Tài liệu Chuyên đề Những vấn đề cơ bản về hoạt động tham gia hội chợ triển lãm thương mại của các doanh nghiệp - Nguyễn Thị Xuân Hương
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƢ
CỤC PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
Chuyên đề
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THAM GIA
HỘI CHỢ TRIỂN LÃM THƢƠNG MẠI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
(Tài liệu dành cho đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa)
Biên soạn: PGS.TS Nguyễn Thị Xuân Hƣơng
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
THÞ TR¦êNG ...............................................................................................2
các doanh nghiệp .............................................................................................2
thƣơng mại.......................................................................................................5
THƢƠNG MẠI..............................................................................................9
Khái niệm.........................................................................................................9
Phân loại hội chợ, triển lãm..........................................................................10
Hội chợ triển lãm trong nƣớc.........................................................................17
Hội chợ, triển lãm ở nƣớc ngoài....................................................................20
Điều kiện về phía doanh nghiệp ....................................................................52
Điều kiện về phía nhà tổ chức .......................................................................54
Các điều kiện khác.........................................................................................54
đối với các doanh nghiệp .........................................................................60
Phần 3: HƢỚNG DẪN SỬ DỤNG TÀI LIỆU.....Error! Bookmark not defined.
1
PHẦN 1. HéI CHî, TRIÓN L·M TH¦¥NG M¹I Vµ VAI TRß CñA Nã §èI VíI C¸C
DOANH NGHIÖP KINH DOANH TRONG C¥ CHÕ THÞ TR¦êNG
I. HỘI CHỢ, TRIỂN LÃM - MỘT NỘI DUNG QUAN TRỌNG CỦA XÚC
TIẾN THƢƠNG MẠI
1. Tính tất yếu của xúc tiến thƣơng mại đối với hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp
Kinh tế ngày càng phát triển, hàng hóa ngày càng đa dạng, phong phú; Cạnh
tranh ngày càng trở nên gay gắt. Vì vậy, tiêu thụ hàng hóa trở thành vấn đề sống
còn và là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Nhằm đẩy nhanh việc tiêu
thụ sản phẩm các doanh nghiệp đã đƣa ra nhiều cách thức ứng xử khác nhau. Một
trong các cách thức ứng xử đƣợc các doanh nghiệp ở nhiều quốc gia sử dụng từ đầu
những năm 20 của thế kỷ 20 đó là: ―MARKETING‖. Hiện nay, marketing đƣợc
coi là một loại nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh hiện đại.
Với các tiêu thức phân chia khác nhau, có các loại marketing khác nhau. Theo
phạm vi ứng dụng, marketing có hai loại: MACRO MARKETING và MICRO
MARKETING.
Macro marketing đƣợc ứng dụng trong mọi nền kinh tế nhằm mục đích cân
đối cung cầu để thực hiện mục tiêu chung của mỗi quốc gia. Micro marketing chỉ
tồn tại và phát triển đƣợc trong nền kinh tế thị trƣờng.
Mặc dù macromarrketing đƣợc áp dụng vào mọi nền kinh tế nhƣng cách thức
áp dụng trong mỗi loại nền kinh tế có khác nhau.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ nền kinh tế đƣợc quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, ba vấn đề cơ bản của kinh doanh chỉ đƣợc giải quyết từ một trung tâm.
Giá cả của các hàng hóa dịch vụ đều do nhà nƣớc quyết định. Hoạt động mua bán
hàng hóa ở các doanh nghiệp hoàn toàn đƣợc thực hiện thông qua chỉ tiêu pháp
lệnh, cả việc mua sắm các yếu tố đầu vào cho sản xuất đến việc tiêu thụ (bán) các
sản phẩm sản xuất. Trong một thời kỳ dài, Macro Marketing đã phát huy tác dụng
trong việc huy động các nguồn lực của nền kinh tê vào việc thực hiện mục tiêu
chính trị xã hội, kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế, chống lại các lực lƣợng phản động,
ổn định nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn phát triển sản xuất kinh doanh cho
thấy vối cơ chế kế hoạch hóa tập trung thì ứng dụng Macro Marketing nhƣ vậy chỉ
thích ứng với nền kinh tế giản đơn, chậm phát triển hoặc trong điều kiện chiến
tranh. Khi nền kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định cách ứng dụng Macro
2
Marketing nhƣ vậy không còn phát huy hiệu quả của nó. Vì vậy, mục tiêu của
Macro Marketing cũng nhƣ nội dung các hoạt động Marketing cũng phải đƣợc thay
đổi thì việc ứng dụng Marketing mới đem lại hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế.
