Phục dựng nhà cộng đồng truyền thống dân tộc Katu có sự tham gia của cộng đồng tại thôn A Ka, xã Thượng Quảng, huyện Nam Đông

Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kỹ thuật và Công nghệ; pISSN 2588-1175 | eISSN 2615-9732  
Tập 129, Số 2A, 2020, Tr. 6381; DOI: 10.26459/hueuni-jtt.v129i2A.5748  
PHỤC DỰNG NHÀ CỘNG ĐỒNG TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC  
KATU CÓ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG TẠI THÔN A  
KA, XÃ THƯỢNG QUẢNG, HUYỆN NAM ĐÔNG  
1
1
2
3
Trương Hoàng Phương , Nguyễn Ngọc Tùng , Hirohide Kobayashi , Miki Yoshizumi ,  
4
4
Lê Anh Tuấn , Trần Đức Sáng  
1 Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, 77 Nguyễn Huệ, Huế, Việt Nam  
2 Graduate School of Global Environmental Studies, Kyoto University, Japan  
3 College of Gastronomy Management, Ritsumeikan University, Japan  
4 Phân viện Văn hoá Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế, 06 Nguyễn Lương Bằng, Huế, Việt Nam  
Tóm tắt. Dự án phục dựng nhà cộng đồng truyền thống dân tộc Katu hay gọi là Gươl (theo  
tiếng Katu) tại thôn A Ka, xã Thượng Quảng, huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế được  
triển khai trong hơn hai năm (3/2016 - 8/2018) bởi công sức của toàn bộ cộng đồng thôn A Ka,  
với sự tài trợ của Đại học Kyoto, Nhật Bản và trợ giúp về kỹ thuật của các nhà nghiên cứu về  
kiến trúc và dân tộc học. Trong đó, quá trình gia công cấu kiện và dựng nhà được thực hiện  
trong vòng 6 tháng (3/2018 đến 8/2018). Bài viết này tập trung làm rõ kỹ thuật và vai trò của  
cộng đồng trong các bước phục dựng Gươl tại thôn A Ka. Việc phục dựng thành công ngôi  
nhà đã chứng tỏ rằng dù gặp một số khó khăn trong quá trình phục dựng nhưng kỹ thuật xây  
dựng truyền thống vẫn còn được lưu giữ rõ nét trong cộng đồng. Đây là cơ sở để lưu truyền  
tri thức bản địa cho các thế hệ sau bảo quản ngôi nhà như một mô hình tiêu biểu để nhân  
rộng tại các thôn khác trên địa bàn Huyện.  
Từ khoá: nhà cộng đồng truyền thống, cộng đồng, phục dựng, dân tộc Katu  
1
Tổng quan  
Dân tộc Katu ở Việt Nam hiện có khoảng 86,617 người (theo thống kê năm 2017 [1, tr. 9],  
tập trung chủ yếu ở một số huyện miền núi như Nam Giang, Tây Giang, Đông Giang của tỉnh  
Quảng Nam; Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng; Nam Đông và A Lưới của tỉnh Thừa Thiên Huế.  
Làng xưa của dân tộc Katu (còn gọi là Vel hoặc Vil theo tiếng Katu) thường có dạng hình bầu dục,  
hình tròn hoặc hình móng ngựa [2, tr. 119], gồm vài chục ngôi nhà ở bao quanh và hướng về một  
ngôi nhà cộng đồng được gọi là Gươl (theo tiếng Katu). Gươl thường nằm ngay trung tâm làng,  
đóng vai trò là trung tâm hành chính, văn hóa, tín ngưỡng của làng.  
Trong những thập kỷ gần đây, do sự thay đổi về điều kiện sống, Gươl dần bị mất đi hoặc  
bị biến đạng, điều này đã làm bản sắc truyền thống của của dân tộc Katu dần bị phai nhạt. Từ  
thực tế đó, từ năm 2013 đến 2015, nhóm các nhà nghiên cứu ở Huế và Nhật Bản với mong muốn  
giữ gìn loại hình kiến trúc đặc sắc này đã tiến hành các cuộc khảo sát thực địa ở các địa bàn dân  
Nhận bài: 3003–2020; Hoàn thành phản biện: 04042020; Ngày nhận đăng: 20052020  
Trương Hoàng Phương và CS.  
