao trình độ cơ giới hoá của sản xuất phụ trợ và phục vụ sản xuất, nhờ  
đó mà tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng công suất, thiết bị máy móc  
và nâng cao chất lượng sản phẩm của sản xuất chính.  
+ Đảm bảo sự cân đối giữa các bộ phận trong tình hình có sự thay đổi cơ cấu  
mặt hàng sản phẩm. Hết sức coi trọng việc cải tiến hoàn thiện các hình thức tổ chức  
sản xuất.  
1.2.1.3. Các cấp sản xuất trong doanh nghiệp  
Các cấp sản xuất trong doanh nghiệp phản ánh kết quả của việc phân công lao  
động nội bộ doanh nghiệp, bao gồm: phân xưởng, ngành, và nôi làm việc.  
Phân xƣởng: là đơn vị sản xuất cơ bản và chủ yếu của doanh nghiệp.  
Phân xưởng có nhiệm vụ sản xuất một loại sản phẩm hoặc hoàn thành một giai đoạn  
công nghệ nhất định của quá trình sản xuất.  
Ngành: là đơn vị tổ chức sản xuất nằm trong phân xưởng có quy mô lớn.  
Là tổng hợp trên cùng một khu vực nhiều nơi làm việc, có quan hệ mật thiết với nhau  
về công nghệ hoặc sản phẩm. Ở đây, công nhân cùng thực hiện một số thao tác nhất  
định hoặc tiến hành những bước công việc khác nhau để sản xuất ra cùng một loại sản  
phẩm (hoặc sản phẩm giống nhau).  
Ở những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thường không có cấp phân xưởng.  
Trong trường hợp này, ngành trở thành đơn vị tổ chức sản xuất cơ bản và chủ yếu của  
doanh nghiệp. Việc bỏ cấp phân xưởng trong doanh nghiệp chỉ thực sự đem lại hiệu  
quả khi các ngành được tổ chức theo nguyên tắc “đối tượng khép kín”. Nói cách khác  
trong quá trình chế biến, đối tượng lao động không phải di chuyển qua lại giữa các  
ngành mà đi theo một đường thẳng.  
Nơi làm việc: nơi làm việc là đơn vị cơ sở, khâu đầu tiên của tổ chức  
sản xuất trong doanh nghiệp, là phần diện tích sản xuất mà ở đó một công nhân hay  
một nhóm công nhân sử dụng thiết bị máy móc, dụng cụ để hoàn thành một bước công  
việc trong việc chế tạo sản phẩm.  
8
Tại nơi làm việc, có thể có một công nhân điều khiển một máy hoặc một nhóm  
công nhân trông coi nhiều máy.  
1.2.1.4. Các kiểu cơ cấu sản xuất trong doanh nghiệp  
Có 4 kiểu cơ cấu sản xuất trong doanh nghiệp như sau:  
Kiểu 1: Doanh nghiệp – Phân xưởng – Ngành – Nơi làm việc.  
Kiểu 2: Doanh nghiệp – Phân xưởng – Nơi làm việc.  
Kiểu 3: Doanh nghiệp – Ngành – Nơi làm việc.  
Kiểu 4: Doanh nghiệp – Nơi làm việc.  
Cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp bao gồm các cấp, các bộ phận được xây dựng  
theo những nguyên tắc nhất định đã nêu trên đây. Tuy nhiên, khi xây dựng cơ cấu sản  
xuất của doanh nghiệp cần phân tích kỹ các nhân tố ảnh hưởng sau đây:  
a). Chủng loại, đặc điểm kết cấu và chất lƣợng sản phẩm  
Nếu chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp ít, số lượng các chi tiết của sản phẩm  
ít, tính phức tạp của kỹ thuật sản xuất không lớn, yêu cầu về mức độ chính xác không  
cao thì cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp sẽ giản đơn. Và ngược lại, nếu chủng loại  
sản phẩm đa dạng, mỗi sản phẩm được cấu thành từ những chi tiết nhỏ yêu cầu độ  
chính xác cao trong từng chi tiết của sản phẩm thì doanh nghiệp phải xác định cho  
mình một cơ cấu sản xuất sẽ phức tạp hơn.  