Theo Các Mác: một nền sản xuất nhất định sẽ quyết định một chế độ tiêu dùng
nhất định, quyết định một chế độ lƣu thông nhất định. Trong nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, toàn bộ hoạt động thƣơng mại đƣợc diễn ra theo kế hoạch. Nhà nƣớc
độc quyền về ngoại thƣơng. Thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh, các doanh nghiệp
tiến hành các hoạt động mua bán. Việc thực hiện quá trình mua bán theo chỉ tiêu
và địa chỉ đã dẫn đến hậu quả là thủ tiêu tính năng động sáng tạo của các doanh
nghiệp trong sản xuất kinh doanh, gây căng thẳng giả tạo về nhu cầu hàng hóa và
hạch toán kinh doanh chỉ là hình thức. Các doanh nghiệp luôn biết chắc chắn rằng
hàng hóa mà mình sản xuất kinh doanh là đã bán đƣợc. Các doanh nghiệp không
quan tâm đến hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, mọi hoạt
động về tìm kiếm cơ hội kinh doanh mới, tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu của khách
hàng, các vấn đề về chiến lƣợc sản phẩm, chiến lƣợc phân phối, chiến lƣợc giá,
chiến lƣợc xúc tiến để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng không đƣợc các
doanh nghiệp quan tâm. Trong điều kiện này, Marketing ở tầm doanh nghiệp không
có điều kiện để tồn tại và phát triển. Hoạt động xúc tiến thƣơng mại không trở thành
hoạt động thiết yếu đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trƣờng có sự điều tiết của nhà nƣớc, sự vận hành của Macro
Marketing có sự thay đổi về căn bản. Macro Marketing hoạt động trên cơ sở: thị
trƣờng là nhân tố quyết định giải quyết ba vấn đề cơ bản của sản xuất kinh doanh:
sản xuất kinh doanh cái gì, sản xuất kinh doanh cho ai, sản xuất kinh doanh nhƣ thế
nào. Nhu cầu của ngƣời tiêu thụ giữ vai trò trung tâm, vai trò quyết định. Hệ thống
Macro Marketing chịu sự tác động của các quy luật của nền kinh tế thị trƣờng. Mặt
khác, sự điều tiết của nhà nƣớc là một tất yếu và có ý nghĩa vô cùng quan trọng
nhằm phát triển có hiệu quả toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiên các mục tiêu
kinh tế, xã hôi... Chính phủ một mặt cần có chiến lƣợc phát triển trong thời kỳ dài,
mặt khác phải có kế hoạch phát triển trong từng giai đoạn trung và ngắn hạn cho
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Dựa trên kết quả nghiên cứu nhu cầu thị
trƣờng và cách ứng sử của các doanh nghiệp, hệ thống Macro Marketing đƣa ra các
mục tiêu marketing và tổ chức các hoạt động nhằm giải quyết hài hòa nhu cầu tiêu
dùng, mục tiêu của quốc gia và mục tiêu của doanh nghiệp. Qua đó cân đối cung
cầu, đáp ứng mục tiêu phát triển đất nƣớc đặc biệt là trong kinh doanh xuất nhập
khẩu. Nhờ có Macro Marketing, sự khác biệt giữa nhà sản xuất và ngƣời tiêu thụ
3
đƣợc kết nối lại. Thông qua các chính sách Marketing ỏ tầm vĩ mô, các nhà sản xuất
kinh doanh có thể có các thông tin cần thiết để xác định ba vấn đề cơ bản của sản
xuất kinh doanh. Thông qua hệ thống Macro Marketing, ngƣời tiêu dùng đƣợc bảo
vệ quyền lợi chính đáng của mình trƣớc những rủi ro do hệ thống Marketing ở tầm
doanh nghiệp đem lại. Hệ thống Macro Marketing vận hành theo cách thức đó sẽ
giúp cho hệ thống Marketing ở các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Bởi có
những hoạt động Marketing ở tầm doanh nghiệp chỉ thực hiện đƣợc khi có sự phối
hợp hoạt động Marketing ở tầm vĩ mô.
Thật vậy, trong cơ chế thị trƣờng, giá cả đƣợc hình thành trên cơ sở quan hệ
cung cầu, cạnh tranh là vấn đề bất khả kháng đối với tất cả các doanh nghiệp. Đặc
biệt, do sự vận động của môi trƣờng kinh doanh, trên thị trƣờng thƣờng xuyên xuất
hiện những cơ hội kinh doanh mới, đồng thời thƣờng xuyên làm mất đi các cơ hội
kinh doanh hiện có của các doanh nghiệp. Khác với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập
trung các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về hiệu quả của quá trình kinh
doanh. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trƣờng, các doanh
nghiệp cần phải đạt đƣợc ba mục tiêu cơ bản: Mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu vị thế,
mục tiêu an toàn. Để đạt đƣợc các mục tiêu trên, một mặt các doanh nghiệp cần
phải nghiên cứu thị trƣờng, xác định chuẩn xác thị trƣờng kinh doanh của doanh
nghiệp, nghiên cứu kỹ hành vi mua sắm của các khách hàng, đƣa ra cách thức đáp
ứng nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất trong điều kiện có thể. Mặt khác, để có
khả năng thắng thế trên thị trƣờng cạnh tranh, các doanh nghiệp cần phải tăng
trƣởng thƣờng xuyên, đổi mới thƣờng xuyên. Để tăng trƣởng và đổi mới, các doanh
nghiệp cần phải không ngừng tìm kiếm các cơ hội kinh doanh hấp dẫn mối đối với
doanh nghiệp, kinh doanh phải có lợi nhuận.
Hoạt động thƣơng mại của các doanh nghiệp trong thòi kỳ này có sự thay đổi
về chất. Vấn đề tự do hóa thƣơng mại từng bƣớc đƣợc hình thành. Trừ một số mặt
hàng chiến lƣợc mang tính quốc gia có ảnh hƣởng lớn đến các cân đối của nền kinh
tế quốc dân, các hàng hóa đều đƣợc tự do buôn bán. Thị trƣờng ngoài nƣớc đƣợc
mở rộng theo hƣớng đa dạng hóa, đa phƣơng hóa. Theo Nghị định 57 CP ngày
30/8/1998 thì doanh nghiệp đều đƣợc phép xuất khẩu trực tiếp khi đã đăng ký mã số
ở Cục Hải quan. Để thích ứng với cơ chế mới, các doanh nghiệp phải nghiên cứu
cung cầu hàng hóa và xu hƣớng vận động của môi trƣờng kinh doanh để tìm cách
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng theo đúng triết lý kinh doanh của nền kinh
tế hàng hóa. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải vận dụng Marketing vào hoạt động
sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động thƣơng mại nói riêng.
4
Nhờ có hoạt động Marketing, doanh nghiệp có khả năng tìm kiếm cho mình
thị trƣờng trọng điểm thích hợp với khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Thông qua
hoạt động nghiên cứu hành vi mua sắm của các khách hàng, các doanh nghiệp tìm
ra các cách thức chinh phục khách hàng một cách có hiệu quả. Doanh nghiệp muốn
đạt đƣợc hiệu quả kinh doanh không thể không ứng dụng Marketing. Marketing
chính là nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh của các doanh nghiệp.