Tập 129, Số 2A, 2020  
tộc Katu tại tỉnh Thừa Thiên Huế (huyện A Lưới, Nam Đông), Quảng Nam (huyện Đông Giang,  
Tây Giang) nhằm tìm địa điểm phù hợp cho việc phục dựng Gươl. Tiêu chí chọn đó là dân làng  
Katu ở đó phải có mong muốn dựng Gươl, nắm được kỹ thuật xây dựng truyền thống cũng như  
có khả năng thu thập được vật liệu phù hợp. Cuối cùng, thôn A Ka, xã Thượng Quảng, huyện  
Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế được chọn để phục dựng Gươl nhờ cơ bản đạt được các tiêu  
chí trên.  
A Ka, một trong 7 thôn của xã Thượng Quảng (4 thôn định canh định cư, 3 thôn kinh tế  
mới), cách thị trấn Khe Tre 12km về phía Tây (Hình 1) với 117 hộ, 410 khẩu và toàn bộ đều là  
người Katu (số liệu được cung cấp bởi anh Hồ Văn Dót, trưởng thôn vào tháng 3/2020). Trước  
đây, thôn A Ka từng có những Gươl đẹp, trong đó ngôi nhà gần nhất được xây dựng vào năm  
2000 dưới sự tài trợ của Tổ chức Bắc Âu trợ giúp Việt Nam (NAV). Tuy nhiên, do tính không bền  
của vật liệu truyền thống cũng như thiếu sự bảo quản chăm sóc thường xuyên nên phần mái lá  
của ngôi nhà bị mục và dột, điều này đã ảnh hưởng đến hệ kết cấu bên trong. Đến năm 2012, ngôi  
nhà gần như bị hư hại hoàn toàn và cuối cùng bị tháo dỡ vào cuối năm 2013. Thông qua quá trình  
thảo luận với ban lãnh đạo thôn, nhóm nghiên cứu nhận thấy người dân thôn vẫn có mong muốn  
cũng như vẫn có khả năng về nhân lực để phục dựng một Gươl truyền thống. Trên cơ sở đó, Dự  
1
án “Phục dựng Nhà cộng đồng truyền thống dân tộc Katu tại thôn A Ka” ra đời .  
Hình 1. Bản đồ vị trí xây dựng Gươl thôn A Ka  
Hình 2. Nhà cộng đồng truyền thống ở thôn A Ka  
Nguồn: Hirohide Kobayashi  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Mục tiêu của Dự án là phục dựng Gươl theo phương pháp truyền thống, và điều kiện tiên  
quyết đó là cộng đồng phải đóng vai trò chủ đạo trong quá trình phục dựng. Qua đó, có thể bảo  
1 Dự án “Phục dựng và bảo tồn nhà cộng đồng truyền thống tại thôn A Ka, xã Thượng Quảng, huyện Nam Đông được  
Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế phê duyệt bằng quyết định số 1279/QĐ-UBND ngày 19/06/2016. Tổng số vốn  
Dự án là 316.860.000 VND, trong đó Đại học Kyoto viện trợ không hoàn lại 125.000.000 VND, vốn đối ứng 191.860.000  
VND được quy đổi từ đóng góp vật liệu và ngày công của cộng đồng thôn A Ka, dưới dự điều phối và hỗ trợ về kỹ  
thuật của Khoa Kiến trúc, Đại học Khoa học, Đại học Huế và Phân viện Văn hoá Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại  
Huế.  
64  
jos.hueuni.edu.vn  
Tập 129, Số 2A, 2020  
tồn kiến trúc độc đáo và tính nguyên bản của Gươl, tăng cường liên kết cộng đồng trong các hoạt  
động chung, đồng thời cũng là cơ hội để có thể các thế hệ trẻ học hỏi được cách thức xây dựng.  