Tuy vậy, khi thiết kế cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp cần lưu ý là phải xây  
dựng cơ cấu sản xuất hợp lý (càng đơn giản càng tốt) để có thể điều hành và kiểm soát  
quá trình sản xuất được thuận lợi.  
b). Chủng loại, khối lƣợng và tính chất cơ lý hoá của nguyên vật liệu  
Chủng loại và khối lượng nguyên vật liệu, tính chất cơ lý hoá của chúng không  
chỉ ảnh hưởng đến công nghệ chế tạo, chế biến mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu  
sản xuất của doanh nghiệp. Sự ảnh hưởng được thể hiện qua việc yêu cầu về kho hàng,  
cách thức bảo quản, phương pháp điều chuyển trong quá trình điều chuyển luồng vật  
chất vào quá trình sản xuất, dẫn đến ảnh hưởng đến cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp.  
Đối với các nhà máy sản xuất thép và xi măng thì nhân tố này ảnh hưởng rõ nét nhất.  
c). Máy móc thiết bị công nghệ  
Việc lựa chọn máy móc, thiết bị, và công nghệ tuy không phải là nội dung của  
việc xác định cơ cấu sản xuất, nhưng nó lại liên quan đến sự hình thành cơ cấu sản  
xuất của doanh nghiệp. Ví dụ, việc áp dụng dây chuyền tự động đòi hỏi cơ cấu sản  
xuất khác hẳn so với việc áp dụng một dây chuyền sản xuất bằng máy móc, thiết bị  
vạn năng.  
d). Trình độ chuyên môn hoá và hiệp tác hoá của doanh nghiệp  
9
Doanh nghiệp có trình độ chuyên môn hoá cao, hiệp tác hoá sản xuất rộng sẽ có  
cơ cấu sản xuất giản đơn hơn những doanh nghiệp khác. Ví dụ, việc mở rộng hiệp tác  
sản xuất với các doanh nghiệp khác trong việc cung cấp dịch vụ, đồ bao gói hoặc sửa  
chữa máy móc, thiết bị thì doanh nghiệp sẽ không cần phải tổ chức bộ phận sản xuất  
phụ trợ. Nhờ đó mà cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp sẽ đơn giản gọn nhẹ.  
1.2.2. Bố trí sản xuất trong doanh nghiệp  
Bất cứ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ, đang hoạt động hay mới thành lập  
đề cần đến việc tổ chức sản xuất. Tuy nhiên, việc tổ chức sản xuất tại các doanh  
nghiệp này có những đặc trưng khác nhau. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động,  
mọi thứ đã gần như đã đi vào nề nếp, nên người ta chỉ chú ý đến vấn đề tổ chức lại, cải  
tiến làm sao để nó tốt hơn, hoàn thiện hơn và hiệu quả hơn. Đối với các doanh nghiệp  
mới thành lập thì điều hết sức quan trọng là phải xây dựng từ đầu cơ cấu sản xuất hợp  
lý và bố trí sản xuất nội bộ doanh nghiệp hiệu quả. Để bố trí sản xuất hiệu quả, ta hãy  
xem xét đến ba kiểu bố trí sản xuất sau đây:  
+ Bố trí sản xuất theo kiểu cố định vị trí sản phẩm.  
+ Bố trí sản xuất theo nguyên tắc công nghệ.  
+ Bố trí sản xuất theo sản phẩm (theo đối tượng).  
Mục đích của bố trí sản xuất là việc xác định phương án bố trí hợp lý nhằm đảm  
bảo cho hệ thống sản xuất hoạt động có hiệu quả với mức chi phí thấp, có khả năng  
thay đổi linh hoạt thích ứng với sự thay đổi nhanh của thị trường.  
Bố trí sản xuất trong doanh nghiệp là việc tổ chức, sắp xếp, định dạng về mặt  
không gian các phương tiện vật chất được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc cung  
ứng dịch vụ đáp ứng yêu cầu của thị trường. Kết quả của việc bố trí sản xuất là hình  
thành nên phân xưởng, dây chuyền sản xuất, nơi làm việc sao cho luồng đi của công  
việc, nguyên vật liệu, bán thành phẩm hợp lý và hiệu quả.  
1.2.2.1. Bố trí sản xuất theo kiểu cố định vị trí sản phẩm  
Theo cách bố trí này, sản phẩm được bố trí cố định tại một vị trí xác định.  