Marketing bao hàm rất nhiều nội dung. Xúc tiến thương mại là một nội
dung quan trọng trong MARKETING thương mại. Xúc tiến thương mại là các
hoạt động có chủ đích trong lĩnh vực MARKETING của các doanh nghiệp nhằm tìm
kiếm, thúc đẩy cơ hôi mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thương mại. Xúc tiến
thương mại bao gồm các hoạt động chính như: quảng cáo, khuyến mại, hội chợ,
triển lãm, bán hàng trực tiếp, trưng bầy hàng hóa, quan hệ công chúng. Do đó để
đạt được mục tiêu trong kinh doanh các doanh nghiệp phải thực hiện tốt hoạt
động xúc tiến.
2. Hội chợ, triển lãm thƣơng mại - Một nội dung quan trọng của xúc tiến thƣơng
mại
Có nhiều quan niệm khác nhau về xúc tiến thƣơng mại. Trong marketing, xúc
tiến là khái niệm đƣợc dịch từ từ tiếng anh ―Promotion‖. Về bản chất, nó là hoạt
động nhằm tìm kiếm và thúc đẩy một cái gì đó. Xóc tiÕn th êng ® îc hiÓu lµ ho¹t
®éng th«ng tin marketing tíi kh¸ch hµng tiÒm n¨ng. Néi dung cña xóc tiÕn bao
gåm: Qu¶ng c¸o (ADVERTSING), khuyÕn m¹i, héi chî, triÓn l·m (SALES
PROMOTION), b¸n hµng trùc tiÕp (PERSONAL SELLING), vµ quan hÖ c«ng
chóng ( PUBLIC RELATIONS). Tuy nhiên, Trong nền kinh tế quốc dân, mỗi lĩnh
vực có những đặc tính khác nhau. Xúc tiến ở lĩnh vực nào thì tên gọi của lĩnh vực
đó đó đƣợc đặt sau từ xúc tiến. Ví dụ: Xúc tiến trong lĩnh vực ngân hàng gọi là Xúc
tiến Ngân hàng; Xúc tiến trong lính vực đầu tƣ gọi là xúc tiến đầu tƣ; Xúc tiến trong
lĩnh vực du lịch gọi là Xúc tiến Du lịch; Xúc tiến trong lĩnh vực thƣơng mại đƣợc
gọi là Xúc tiến Thƣơng mại. Xúc tiến trong mỗi lĩnh vực khác nhau có nét đặc thù
khác nhau. `
Theo bộ luật thƣơng mại: ―Xúc tiến thƣơng mại là hoạt động nhằm tìm kiếm
thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ thƣơng mại‖.
Xúc tiến thƣơng mại có vai trò to lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh ở Việt Nam hiện nay bởi:
+ Trong những năm gần đây do tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế,
5
của cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho bộ mặt của thị trƣờng trong nƣớc cũng
nhƣ quốc tế thay đổi rõ rệt.
+ Trên thị trƣờng, hàng hóa rất đa dạng và ngày càng nhiều sản phẩm mới
xuất hiện. Mặt khác nhu cầu luôn thay đổi, thông tin về cung cầu trở nên vô cùng
quan trọng đối với các tổ chức kinh doanh cũng nhƣ ngƣời tiêu dùng.
+ Hoạt động xúc tiến thƣơng mại có vai trò thông tin cho ngƣời tiêu dùng về
sản phẩm của doanh nghiệp để khuyến khích cho họ mua hàng. Đặc biệt với sản
phẩm mới cần có hoạt động xúc tiến thƣơng mại để qua đó doanh nghiệp có khả
năng thăm dò thị trƣờng và đặc biệt là phản ứng của ngƣời tiêu dùng trƣớc khi sản
phẩm bán ra trên thị trƣờng.
+ Thông qua hoạt động xúc tiến thƣơng mại, doanh nghiệp không chỉ bán
đƣợc hàng mà doanh nghiệp có thể xây dựng hình ảnh tốt của doanh nghiệp trƣớc
khách hàng, doanh nghiệp có thể tác động vào khách hàng, góp phần thay đổi cơ
cấu tiêu dùng, hƣớng dẫn nhu cầu tiêu dùng.
+ Xúc tiến thƣơng mại là yếu tố quan trọng để cung và cầu gặp nhau, để ngƣời
bán tìm cách thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của ngƣời mua. Thông qua hoạt động xúc
tiến, các doanh nghiệp có khả năng mở rộng và chiếm linh thị trƣờng, giảm đƣợc
chi phí kinh doanh cũng nhƣ rủi ro trên thƣơng trƣờng. Vị thế của doanh nghiệp
ngày càng đƣợc củng cố và nâng cao.
+ Kinh tế càng phát triển, khoa học kỹ thuật càng phát triển thì vấn đề cạnh
tranh bằng giá cả của hàng hóa càng ít có ý nghĩa quyết định. Thay vào đó là cạnh
tranh bằng sản phẩm và dịch vụ trở thành vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định
sự thắng bại trên thị trƣờng cạnh tranh.
Xúc tiến thƣơng mại của các doanh nghiệp bao gồm những nội dung sau:
1. Quảng cáo.
2. Trƣng bày hàng hóa.
3. Tham gia hội chợ, triển lãm
4. Khuyến mại.
5. Bán hàng cá nhân
6. Quan hệ công chúng.
Hội chợ, triển lãm là hoạt động quan trọng trong xúc tiến thƣơng mại của các
doanh nghiệp. Thông qua hội chợ triển lãm, các doanh nghiệp có thể sử dụng phối
kết hợp cả sáu công cụ trên để thực hiện mục tiêu kinh doanh, giải quyết khó khăn
trong sản xuất, tiêu thụ hàng hóa
6
TIÊU THỤ HÀNG HÓA NGÀY CÀNG KHÓ KHĂN
Trong nền kinh tế thị trƣờng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, hoạt động
tiêu thụ của các doanh nghiệp ngày càng trở nên khó khăn bởi:
Trƣớc hết là do khối lƣợng hàng hóa đƣa vào lƣu chuyển trong phạm vi một
quốc gia và quốc tế:
Khi nền kinh tế phát triển, sản xuất ngày càng gia tăng, thƣơng mại trong nƣớc cũng
nhƣ quốc tế đƣợc mở rộng, khối lƣợng hàng hóa đƣa vào lƣu thông trên thị trƣờng
trong nƣớc cũng nhƣ quốc tế ngày càng lớn. Để tiêu thụ đƣợc khối lƣợng hàng hóa
đồ sộ đó, các quốc gia cũng nhƣ các doanh nghiệp phải tăng cƣờng hoạt động hội
chợ, triển lãm thƣơng mại. Theo tính toán của các nhà kinh tế, lƣợng hàng hóa đƣa
vào lƣu thông giữa các quốc gia với nhau và có thời kỳ lên đến 6,7 nghìn tỷ USD.