Hơn nữa, quy trình phục dựng nhà sẽ được ghi lại, góp phần vào việc bảo tồn những giá trị văn  
hóa độc đáo của dân tộc Katu. Thời gian thực hiện dự án dự kiến ban đầu là 18 tháng (từ 3/2016  
đến 8/2017), tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau, dự án phải kéo dài đến 8/2018 (Bảng 1)  
Bảng 1. Tiến độ thời gian các công việc của Dự án phục dựng Gươl  
STT  
Thời gian  
Nội dung  
1
3/2016  
Ký kết Biên bản ghi nhớ dự án  
Thảo luận, phân chia nội dung công việc của dân làng: Nhóm 1-  
khai thác vật liệu xây dựng; Nhóm 2-gia công vật liệu; Nhóm 3-kỹ  
thuật xây dựng; Nhóm 4-tổ chức nghi lễ  
2
3
3-8/2016  
Quyết định số 1279/QĐ-UBND của chủ tịch tỉnh Thừa Thiên Huế về  
việc phê duyệt dự án phục dựng Gươl tại thôn A Ka  
13/6/2016  
Lễ chọn đất để xây dựng Gươl  
Lễ tẩy uế  
4
02-14/8/2016  
Lễ xin phép thần rừng (Yang) để khai thác gỗ  
5
6
17/8/2016  
Đi vào rừng để lựa chọn cây dự kiến khai thác  
Tiến hành khai thác gỗ và các vật liệu khác cho một số cấu kiện  
chính của Gươl  
8/2016-3/2017  
7
8
9
4/2017 2/2018 Vận chuyển và tập kết gỗ cho các cấu kiện chính của Gươl tại thôn  
3-5/2018  
5-8/2018  
Gia công vật liệu  
Dựng Gươl  
2
Các bước phục dựng Gươl  
Các bước cũng như kỹ thuật dựng nhà được đều được tuân thủ đúng theo phương pháp  
truyền thống với sự tham gia của người dân thôn (chia thành các nhóm theo từng công việc). Tuỳ  
từng công đoạn mà số lượng người hay thành phần tham gia có khác nhau. Công đoạn khai thác  
gỗ cần những thợ rừng, người có kinh nghiệm trong việc chọn và vận chuyển gỗ; việc khai thác  
lá nón, mây và lồ ô lại giao cho các hộ dân; trong khi công đoạn gia công cấu kiện cần những  
65  
Trương Hoàng Phương và CS.  
Tập 129, Số 2A, 2020  
người thợ mộc có kinh nghiệm; còn công đoạn dựng nhà tuỳ từng bước mà có thể huy động toàn  
bộ trai tráng của thôn hoặc một nhóm nhỏ dưới sự chỉ đạo các già làng thôn. Quá trình phục  
dựng về cơ bản được chia thành các công đoạn sau:  
2.1  
Thu thập vật liệu  
Để xây dựng ngôi nhà, công việc đầu tiên là thu thập vật liệu. Nhóm nghiên cứu và ban  
điều hành thôn đã nhiều lần trao đổi về vấn đề này và nhận thấy rằng thu thập vật liệu theo  
phương thức truyền thống (ở rừng cộng đồng xung quanh thôn, do cộng đồng đảm trách, tuân  
thủ theo các nguyên tắc về chọn, vận chuyển vật liệu) là một công đoạn không thể thiếu trong  
quá trình phục dựng Gươl. Trong đó, khai thác gỗ đủ cho bộ khung nhà là công việc quan trọng  
nhưng khó khăn nhất. Để thời gian tồn tại được lâu dài, ngôi nhà cần một bộ khung vững chắc  
với các loại gỗ tốt (nhóm 1, 2), trong đó quan trọng nhất là gỗ làm cột. Ngôi nhà cần có đủ 13 cột  
gỗ có đường kính từ 20 đến 35 cm (gồm 1 cột giữa, 6 cột chính gian giữa, 6 cột phụ 2 chái). Tuy  
nhiên, tình trạng khai thác rừng quá mức trong thời gian trước đây khiến số lượng gỗ tốt bị suy  
giảm nghiệm trọng, và gỗ ở rừng cộng đồng hiện tại chủ yếu từ nhóm 3 trở xuống. Bên cạnh đó,  
chính sách đóng cửa rừng của Thủ tướng chính phủ Việt Nam vào năm 2016 nhằm bảo vệ tài  
nguyên rừng đã làm cho việc cấp phép khai thác gỗ ở rừng đặc dụng hoặc phòng hộ là không  
thể. Tuy vậy, vì việc phục dựng nhà truyền thống phục vụ cho cộng đồng là một hoạt động ý  
nghĩa, gắn với việc bảo tồn văn hoá, phù hợp với chủ trương, chính sách nên chính quyền Huyện,  
Xã đã tạo điều kiện cho dân làng khai thác ở rừng cộng đồng với số lượng hạn chế dưới sự giám  
sát của chính quyền địa phương.  