Nguyên, vật liệu, nhân công và công cụ lao động như máy móc thiết bị sản xuất phải  
điều động xung quanh sản phẩm. Cách bố trí sản xuất này thường được áp dụng cho  
việc sản xuất các loại sản phẩm có trọng lượng lớn, kích thước hoặc các yếu tố khác  
rất khó để di chuyển được như sản xuất máy bay, tàu thuỷ, vệ tinh.  
Khi bố trí sản xuất theo kiểu này, cần chú lý một số điểm chính sau đây:  
+ Nguyên vật liệu, vật tư phải được đưa đến đúng thời gian nhằm giảm chi phí  
bảo quản trong quá trình sử dụng và tránh chồng chéo lên đường đi của các yếu tố vật  
chất khác.  
10  
 
+ Nhiều chi tiết, bộ phận của sản phẩm có thể được sản xuất theo tiêu chuẩn  
thống nhất tại nhiều nơi khác trước khi đưa đến lắp ráp để làm giảm giá thành sản  
phẩm.  
+ Trình độ điều hành của cán bộ điều hành toàn bộ hệ thống sản xuất phải cao.  
Điều đó sẽ giúp giảm thiểu các hoạt động chồng chéo, chờ đợi nhau và do đó giảm chi  
phí giá thành.  
1.2.2.2. Bố trí sản xuất theo nguyên tắc công nghệ (theo quá trình)  
Cách bố trí sản xuất này thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất  
nhiều mặt hàng, sản phẩm gián đoạn, khối lượng sản phẩm nhỏ. Sản phẩm hay các chi  
tiết của các sản phẩm đòi hỏi quá trình chế biến khác nhau, thứ tự công việc cũng  
không giống nhau giữa các sản phẩm khác nhau. Đường đi của quá trình sản xuất, chế  
biến các laọi snả phẩm đó cũng khác nhau. Tuy nhiên, chúng có một vài hay nhiều giai  
đoạn công nghệ chế biến, sản xuất giống nhau.  
Theo cách bố trí này, việc bố trí máy tại các nơi làm việc là theo chức năng chứ  
không phải theo thứ tự, trình tự sản xuất. Tại mỗi nơi làm việc, người ta thường đặt  
nhiều máy móc thiết bị có cùng chức năng (khu cắt, khu may cổ, khu may tay. Tại mỗi  
bộ phận trên, người ta chỉ thực hiện một hay một số công việc giống nhau xác định.  
Những chi tiết, bộ phận được đưa đến đây theo loạt, theo những yêu cầu của kỹ thuật  
chế biến, chế tạo khác nhau tuỳ theo yêu cầu của từng loại sản phẩm.  
Có thể mô hình hoá cách bố trí sản xuất theo công nghệ như sau:  
Khu máy tiện  
Khu máy mài  
Khu máy nghiền  
Máy  
Máy  
Máy  
Máy  
mài 1  
mài 2  
nghiền 1  
nghiền 2  
Máy  
tiện 1  
Máy  
Máy  
Máy  
Máy  
mài 3  
mài m  
nghiền 3  
nghiền J  
Máy  
Khu máy phay  
Khu máy sơn  
tiện 2  
Máy  
pháy 1  
Máy  
phay 2  
Máy  
phay k  
Máy  
sơn 1  
Máy  
sơn P  
.
.
.
Khu lp ráp thành phẩm  
Lp  
Khu vực  
máy vận chuyển  
Máy  
tiện n  
Lp  
ráp f  
Lp  
ráp 2  
ráp 1  
Sơ đồ 1.1. Bố trí sản xuất theo công nghệ (theo quá trình)  
Bố trí sản xuất theo công nghệ (theo quá trình) có những ưu, nhược điểm sau:  
11  
- Ưu điểm:  
+ Hệ thống sản xuất có tính linh hoạt cao;  
+ Nơi làm việc được chuyên môn hoá cao. Công nhân có kỹ năng và tay nghề  
cao;  
+ Tính độc lập trong chế biến, chế tạo của các bộ phận cao;  
+ Hệ thống rất ít khi bị ngừng sản xuất do lỗi thiết bị máy móc bị hỏng, trục trặc kỹ  
thuật;  
+ Có thể khuyến khích nâng cao năng suất lao động cá biệt.  
o
Nhược điểm:  
+ Thường phải ngừng sản xuất để điều chỉnh máy móc, thiết bị sản xuất cho phù  
hợp với loạt sản phẩm hay chi tiết bộ phận sản phẩm mới;  
+ Lịch trình sản xuất thường không ổn định;  
+ Chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm thường cao;  
+ Sử dụng nguyên vật liệu thường không tiết kiệm nên dẫ đến hiệu quả không  
cao;  
+ Mức độ sử dụng máy móc, thiết bị thấp;  
+ Kiểm soát và chi phí kiểm soát cao;  
+ Đòi hỏi phải chú ý đến từng công việc cụ thể.  