Hiện nay ở Việt Nam, khối lƣợng hàng hóa đƣa vào lƣu chuyển trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân ngày một gia tăng. Năm l955 khoảng 1.454,74 triệu đồng, năm
1985 là gần 631 nghìn tỷ đồng, năm 1999 đã lên trên một nghìn tỷ đồng. Năm 2011
là 2004,4 nghìn tỷ và ƣớc đến hết tháng 10 năm 2012 là 1955 nghìn tỷ. Sự gia tăng
về khối lƣợng hàng hóa buôn bán trên thị trƣờng ảnh hƣởng trực hiện các mặt hàng
mới trên thị trƣờng ngày càng nhiều. Theo các nhà nghiên cứu sự gia tăng danh mục
các mặt hàng kinh doanh nhanh hơn nhiều so với sự gia tăng của các chủ thể tham
gia vào kinh doanh thƣơng mại trên tiếp đến hoạt động xúc tiến thƣơng mại nói
chung và nhu cầu tham gia hội chợ, triển lãm trong kinh doanh thƣơng mại nói
riêng.
Thứ hai do sự gia tăng danh mục các mặt hàng kinh doanh trên thị trường
Khoa học kỹ thuật càng phát triển, nhu cầu của con ngƣời ngày càng đa dạng
làm cho danh mục các mặt hàng kinh doanh ngày càng gia tăng, sự xuất hiện các
mặt hàng mới trên thị trƣờng ngày càng nhiều. Theo các nhà nghiên cứu sự gia tăng
danh mục các mặt hàng kinh doanh nhanh hơn nhiều so với sự gia tăng của các chủ
thể tham gia vào kinh doanh thƣơng mại trên thị trƣờng. Chính nhân tố này làm cho
chu kỳ sống của hàng, hóa ngắn lại, ảnh hƣởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp. Muốn kinh doanh có hiệu quả, trƣớc hết doanh nghiệp phải
tiêu thụ đƣợc hàng hóa. Để các hàng hóa mới nhanh chóng nhận đƣợc sự chấp nhận
của khách hàng, các doanh nghiệp kinh doanh thƣơng mại cần tổ chức tham gia hội
chợ, triển lãm để tăng nhanh khối lƣợng hàng hóa bán ra, nâng cao thị phần kinh
doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba là sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ
7
Khoa học kỹ thuật phát triển, công nghệ sản xuất sản phẩm mới sẽ cho phép
sản xuất ra các sản phẩm với những chất lƣợng ngày càng cao. Sự đa dạng này có
thể đem lại những lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Khoa học kỹ thuật càng
phát triển, khả năng làm đa dạng hóa sản phẩm với những nét đặc trƣng làm cho
tính cạnh tranh trên thị trƣờng ngày càng cao. Khả năng lựa chọn của ngƣời tiêu
dùng ngày càng cao. Tiêu thụ hàng hóa ngày càng trở nên khó khăn. Xúc tiến
thƣơng mại sẽ góp phần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ tư là do sự gia tăng của các chủ thể tham gia vào hoạt động mua bán
trên thị trường làm cho các yếu tố cạnh tranh ngày càng gay gắt
Sản xuất càng phát triển, nhu cầu càng tăng nhanh, số lƣợng các chủ thể tham gia
vào hoạt động kinh doanh thƣơng mại càng nhiều. Sự gia tăng nhanh chóng của các
doanh nghiệp thƣơng mại làm thay đổi các mối quan hệ thƣơng mại vốn có trƣớc
đây, làm cho nhân tố cạnh tranh trong kinh doanh trên thị trƣờng ngày càng trở nên
gay gắt.
Để bán đƣợc hàng hóa, để nâng cao sức cạnh tranh, ngoài việc nâng cao chất
lƣợng phục vụ khách hàng, các doanh nghiệp thƣơng mại còn phải tổ chức tốt các
hoạt động tham gia hội chợ, triển lãm. Hoạt động tham gia hội chợ, triển lãm sẽ
giúp cho doanh nghiệp chinh phục khách hàng tốt hơn, doanh thu có khả năng tăng
lên. Nhƣ vậy, số chủ thể kinh doanh thƣơng mại càng nhiều, tính cạnh tranh càng
cao, đòi hỏi hoạt động hội chợ, triển lãm thƣơng mại phải phát triển.
Thứ năm là do sự tác động của chính sách mở cửa nền kinh tế của các quốc
gia và vấn đề quốc tế hóa nền kinh tế toàn cầu:
Một nền kinh tế mở cửa sẽ làm cho giao lƣu thƣơng mại tăng nhanh, số lƣợng
cũng nhƣ kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên không ngừng. Các quốc gia sử dụng
chính sách mở cửa nền kinh tế sẽ tham gia vào khối kinh tế khu vực, hoà nhập vào
nền kinh tế thế giới. Để phát triển kinh doanh ra thị trƣờng quốc tế, các doanh
nghiệp thƣơng mại cần phải có những hiểu biết nhất định về thị trƣờng quốc tế, phải
giới thiệu đƣợc hàng hóa kinh doanh trên thị trƣờng quốc tế, phải xây dựng đƣợc
mối quan hệ tốt đẹp với bạn hàng trên thị trƣờng quốc tế. Quan hệ kinh tế quốc tế
càng phát triển càng tạo điều kiện cho hoạt động hội chợ, triển lãm thƣơng mại phát
triển, ở những nƣớc ngoại thƣơng kém phát triển, hoạt động tham gia hội chợ, triển
lãm cũng kém phát triển.