Trong năm 2016, thôn cử nhiều nhóm từ 4 đến 8 thợ rừng có kinh nghiệm vào rừng cách  
thôn khoảng một buổi đi bộ (8-10km) để tìm kiếm, đánh dấu cây gỗ đủ chất lượng để khai thác.  
Theo kinh nghiệm của người dân, thời gian phù hợp để khai thác gỗ thường vào cuối tháng âm  
(không có trăng và mối không ăn gỗ) và vào mùa khô để thuận tiện cho việc vận chuyển, cây gỗ  
phải thẳng, không được mối mọt và cụt ngọn. Những con trâu đực trưởng thành, khoẻ mạnh  
được sử dụng để vận chuyển các cây gỗ lớn từ rừng về bìa rừng, sau đó người dân sử dụng xe  
máy, xe ba gác để chuyển các cây gỗ này từ bìa rừng về thôn. Thực tế, việc khai thác gỗ đã bị gián  
đoạn nhiều lần và kéo dài trong gần 2 năm bởi các lý do khác nhau (thời tiết, thôn có nhiều người  
mất trong một thời gian ngắn, thay đổi trưởng thôn…). Đến tháng 3/2018 những cấu kiện chính  
như cột và khung nhà đã được khai thác đầy đủ. Việc khai thác gỗ cho một số cấu kiện còn lại và  
các vật liệu khác như lá lợp mái, lồ ô làm vách, mây làm dây cột và vành hồi được tiếp tục trong  
quá trình gia công và dựng nhà.  
66  
jos.hueuni.edu.vn  
Tập 129, Số 2A, 2020  
2.2  
Gia công cấu kiện  
Gia công cấu kiện là một trong những công đoạn quan trọng trong quá trình xây dựng  
Gươl. Để gia công các cấu kiện, lắp dựng ngôi nhà, ngoài việc sử dụng các công cụ làm nhà truyền  
thống trước đây như rìu, dao, đục, rựa…, các thợ mộc của thôn cũng đã sử dụng thêm một số  
công cụ hiện đại như cưa máy, bào, thước dây… Bên cạnh đó, họ cũng kết hợp việc sử dụng các  
kỹ thuật truyền thống như kỹ thuật gá lắp (vát góc, khoét lõm hay đục lỗ, kết hợp cột các cấu  
kiện bằng dây mây) cùng việc sử dụng một số kỹ thuật liên kết mộng học hỏi được từ người Kinh  
như mộng xuyên và có chốt nêm để khóa để liên kết cột (phương đứng) với băng, xuyên, đà  
(phương ngang). Việc kết hợp sử dụng công cụ và kỹ thuật như vậy giúp rút ngắn thời gian xây  
dựng, tăng độ chính xác, chắc chắn của các cấu kiện nhưng vẫn đảm bảo được việc tái hiện các  
kỹ thuật truyền thống.  
Hình. 3. 15 đơn vị cơ thể được sử dụng trong phục dựng Gươl ở thôn A Ka  
Nguồn: Hirohide Kobayashi  
67  
Trương Hoàng Phương và CS.  