1.2.2.3. Bố trí sản xuất theo sản phẩm (theo đối tượng)  
Đối với các doanh nghiệp sản xuất các loại sản phẩm sản xuất được lập đi lặp lại  
nhiều lần, với khối lượng lớn thì doanh nghiệp bố trí sản xuất theo kiểu này. Theo cách  
bố trí sản xuất này thì quá trình sản xuất sản phẩm được bố trí thành nhiều công đoạn  
khác nhau. Sau đó, toàn bộ quá trình sản xuất một loại sản phẩm được bố trí thành  
dòng nhằm thực hiện đúng trình tự các bước công việc đã được chuyên môn hoá và  
tiêu chuẩn hoá. Máy móc thiết bị sản xuất sẽ được bố trí theo một đường cố định như  
c băng tải để nối liền giữa các bước công việc với nhau, hình thành dây chuyền sản  
xuất.  
Hình thức bố trí sản xuất theo sản phẩm được mô tả trong biểu đồ sau:  
Các  
yếu tố  
đầu  
Nơi làm  
việc 1  
Nơi làm  
việc 2  
Nơi làm  
việc 3  
Nơi làm  
việc n  
vào  
Sơ đồ 1.2. Sơ đồ bố trí sản xuất theo sản phẩm  
Tuỳ theo tính chất của quá trình sản xuất, đường đi của nguyên vật liệu, bán  
thành phẩm và sản phẩm, tuỳ theo không gia sản xuất của doanh nghiệp, người ta có  
12  
thể bố trí sản xuất của doanh nghiệp theo đường thẳng, theo hình chữ U, theo hình chữ  
Z, L hay W hay xương cá.  
Loại hình bố trí sản xuất theo sản phẩm có những ưu điểm và nhược điểm sau  
đây:  
Ưu điểm:  
+ Tốc độ sản xuất sản phẩm nhanh;  
+ Chi phí sản xuất đơn vị sản phẩm thấp;  
+ Chuyên môn hoá lao động, chuyên môn hoá máy móc thiết bị, thời gian ngàng  
sản xuất rất ít nên năng suất lao động tăng cao, giảm các chi phí đào tạo, chi chí phản  
xuất nên hiệu quả cao;  
+ Mức độ sử dụng thiết bị máy móc cao do mỗi người chỉ chuyên tâm vào sử  
dụng máy móc thiết bị đó, nên có thể sử dụng lâu dài, ít hỏng hóc và ít ngừng sản xuất  
để sửa chữa, điều chỉnh máy,…  
+ Hình thành thói quen, kinh nghiệm và có lịch trình sản xuất ổn định;  
+ Có khả năng kiểm soát dễ dàng các hoạt động sản xuất và chất lượng của từng  
chi tiết và toàn bộ sản phẩm.  
Nhược điểm:  
+ Do dây chuyền sản xuất được thiết kế cho một hay một số loại sản phẩm thuộc  
cùng một nhóm sản phẩm giống nhau nên có tính ổn định khá cao. Nếu thị trường có  
biến động lớn về nhu cầu sản phẩm, thì độ rủi ro có thể cao;  
+ Vì đây là quá trình diễn ra liên tiếp và có mối liên hệ mật thiết với nhau, nên  
nếu có sự cố xẩy ra với bất kỳ một khâu nào đó của quá trình sản xuất đều gây ra ách  
tắc cho toàn bộ dây chuyền sản xuất.  
+ Không áp dụng được chế độ khuyến khích tăng năng suất lao động cá biệt  
được;  
+ Chi phí cho bảo dưỡng và duy trì máy móc thiết bị lớn nhằm đảm bảo cho việc  
thực hiện công việc được trôi chảy, liên tục.  
Ngoài ba hình thức bố trí sản xuất kể trên, người ta có thể bố trí sản xuất theo  
phương thức kết hợp giữa các hình thức bố trí sản xuất nêu trên. Đó chính là hình thức  
bố trí sản xuất hỗn hợp.  