Với xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới, các quốc gia kém phát triển có
điều kiện du nhập đƣợc những thành tựu phát triển về khoa học kỹ thuật, về nghệ
8
thuật quản trị kinh doanh, về kinh nghiệm tiên tiến của các nƣớc phát triển trên thế
giới. Chính vì vậy các nƣớc chậm phát triển tham gia hội chợ, triển lãm không
những đạt đƣợc mục đích tiếp thị bán hàng mà còn có điều kiện học hỏi kiến thức
và kinh nghiệm kinh doanh ở các nƣớc tiên tiến.
Vì vậy, xúc tiến thƣơng mại là hoạt động không thể thiếu của các doanh
nghiệp.
II.
HỘI CHỢ, TRIỂN LÃM THƢƠNG MẠI VÀ NHỮNG LỢI ÍCH ĐẠT
ĐƢỢC KHI DOANH NGHIỆP THAM GIA HỘI CHỢ, TRIỄN THƢƠNG
MẠI
1. Khái niệm
Theo Luật Thƣơng mại của Nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì
hội chợ thƣơng mại và triển lãm thƣơng mại đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
Hội chợ thương mại là hoạt động xúc tiến thƣơng mại tập trung trong một
thời gian ngắn và địa điểm nhất định, trong đó tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh đƣợc trình bày hàng hóa của mình nhằm mục đích tiếp thị, ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thƣơng mại thông qua việc trƣng
bày bằng hàng hóa, tài liệu về hàng hóa để giới thiệu, quảng cáo nhằm mở rộng và
thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hóa.
Nhƣ vậy hội chợ là hoạt động mang tính định kỳ đƣợc tổ chức tại một địa
điểm, thời gian nhất định, là nơi ngƣời bán và ngƣời mua trực tiếp giao dịch mua
bán.
Triển lãm thƣơng mại có hình thái gần giống với hội chợ nhƣng doanh nghiệp
không đƣợc mang hàng hóa đến bán tại triển lãm. Các doanh nghiệp tham gia triển
lãm thƣơng mại chủ yếu để giới thiệu, quảng cáo, giao dịch nhằm tạo điều kiện cho
việc ký kết hợp đồng kinh tế. Các triển lãm thƣờng ít có định kỳ nhƣ hội chợ.
Trƣớc đây trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung phần lớn các doanh nghiệp chỉ
tham gia vào hoạt động triển lãm rất ít khi có cơ hội để tham gia vào các hội chợ vì
thời kỳ đó chƣa có các tổ chức đứng ra tổ chức hội chợ.
Ngày nay hội chợ, triển lãm là hoạt động xúc tiến thƣơng mại có xu hƣớng
phát triển mạnh. Tuy nhiên hội chợ, triển lãm ít khi tổ chức tách rời mà nó đƣợc tổ
chức phối hợp nhau trong cùng thời gian và không gian và gọi là hội chợ, triển lãm.
9
Hôi chợ, triển lãm thương mại là: hoạt động xúc tiến thƣơng mại đƣợc thực
hiện tập trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định để thƣơng nhân
trƣng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ. (Luật thƣơng mại 2005).
Nhƣ vậy, trong hội chợ, triển lãm thƣơng mại, các doanh nghiệp không những
trƣng bầy hàng hóa để xúc tiến thƣơng mại mà còn trƣng bầy các tài liệu liên quan
đến hàng hóa nhằm mục đích quảng cáo, cạnh tranh, mở rộng thị trƣờng. Hơn nữa,
trong hội chợ, triển lãm, các doanh nghiệp đƣợc phép bán hàng.
2. Phân loại hội chợ, triển lãm
Tùy theo các tiêu thức phân chia khác nhau, có các loại hội chợ, triển lãm
khác nhau. Hiện nay, ngƣời ta thƣờng sử dụng các tiêu thức sau để phân loại hội
chợ, triển lãm:
a.Theo tiêu thức địa lý
Căn cứ vào tiêu thức phân chia theo phạm vi địa lý, các doanh nghiệp Việt
Nam có thể tham gia vào các loại hội chợ, triển lãm sau:
+ Hội chợ, triển lãm địa phương
Đây là loại hội chợ, triển lãm làm do các địa phƣơng tự tổ chức nhằm giới
thiệu những thế mạnh của địa phƣơng trong một lĩnh vực nào đó. Qua đó, các doanh
nghiệp địa phƣơng có cơ hội để thu hút vôn đầu tƣ, tìm kiếm bạn hàng liên doanh
liên kết.
Ví dụ: Hội chợ, triển lãm Đồng bằng Sông cửu Long.
Hội chợ, triển lãm cần Thơ.
Hội chợ thƣơng mại Lạng Sơn
Hội chợ thƣơng mại Quảng Ninh
+ Hội chợ, triển lãm quốc gia.
Hội chợ, triển lãm quốc gia dành cho các doanh nghiệp trên toàn quốc. Tham
gia vào hội chợ, triển lãm này thƣờng là các doanh nghiệp có tiềm lực mạnh, có uy
tín. Nó thƣờng do các công ty chuyên kinh doanh hội chợ, triển lãm tổ chức. Ví dụ
ở Việt Nam các hội chợ này thƣờng đƣợc các tổ chức nhƣ Vinexad, VeFax, Phòng
Thƣơng mại và công nghiệp Việt Nam tổ chức.
+ Hội chợ triển lãm thương mại quốc tế.
Hội chợ, triển lãm quốc tế là hội chợ, triển lãm trong đó ngoài các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh trong nƣớc còn có các doanh nghiệp khác nhau trên thế
giới tham gia hoặc hội chợ, triển lãm ở nƣớc ngoài mà có sự tham gia của doanh
10
nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp tham gia vào hội chợ, triển lãm này thƣờng là
các doanh nghiệp muốn vƣơn ra thị trƣờng nƣớc ngoài hoặc các doanh nghiệp nƣớc
ngoài muốn xâm nhập vào thị trƣờng nƣớc chủ nhà. Thông thƣờng các triển lãm
này đƣợc các công ty kinh doanh hội chợ, triển lãm tổ chức thực hiện độc lập hoặc
có sự kết hợp với các công ty hội chợ, triển lãm khác (trong hay ngoài nƣớc).