Tập 129, Số 2A, 2020  
Trong quá trình phục dựng, nhóm nghiên cứu đã nhận thấy rằng các thợ mộc ở thôn A Ka  
đã dùng 15 đơn vị cơ thể trong tổng số 18 đơn vị cơ thể mà người Katu sử dụng để đo đạt, thiết  
2
kế và xây dựng Gươl trong các nghiên cứu trước đây tại Quảng Nam, A Lưới và Nam Đông [3]  
[6] (hình 3). Thợ cả Hồ Văn Bằng là người điều hành trực tiếp các hoạt động gia công và lắp dựng  
đồng thời cũng là người dùng tỉ lệ cơ thể của mình để tính toán, đưa ra các kích thước từ tổng  
thể đến kích thước của các cấu kiện của ngôi nhà bằng việc sử dụng thước tạm được làm từ thanh  
lồ ô như là một công cụ đo trung gian, cuối cùng được kiểm tra lại bằng thước dây hiện đại (Hình  
4). Theo anh Bằng, hiện nay dù các công cụ mới từ miền xuôi đã rất phổ biến ở đây, tuy nhiên  
việc sử dụng các công cụ và phương pháp gia công truyền thống sử dụng tỷ lệ cơ thể trong phục  
dựng là vẫn rất cần thiết vì ngôi nhà giống như một cái áo, và cộng đồng là đối tượng “mặc” nó  
nên phải thiết kế sao cho phù hợp và tiện lợi trong quá trình sử dụng; cũng như là cơ hội để thực  
hành và lưu truyền lại các tri thức bản địa về kỹ thuật dựng Gươl.  
Hình 4. Áp dụng các đơn vị cơ thể trong gia công cấu kiện Gươl ở thôn A Ka  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
2 Đây là kết quả nghiên cứu trong suốt nhiều năm (từ 2011 đến nay) được công bố quốc tế của GS.TS. Hirohide Kobayashi,  
Đại học Kyoto, Nhật Bản và cộng sự ở khu vục có người Katu sinh sống ở miền Trung Việt Nam.  
68  
jos.hueuni.edu.vn  
Tập 129, Số 2A, 2020  
Đối với Gươl, cột là bộ phận quan trọng nhất để tạo nên bộ khung vững chắc cho ngôi nhà.  
Sau khi khai thác đủ số lượng cột gỗ (13 cái) có đường kính từ 20 đến 35 cm đã được gia công sơ  
bộ ở trong rừng, nhóm thợ mộc lành nghề tiến hành đẽo gọt gỗ theo kích thước phù hợp. Trong  
đó, cây cột giữa (cột trung tâm) - bộ phận quan trọng nhất của ngôi nhà là cấu kiện cần nhiều thời  
gian nhất để gia công vì có khối tích lớn với các hoạ tiết và chi tiết điêu khắc cầu kỳ. Bên cạnh đó,  
nhiều cấu kiện cần thiết khác như vành hồi, đà sàn, băng, xuyên, kèo… cũng được gia công trước,  
sắp xếp, đánh số theo chủng loại và được lắp ráp thử trước để đảm bảo độ chính xác khi lắp  
dựng. Đây là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và công sức, mất khoảng 3 tuần (120 công) để các  
nhóm thợ mộc (7 người làm chính, 20 người tham gia) có thể hoàn thành việc gia công các cấu  
kiện này.  
Hình 6. Gia công chi tiết mộng cột-băng-xuyên  
Hình 5. Gia công (uốn) vành hồi ở 2 chái  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
2.3  
Trang trí và điêu khắc  
Trang trí và điêu khắc các hoạ tiết ở các cấu kiện ở Gươl được người dân rất chú trọng.  
Công việc này được thực hiện ở công đoạn cuối trong quá trình gia công cấu kiện. So với trang  
trí Gươl ở vùng cao ở Quảng Nam, hoạ tiết trang trí ở Gươl A Ka đơn giản, mộc mạc hơn, nặng  
phần “hoạ” hơn phần “điêu khắc”; chi tiết điêu khắc chỉ thấy xuất hiện ở cây cột giữa, không có  
các chi tiết điêu khắc ở các cấu kiện khác như thường thấy ở các Gươl tại Tây Giang, Đông Giang.  
Điều này có thể được giải thích là do ở Quảng Nam có nhiều hơn những nghệ nhân điêu khắc  
Katu có tay nghề cao. Bút vẽ được làm từ thân cây giang chẻ nhỏ. Các hoạ tiết trang trí tập trung  
ở một số cấu kiện chính như cột giữa, băng, xuyên, đòn đôn (hình 7). Đề tài trang trí có tính phổ  
biến và gần gũi với đời sống của cư dân miền núi, từ những con vật của núi rừng như voi, trâu,  
heo rừng, chó, nai, cá sấu, kỳ đà, chim, đến con vật chỉ có trong truyền thuyết như rồng, hay các  
loài cây có ích và gần gũi trong cuộc sống của tộc người như lúa, đùng đình, tà vạt (làm rượu)  
hoặc các hình vẽ cách điệu thành hình kỹ hà như rau dớn, mã não, răng cưa, hoa pơ lơm, lá a  
69  
Trương Hoàng Phương và CS.  