13  
Câu hỏi ôn tập chƣơng 1:  
1. Hãy trình bầy nội dung cơ bản của tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp?  
2. Ý nghĩa của tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp?  
3. Phân tích các nguyên tắc tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp?  
4. Cho biết các bộ phận cấu thành cơ cấu sản xuất trong doanh nghiệp?  
5. Hãy cho biết thực chất và ý nghĩa của việc bố trí mặt bằng sản xuất trong  
doanh nghiệp?  
6. Phân tích sự khác biệt và mối quan hệ giữa bố trí mặt bằng theo nguyên tắc  
công nghệ và bố trí mặt bằng theo sản phẩm?  
14  
CHƢƠNG 2  
TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN TRỊ TRONG DOANH NGHIỆP  
2.1. Đối tƣợng, nội dung nghiên cứu của tổ chức bộ máy quản trị trong  
doanh nghiệp  
Như chúng ta đã biết, quản trị doanh nghiệp là sự kết hợp mọi nỗ lực của con  
người trong doanh nghiệp để đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp và mục tiêu  
riêng của mỗi người một cách hợp lý và có hiệu quả nhất. Đó là một quá trình phối  
hợp và hợp tác công việc giữa các quản trị viên trong bộ máy quản trị với công nhân  
trong quá trình sản xuất kinh doanh.  
Nói đến quản trị doanh nghiệp, thường bao gồm tổ chức chủ thể quản trị, tổ chức  
đối tượng bị quản trị, xác định và theo duổi mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp và tổ  
chức hệ thống thông tin nối liền chủ thể quản trị và đối tượng bị quản trị, giữa doanh  
nghiệp với bên ngoài (xem sơ đồ 2.1 dưới đây).  
Chủ thể quản trị: là chủ doanh nghiệp và đội ngũ quản trị viên trong bộ  
máy quản trị doanh nghiệp. Lao động trong doanh nghiệp có thể được chia ra thành 2  
loại là lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Bộ máy điều hành doanh nghiệp là lao  
động gián tiếp, lao động quản trị doanh nghiệp.  
Có 3 nhóm nhà quản trị trong doanh nghiệp gồm:  
+ Các nhà quản trị viên hàng đầu (Quản trị viên cấp cao) bao gồm giám đốc, các  
phó giám đốc phụ trách từng phần công việc. Nhóm các nhà quản trị viên cấp cao chịu  
trách nhiệm về đường lối, chiến lược, các công tác tổ chức hành chính tổng hợp của  
doanh nghiệp.  
+ Các nhà quản trị trung gian: bao gồm quản đốc phân xưởng, trưởng phòng,  
ban chức năng. Đó là đội ngũ quản trị viên cấp trung của doanh nghiệp có nhiệm vụ  
chỉ đạo thực hiện phương hướng, đường lối, chiến lược của quản trị viên hàng đầu đã  
phê duyệt cho ngành mình, bộ phận chuyên môn của mình.  
+ Các nhà quản trị cơ sở: gồm những quản trị viên thực thi những nhiệm vụ rất cụ  
thể.  
- Đối tƣợng bị quản trị: gồm những người lao động trong doanh nghiệp, các  
phương tiện vật chất kỹ thuật như máy móc, thiết bị, dụng cụ lao động, nguyên nhiên  
vậtliệu tại các nơi làm việc được tổ chức thành các nơi làm việc, tổ, đội, ngành sản  
xuất và cao hơn là các phân xưởng sản xuất trong doanh nghiệp. Việc tổ chức đối  
tượng bị quản trị trong doanh nghiệp đã được trình bầy trong chương 1 trên đây.  