Ví dụ: Hội chợ, triển lãm thành tựu khoa học công nghệ ASEAN.
Hội chợ thƣơng mại quốc tê EXPO.
Chọn hội chợ, triển lãm thƣơng mại theo tiêu thức này khi doanh nghiệp muốn
thúc đẩy kinh doanh theo khu vực thị trƣờng.
b, Theo tiêu thức chủ đề của hội chợ, triển lãm các doanh nghiệp Việt Nam
có thể tham gia vào các hội chợ, triển lãm sau:
+ Hội chợ, triển lãm tổng hợp. Đây là hội chợ, triển lãm dành cho tất cả
những doanh nghiệp ở bất kỳ lĩnh vực nào muốn tham gia. Loại hội chợ, triển lãm
này nhằm thu hút đông đảo quần chúng, ngƣời tiêu dùng, nhà sản xuất, các nhà
phân phối. Tham gia vào hội chợ, triển lãm này phần đông là các nhà sản xuất kinh
doanh hàng tiêu dùng. Khách hàng đến hội chợ, triển lãm rất đa dạng và nhu cầu
của họ vô cùng khác nhau và phức tạp, rất khó khăn trong việc phân loại nhu cầu
của họ.
+ Hôi chợ triển lãm chuyên đề. Thông thƣờng loại hội chợ, triển lãm này sẽ
đi sâu vào lĩnh vực nhƣ: hàng xuất khẩu, hội chợ, triển lãm hàng tiêu dùng, hội chợ,
triển lãm hàng công nghiệp. Đây là loại hội chợ, triển lãm có giá trị cao cho các
doanh nghiệp tham gia hội chợ bởi nó thu hút số lƣợng lớn các doanh nhân, các
khách hàng có chung mối quan tâm. Do đó mục tiêu tham gia hội chợ, triển lãm của
các doanh nghiệp sẽ dễ đạt đƣợc hơn so với tham gia hội chợ, triển lãm tổng hợp.
Ví dụ: Hội chợ thời trang.
Hội chợ, triển lãm về sản xuất công nghiệp.
Hội chợ quốc tế hàng công nghiệp CN.
Hội chợ thủy sản.
Doanh nghiệp lựa chọn hội chợ triển lãm theo tiêu thức này khi muốn tham
gia hội chợ theo lĩnh vực kinh doanh để tìm kiếm bạn hàng và khuyeechs chƣơng
sản phẩm của doanh nghiệp.
c. Theo tiêu thức ngành nghề kinh doanh các doanh nghiệp Việt Nam có
thể tham gia vào các hội chợ, triển lãm: hội chợ hàng nông nghiệp, công nghiệp,
giáo dục, y tế, thủy sản, vàng bạc đá quý, vật liệu xây dựng... Đối tƣợng tham gia
triển lãm là những doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực trên. Đây là loại
11
hình hội chợ, triển lãm quan trọng thƣờng thu hút đƣợc sự chú ý của các doanh
nghiệp cũng nhƣ cá nhân những ngƣời quan tâm. Tuy nhiên do triển lãm chuyên sâu
do đó sẽ khó khăn cho ngƣời tổ chức hội chợ, triển lãm do phải tập trung đủ lƣợng
ngƣời tham gia.
Doanh nghiệp sử dụng tiêu chi phân chia này để tham gia các hội chợ mà
doanh nghiệp có thể thể hiện sức cạnh tranh, tìm kiếm bạn hàng, khách hàng
tiềm năng.
d. Theo tiêu thức chủ thể đứng ra tổ chức hôi chợ triển lãm, các doanh
nghiệp Việt Nam có thể tham gia vào các loại hội chợ triển lãm sau:
- Hội chợ, triển lãm do một doanh nghiệp tham gia tự đứng ra tổ chức để
giới thiệu sản phẩm của mình, có sự tham gia của một số doanh nghiệp khác. Ví dụ
nhƣ triển lãm Intel tổ chức; triển lãm máy Photocopy của Toshiba. Hội chợ, triển
lãm theo loại này thƣờng có quy mô nhỏ, số lƣợng ngƣời tham gia không nhiều
nhƣng khách hàng thì có cùng mối quan tâm nhƣ ngƣời sử dụng, ngƣời tiêu dùng.
- Hội chợ, triển lãm do một hay nhiều đơn vị chuyên tổ chức hội chợ, triển
lẫm đứng ra tổ chức. Đây là các cuộc triển lãm thƣờng có quy mô lớn, khả năng thu
hút đƣợc các tổ chức tham gia cũng nhƣ khách hàng là rất cao. Ví dụ nhƣ: Expo.
- Hội chợ, triển lãm do địa phương tổ chức.
- Hội chợ, triển lãm do một cơ quan chức năng của chính phủ hay của bộ
quản lý ngành nào đó tổ chức.VD: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức
tại Trung tâm hội chợ, triển lãm Việt Nam.
- Hội chợ, triển lãm tổ chức là các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài ở Việt
Nam hoặc ở nước khác nhưng có sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam.
Doanh nghiệp khi tham gia hội chợ triển lãm phải quan tâm đến nhà tổ chức
bởi đây là yếu tố ảnh hƣởng không nhỏ tới chi phí và thành công của doanh nghiệp.
3.Lợi ích đạt đƣợc khi các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm
thƣơng mại
Hội chợ, triển lãm thƣơng mại đem lại lợi ích cho ngƣời tiêu dùng, nhà tổ
chức hội chợ triển lãm, lợi ích cho Quốc gia đặc biệt là các doanh nghiệp kinh
doanh tham gia hội chợ triển lãm.