Tập 129, Số 2A, 2020  
3
tút… (Bảng 2). Đặc biệt, người Katu rất chú trọng đến việc trang trí cây cột giữa . Cây cột giữa ở  
Gươl A Ka được chia làm 2 phần: phần dưới có các các chi tiết như gương hình đầu chim công  
cách điệu múa Tung Tung Ya Ya và các hoạ tiết trang trí như ché rượu, kỳ đà, đầu trâu, rồng…;  
phần trên là các chi tiết như gương hình đầu rồng cách điệu múa tung tung ya ya, và các hoạ tiết  
cách điệu hoa pơ lơm, lá a tút… (hình 8). Theo ông Văn Ngọc Cường - người phụ trách trang trí  
cho ngôi nhà, nguyên liệu truyền thống để trang trí Gươl được lấy trong môi trường tự nhiên  
như đá ở suối (đỏ, trắng), từ than củi (đen), lá cây trường đá (xanh), nhựa cây chuồn. Tuy nhiên,  
hiện nay việc tạo ra các nguyên liệu truyền thống này mất nhiều thời gian nên thôn và nhóm  
nghiên cứu đã thống nhất sử dụng vật liệu mới (sơn dầu) để trang trí vì có một số ưu điểm như  
màu sắc phong phú, lâu phai và cũng đã được sử dụng một phần trong trang trí Gươl trước đây  
ở thôn A ka và một số thôn khác tại Nam Đông và Quảng Nam. Cần 5 người với khoảng 10 công  
để hoàn thành công việc này.  
Hình 8. Trang trí cột giữa  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Hình 7. Trang trí băng – xuyên  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Bảng 2. Các chi tiết trang trí tại các cấu kiện chính ở Gươl thôn A Ka  
STT Tên cấu kiện  
Hoạ tiết trang trí, điêu khắc  
Màu sắc chủ đạo  
Không  
1
2
Cột chái  
Không  
Không  
Cột gian giữa  
Không  
Chim công, rồng, đầu trâu, kỳ đà, chim  
bồ câu  
Đen, nâu, xanh dương, đỏ,  
vàng  
3
Cột trung tâm  
3 Cây cột giữa có ý nghĩa quan trọng trong Gươl của người Katu. Trong tất cả các ngôi nhà cộng đồng truyền thống của  
các dân tộc ở Việt Nam, chỉ duy nhất Gươl Katu có cột giữa. Cột giữa là hiện thân của chủ làng, là sức mạnh của làng  
vì vậy luôn được là cấu kiện to lớn nhất và được trang trí, điêu khắc đẹp nhất.  
70  
jos.hueuni.edu.vn  
Tập 129, Số 2A, 2020  
STT Tên cấu kiện  
Hoạ tiết trang trí, điêu khắc  
Màu sắc chủ đạo  
Ché rượu, mã não, hoạ tiết cách điệu  
(răng cưa, hoa Pơ lơm, lá A tút)  
Đen, trắng, đỏ, nâu, xanh  
dương, vàng  
4
5
6
7
Dầm sàn chính  
Dầm sàn phụ  
Dầm sàn biên  
Sạp  
Không  
Không  
Không  
Không  
Không  
Không  
Không  
Không  
Rùa, kỳ đà, rồng, cá vàng, cá sấu, hoạ  
tiết cách điệu  
Đen, trắng, đỏ vàng, cam,  
xanh dương, lục  
8
9
Băng  
Cảnh sinh hoạt đời thường, các nghi lễ  
(Lễ đâm trâu, cô gái múa Tung Tung Ya  
Ya, đi săn) voi, trâu, vịt, lợn rừng, hổ  
Đen, trắng, vàng, nâu, xanh  
dương, lục  
Xuyên  
Cảnh sinh hoạt đời thường, các nghi lễ  
(Lễ đâm trâu, Cô gái múa Tung Tung  
Ya Ya, đi săn)  
Đen, trắng, vàng, nâu, xanh  
dương  
10 Vành hồi trên  
11 Vành hồi dưới  
12 Kèo  
Không  
Không  
Không  
Không  
Không  
Rồng  
Không  
Không  
13 Đòn tay  
Không  
14 Đòn tay vành hồi  
15 Đòn đôn trên  
16 Đòn đôn dưới  
17 Mái  
Không  
Không  
Xanh dương, trắng, đỏ, vàng  
Không  
Gà trống  
Không  
Không  
Không  
Không  
18 Trang trí đầu hồi  
19 Bậc cầu thang  
20 Dầm cốn thang  
21 Vách  
Đen, nâu, đỏ  
Không  
Không  
Không  
71  
Trương Hoàng Phương và CS.  