- Mục tiêu hoạt động trong doanh nghiệp: Xét về kinh tế - xã hội, thì mục đích  
tồn tại của doanh nghiệp là do chủ sở hữu của doanh nghiệp đề ra. Hoạt động quản trị  
15  
   
doanh nghiệp là nhằm thực hiện các mục tiêu lợi ích của doanh nghiệp, đảm bảo cho  
doanh nghiệp tồn tại, phát triển lâu dài, bảo toàn và phát triển vốn, đáp ứng được mong  
muốn của chủ sở hữu và mọi thành viên trong doanh nghiệp. Suy cho cùng, mục đích  
của quản trị doanh nghiệp là bảo đảm hiệu quả sản xuất kinh doanh không ngừng tăng  
lên.  
vào  
ra  
Chthể  
quản trị  
Thông  
Thông  
tin  
tin  
ngược  
xuôi  
Đối tượng  
bquản trị  
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ hệ thống quản trị doanh nghiệp  
Hệ thống thông tin: hệ thống thông tin nối liền chủ thể quản trị và đối  
tượng bị quản trị, nối liền doanh nghiệp với bên ngoài. Hệ thống đó trước tiên bao  
gồm các tng tin đi từ chủ thể quản trị tới đối tượng bị quản trị. Nó còn được gọi là  
các thông tin xuôi, bao gồm các chỉ thị, mệnh lệnh, hướng dẫn thi hành. Thứ đến là  
các thông tin đi từ đối tượng bị quản trị lên chủ thể quản trị, còn được gọi là các thông  
tin ngược, bao gồm các thông tin phản ánh, báo cáo, thỉnh thị, xin ý kiến. Ngoài ra đó  
còn bao gồm các thông tin từ bên ngoài vào doanh nghiệp (còn được gọi là thông tin  
vào) và các tng tin từ doanh nghiệp ra bên ngoài (còn được gọi là thông tin ra).  
Đối tượng nghiên cứu của chương 2 này chính là tổ chức chủ thể quản trị. Đây  
là một nội dung hết sức quan trọng, vì việc tổ chức chủ thể quản trị có một ý nghĩa  
hết sức quan trọng đối với nội dung quản trị doanh nghiệp, điều đó được thể hiện  
trên các mặt sau:  
Thứ nhất: Chủ thể quản trị có vai trò lãnh đạo, định hướng chiến lược phát triển  
đối với toàn bộ sự phát triển của doanh nghiệp. Cùng với chủ sở hữu doanh nghiệp,  
đội ngũ các nhà quản trị viên các cấp có nhiệm vụ định hướng chiến lược cho sự phát  
triển của doanh nghiệp, trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường  
lối, chiến lược đã xác định.  
Thứ hai: Đây là bộ phận ra những quyết định quan trọng đảm bảo cho sự điều  
hành của cả doanh nghiệp đi theo quỹ đạo đã được xác định sẵn. Đó là hàng loạt các  
16  
quyết định về đầu tư, tổ chức, nhân sự, kỹ thuật, công nghệ sản xuất, đến các vấn đề  
tác nghiệp như phân công công việc sản xuất kinh doanh hàng ngày, hàng tuần. Đây có  
thể được coi là trung tâm quyền lực điều hành toàn bộ doanh nghiệp đi đến thành  
công.  
Thứ ba: Chủ thể quản trị chính là trung tâm thông tin của cả doanh nghiệp. Đó là  
nơi phát ra các thông tin cần thiết cho việc tổ chức thực hiện, nối liền sự chỉ huy, chỉ  
đạo của chủ sở hữu, của các nhà quản trị điều hành doanh nghiệp đến các cấp thực  
hành và đến người lao động. Nó cũng là trung tâm nhận các thông tin đến từ bên ngoài  
như thông tin về thị trường, về môi trường chính trị xã hội, về đối thủ cạnh tranh.  
Khi đề cập đến tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp, những nội dung cần được  
nghiên cứu gồm:  
+ Các nguyên tắc tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp;  
+ Các mô hình tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp;  
+ Những yếu tố cản trở tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp và các giải pháp  
hoàn thiện tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp.  
2.2. Các nguyên tắc tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp  
a) Tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp phải nhằm thực hiện và phục vụ  
triệt để việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức  
Mục tiêu của doanh nghiệp chỉ có thể được thực hiện khi mọi người trong doanh  
nghiệp đều hiểu được bản chất và mối quan hệ giữa các mục tiêu đó, cũng như mối  
liên hệ giữa việc thực hiện các mục tiêu đó với hệ thổng tổ chức quản trị trong doanh  
nghiệp. Nói cách khác, việc tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp phải tạo ra mối liên  
hệ hợp tác chặt chẽ giữa các cá nhân trong tổ chức với mục tiêu chung của cả tổ chức.  