Tham gia hội chợ, triển lãm thương mại các doanh nghiệp có khả năng đạt
các lợi ích sau:
12
-Góp phần thực hiện chiến lược marketing của doanh nghiệp.
Thông qua hội chợ, triển lãm thƣơng mại các doanh nghiệp có thể đạt đƣợc mục
tiêu của mình khi cung cấp cho khách hàng những thông tin về sản phẩm, về doanh
nghiệp và thiết lập quan hệ với khách hàng tiềm năng. Thông qua kết quả thu đƣợc tại
hội chợ, triển lãm thƣơng mại các doanh nghiệp có cơ sở để đánh giá khách hàng mục
tiêu của doanh nghiệp cũng nhƣ có những ứng xử để doanh nghiệp thích ứng với thị
trƣờng.
- Cơ hội để các doanh nghiệp tiếp cận khách hàng mục tiêu của mình:
Tham gia hội chợ, triển lãm thƣơng mại, các doanh nghiệp có cơ hội để tiếp
xúc với khách hàng mục tiêu. Đây là một cơ hội tốt cho doanh nghiệp giảm chi phí.
Nếu không có hội chợ, triển lãm việc thƣơng mại, việc tiếp xúc với khách hàng trở
nên rất tốn kém do khách hàng phân tán theo khu vực địa lý. Thông qua hội chợ,
triển lãm các doanh nghiệp có khả năng quy tụ đƣợc một số lƣợng lớn các khách
hàng và trực tiếp giới thiệu về hàng hóa, bán hàng giải đáp thắc mắc cho khách
hàng, trực tiếp kích thích khách hàng tiêu dùng hàng hóa.
- Trình bày giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp với người tiêu dùng nói
chung và khách hàng mục tiêu nói riêng. Thông qua hội chợ, triển lãmthƣơng mại,
các doanh nghiệp tham gia sẽ có cơ hội trình bày, giới thiệu công dụng về công
dụng, chức năng của sản phẩm tới khách hàng. Thông qua giới thiệu hàng hóa các
nhân viên tiếp thị của doanh nghiệp sẽ giúp cho khách hàng nhận biết cũng nhƣ
phân biệt rõ sản phẩm của doanh nghiệp với các sản phẩm khác.
- Củng cố danh tiếng và hình ảnh của doanh nghiệp. Thông qua hội chợ,
triển lãm thƣơng mại, các nhân viên tiếp thị của doanh nghiệp sẽ giới thiệu với
khách những thông tin về lịch sử phát triển của doanh nghiệp, tiềm năng của doanh
nghiệp, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp qua đó xây dựng hình ảnh đẹp trong
tâm trí của khách tham quan. Nếu đạt đƣợc kết quả này doanh nghiệp có cơ hội để
thu hút hành động mua của khách hàng trong tƣơng lai. Đây là vấn đề mà doanh
nghiệp khó có thể đạt đƣợc thông qua các hình thức xúc tiến khác.
- Qua hoạt động hội chợ, triển lãm doanh nghiệp có cơ hội để thu thập
những thông tin cần thiết về nhu cầu của khách hàng, về đối thủ cạnh tranh.Thông
qua việc trình bày cũng nhƣ tiếp xúc với khách hàng tại hội chợ, triển lãm thƣơng
mại, các nhân viên tiếp thị sẽ nhận đƣợc những ý kiến trực tiếp của khách hàng về
chất lƣợng sản phẩm, giá cả, mẫu mã, dịch vụ. Những thông tin này sẽ đƣợc chuyển
13
về cho doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của khách
hàng hiện tại cũng nhƣ tƣơng lai. Hơn nữa, tại hội chợ, triển lãm có thể có cả các
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh tham gia. Đây chính là cơ hội tốt cho doanh
nghiệp quan sát tiếp xúc và đánh giá đối thủ cạnh tranh từ đó có thể nghiên cứu đƣa
ra các đấu pháp thích hợp trên thƣơng trƣờng. Bởi trong hội chợ, triển lãm thƣơng
mại, doanh nghiệp có thể so sánh tại chỗ sản phẩm của doanh nghiệp mình với sản
phẩm của đối thủ cạnh tranh về giá cả, chất lƣợng sản phẩm, mẫu mã, dịch vụ. và
thái độ của khách hàng với các sản phẩm của mình cũng nhƣ sản phẩm của đổi thủ
cạnh tranh. Qua đó doanh nghiệp có thể đánh giá SWOT về đối thủ cạnh tranh, tìm
cách khắc phục điểm yếu của doanh nghiệp, phát huy điểm mạnh mà doanh nghiệp
đạt đƣợc.
- Cơ hội để doanh nghiệp mở rộng thị trường. Các doanh nghiệp luôn luôn
muốn mở rộng thị trƣờng kinh doanh của mình. Thông qua hội chợ, triển lãm
thƣơng mại các doanh nghiệp có cơ hội thu hút thêm đƣợc những khách hàng và
bạn hàng mói. Đây là một cách thức tìm kiếm thị trƣờng hiệu quả. Thông qua hội
chợ, triển lãm thời gian tiếp cận với thị trƣờng mới đƣợc rút ngắn.
- Hoàn thiện thêm chính sách xúc tiến của doanh nghiệp. Thông qua hội chợ,
triển lãm thƣơng mại các doanh nghiệp sẽ học hỏi đƣợc những doanh nghiệp khác
trong việc ứng dụng các công cụ xúc tiến vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
-Tăng cường hiệu quả của xúc tiến bán hàng. Việc tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng là hoạt động đem lại hiệu quả cao hơn so với việc giao dịch bằng thƣ,
điện thoại điện tín. Nó rút ngắn thời gian cũng nhƣ chi phí giao tiếp. Nhân viên
chào hàng có cơ hội tiếp xúc với lƣợng khách hàng lớn trong khoảng thời gian
ngắn.