Mục tiêu của tổ chức và động cơ của mỗi cá nhân có mối quan hệ qua lại khăng  
khít với nhau. Không nên đồng nhất hai vấn đề trên với nhau. Chúng ta chỉ có thể  
thống nhất được hai vấn đề trên khi đạt được mục tiêu của tổ chức và tổ chức hệ thống  
quản lý đảm bảo thoả mãn động cơ của mỗi cá nhân.  
Điều đó, đòi hỏi người đứng đầu doanh nghiệp phải biết cách tạo ra sự thống  
nhất giữa việc phấn đấu thực hiện được mục tiêu của tổ chức với thoả mãn động cơ  
của mỗi cá nhân. Muốn vậy, người đứng đầu doanh nghiệp phải làm cho cả hệ thống  
thấm nhuần mục tiêu của tổ chức trước tiên. Tiếp đến, việc tổ chức hệ thống bộ máy  
quản trị doanh nghiệp cần hướng đến tạo điều kiện để các cá nhân thực hiện việc thoả  
mãn các nhu cầu cá nhân của mình. Chỉ khi đó, mỗi cá nhân sẽ trở thành một bộ phận  
không thể tách rời của doanh nghiệp.  
17  
 
Nguyên tắc này khẳng định, bộ máy tổ chức quản trị doanh nghiệp bao giờ cũng  
phải hướng vào việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Và ngược lại, cấu trúc  
bộ máy quản trị doanh nghiệp cũng phải tạo cơ hội phát huy tiềm năng của mỗi cá  
nhân.  
b) Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu  
gọn nhẹ, linh hoạt và hiệu quả  
Bộ máy tổ chức quản trị doanh nghiệp là cơ quan quản lý, lãnh đạo, điều hành  
mọi hoạt động của doanh nghiệp. Nó là trung tâm thần kinh của doanh nghiệp. Vì vậy,  
cơ cấu tổ chức của nó phải bao trùm tất cả các linh vực quản lý, các chức năng quản  
lý.  
Nói về các chức năng quản trị, có nhiều quan điểm khác nhau. Song theo Henry  
Fayol của Pháp, một trong những người thành công nhất nghiên cứu về quảm trị đầu  
thế kỷ 20, đã tổng quát hoá quản trị doanh nghiệp thành 5 chức năng quản trị quan  
trọng sau:  
Dự kiến: “Doanh nghiệp chỉ thu được kết quả khi nó hướng dẫn bởi một  
chương trình hoạt động, một kế hoạch nhất định nhằm xác định rõ: Sản xuất cái gì?  
Sản xuất bằng cách nào? Bán cho ai? Với nguồn tài chính nào?”.  
Tổ chức: “Tổ chức một doanh nghiệp tức là trang bị tất cả những gì cần cho  
hoạt động của nó: vốn, máy móc, nhân viên, vật liệu”.  
Phối hợp: “Phối hợp là làm cho đồng điệu giữa tất cả những hoạt động của  
doanh nghiệp nhằm tạo ra sự dễ dàng và có hiệu quả”.  
Chỉ huy: “Có thể xã hội đã được xây dựng, giờ chỉ việc làm cho nó hoạt  
động, đó là nhiệm vụ của chỉ huy”.  
Kiểm tra: “Kiểm tra thực chất là duyệt lại xem tất cả các công việc được  
tiến hành phù hợp với chương trình đã định với những mệnh lệnh đã ban hành và  
những nguyên lý đã thừa nhận”.  
Quản trị doanh nghiệp hiểu theo các lĩnh vực quản trị bao gồm các hoạt động  
quản trị được sắp xếp trong một bộ phận nào đó như quản trị nguyên vật liệu, quản trị  
máy móc thiết bị, quản trị nhân lực. Ở các bộ phận này, có người chỉ huy và liên quan  
đến việc ra các quyết định quản trị trong linh vực đó. Sau đây là một số lĩnh vực quản  
trị chủ yếu:  
Lĩnh vực vật tư: bao gồm việc phát hiện và tìm kiếm vật tư, tính toán vật tư  
tồn kho, mua sắm vật tư, nhập kho và bảo quản, xây dựng định mức vật tư cho sản  
xuất;  
18  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 80 trang yennguyen 18/04/2022 1940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Chuyên đề Tổ chức và điều hành doanh nghiệp - Trần Văn Hùng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_chuyen_de_to_chuc_va_dieu_hanh_doanh_nghiep_tran_va.pdf