- Xúc tiến hợp tác đầu tư. Thông qua hội chợ, triển lãm thƣơng mại, các
doanh nghiệp có sản phẩm để giao lƣu, tìm hiểu lẫn nhau qua đó thu hút đƣợc sự
chú ý của các nhà đầu tƣ. Các doanh nghiệp thông qua hội chợ, triển lãm có điều
kiện tiếp cận với công nghệ mới. Nhiều hoạt động mua bán chuyển giao công nghệ
đã đƣợc thực hiện sau các hội chợ, triển lãm.
-Tăng doanh thu nhờ ký kết được các hợp đồng kinh tế và bán hàng tại hội
chợ. Thông qua hội chợ, triển lãm thƣơng mại, các doanh nghiệp có khả năng tạo
lập các mối quan hệ kinh tế. Nhiều hợp đồng lớn đã đƣợc ký kết ngay trong quá
trình doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm thƣơng mại. Mặt khác tham gia hội
14
chợ, các doanh nghiệp có khả năng bán hàng tại chỗ. Tuy nhiên bán hàng tại chỗ
không phải là mục tiêu chính của việc tham gia hội chợ, triển lãm. Nếu mục tiêu
này trở thành mục tiêu chính, doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm thƣơng mại
có thể sẽ mắc những sai lầm, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong
tƣơng lai, không phát huy hết lợi thế của tham gia hội chợ, triển lãm thƣơng mại.
- Các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm thương mại có cơ hội nhận
được sự tài trợ và ủng hộ của các tổ chức quốc tế. Rất nhiều các doanh nghiệp tham
gia hội chợ, triển lãm thƣơng mại nhận đƣợc sự tài trợ của các tổ chức cũng nhƣ
chính phủ. (Điều này phụ thuộc nhiều vào mục tiêu, chính sách của các tổ chức
cũng nhƣ chính phủ).
15
HỆ THỐNG CÁC CÂU HỎI PHẦN 1
1. Xúc tiến thƣơng mại là gì? Xúc tiến thƣơng mại có vai trò nhƣ thế nào đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp? Doanh nghiệp anh chị
đã thực hiện các hoạt động xúc tiến thƣơng mại nào?
2. Tại sao nói hoạt động tham gia hội chợ, triển lãm là một nội dung quan trọng
của xúc tiến thƣơng mại?
3. Hội chợ, triển lãm thƣơng mại là gì? Hội chợ thƣơng mại khác triển lãm
thƣơng mại ở điểm nào? Tại sao ngƣời ta thƣờng tổ chức chung hội chợ và
triển lãm thƣơng mại?
4. Vai trò của hoạt động tham gia hội chợ, triển lãm đối với hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp thƣơng mại?
5.
Doanh nghiệp anh chị có thể tham gia những loai hội chợ, triển lãm nào? Vì
sao?
16
PHẦN II.
NỘI DUNG THAM GIA HỘI CHỢ, TRIỂN LÃM THƯƠNG MẠI CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP
I. CÁC LOẠI HỘI CHỢ, TRIỂN LÃM THƢỜNG NIÊN MÀ CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM CÓ THỂ THAM GIA
1. Hội chợ triển lãm trong nƣớc
Trong tất cả các cuộc hội chợ - triển lãm ở Việt Nam chúng ta thấy rằng có
những cuộc triển lãm đƣợc tổ chức theo định kỳ nhƣ: Hội chợ thƣơng mại quốc tế
tổ chức vào tháng Tƣ hàng năm, Hội chợ quốc tế hàng công nghiệp đƣợc tổ chức
vào tháng 10 hàng năm. Triển lãm thƣơng mại quốc tế tổ chức hai năm một lần. Hội
chợ xuân mỗi năm một lần. Có những hội chợ, triển lãm chỉ đƣợc tổ chức mang tính
thời vụ. Hàng năm số lƣợng các cuộc triển lãm đƣợc tổ chức ngày càng tăng.
Hội chợ thương mại quốc tế Việt nam
Tổ chức vào tháng 4 hàng năm tại Trung tâm Triển lãm giảng võ. Đây là hội
chợ có ý nghĩa quan trọng trong ngành Thƣơng mại Việt Nam, nó góp phần quan
trọng vào xúc tiens xuất khảu và đầu tƣ. Mỗi hội chợ sẽ có chủ đề mang tính thời sự
đối với nền kinh tế Việt nam. Ví dụ: Năm 2012, hội chợ Thƣơng mại Quốc tế Việt
Nam có chủ đề ―Việt Nam – Hợp tác cùng phát triển‖.
Số lƣợng các đơn vị tham gia Hội chợ thƣơng mại quốc tế ngày càng tăng.
Thông qua Catalog EXPO hàng năm của VINAXAD ta thấy rằng có những công ty
tham gia rất đều đặn. Phần lớn các công ty tham gia từ những năm 1992 đến nay
vẫn tiếp tục tham gia. Không những các công ty này tham gia đều đặn mà họ còn
không ngừng gia tăng về qui mô. Một số công ty lớn là khách hàng thƣờng xuyên
tham gia hội chợ này đó là: Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam, Tổng Công ty Chè,
Công ty sản xuất hàng tiêu dùng Bình Tiên…Ví dụ: Hội chợ Thƣơng mại Quốc tế
Việt nam năm 2012 đã thu hút đƣợc trên 800 đơn vị tham gia đến từ 20 quốc gia,
vùng lãnh thổ. Các mặt hàng tham gia triển lãm chủ yếu là hàng nông sản chế biến,
sản phẩm trang trí nội, ngoại thất; hàng thủ công mỹ nghệ; hàng thời trang; Hàng
vật liệu xây dựng…Trong hội chợ, nhiều hoạt động xúc tiến nhằm tăng cƣờng tính
hợp tác, đầu tƣ của các doanh nghiệp trong nƣớc và nƣớc ngoài đƣợc thực hiện nhƣ:
17
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Chuyên đề Những vấn đề cơ bản về hoạt động tham gia hội chợ triển lãm thương mại của các doanh nghiệp - Nguyễn Thị Xuân Hương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tai_lieu_chuyen_de_nhung_van_de_co_ban_ve_hoat_dong_tham_gia.pdf