Tập 129, Số 2A, 2020  
STT Tên cấu kiện  
22 Giá để đồ  
23 Cửa đi  
Hoạ tiết trang trí, điêu khắc  
Màu sắc chủ đạo  
Không  
Không  
Không  
Không  
2.4  
Dựng nhà  
Sau khi hoàn thành công đoạn gia công bộ khung khung chính, thôn tiến hành công việc  
dựng nhà vào ngày 20/5/2018. Trước khi tiến hành dựng nhà, thôn tiến hành lễ dựng Gươl dưới  
sự chủ trì của hội đồng già làng và sự tham gia của toàn bộ dân làng. Mục đích của lễ này là cầu  
mong thần cai quản thôn (“Yang” theo tiếng Katu) giúp cho việc dựng Gươl được an toàn và  
thuận lợi. Công việc dựng nhà được thực hiện bởi các thanh niên khỏe mạnh của thôn dưới dự  
hướng dẫn của thợ cả Hồ Văn Bằng. Quá trình dựng nhà về cơ bản được chia thành 9 bước [6, tr.  
521] (hình 9) như sau:  
Hình 9. Minh họạ 3D các bước dựng Gươl thôn A Ka  
Vẽ: Trương Hoàng Phương  
72  
jos.hueuni.edu.vn  
Tập 129, Số 2A, 2020  
a. Dựng hệ khung chính (cột – đà sàn – xuyên – băng) (bước 1, 2, 3, 4)  
Sau khi nền đất được san phẳng, 13 khối bê tông hình trụ đường kính, 35cm, cao 50cm  
4
được đặt chính xác ở vị trí các cột . Tiếp đến là việc dựng khung nhà giữa gồm 2 cột chính (cột  
cái) (20-25cm) trước sau và nửa dưới cột giữa (cột cha) đã được liên kết bởi 2 đà sàn ngang lớn  
bằng hình thức mộng xuyên trơn có nêm chốt. Hệ khung này được cố định tương đối vững chắc  
bằng hệ giàn giáo bằng thân cây gỗ nhỏ, tre và dây buộc (Hình 10). Việc tiếp theo là dựng hệ  
khung của 4 cột còn lại của gian giữa. Sau khi dựng xong các cột chính, 2 đà sàn dọc được kẹp  
sát vào phần cột đã được khoét lõm, đồng thời kê lên phần đà ngang thừa ra khỏi cột. Trong khi  
đó, các xuyên được đặt đứng, khít vào phần lỗ mộng hở đã được tạo sẵn ở đầu của cột, trong khi  
các băng được đục lỗ có đường kính bằng với đầu cột và được lắp nằm ngang, khít với cột và  
xuyên, tạo nên một hệ liên kết vững chắc (Hình 11).  
Hình 10. Dựng cột giữa – đà sàn chính – cột biên  
Hình 11. Dựng cột biên – đà sàn chính (dọc – ngang)  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Bước tiếp theo là dựng hệ thống các cột chái và vành hồi (Hình 12). Ở bước này có một kỹ  
thuật đặc biệt đó là các vành hồi phải được uốn cong sẵn do đặc điểm 2 chái Gươl có hình bán  
nguyệt. Để thực hiện được điều này, các vành hồi phải được gia công trước đó khoảng 3 tháng  
bằng cách sử dụng các thanh gỗ dỗi (loại gỗ truyền thống mà người Katu hay dùng để làm vành  
hồi do đặc tính dẻo và bền của nó) được chẻ mỏng (KT: 4x20cm), sau đó được uốn cố định theo  
hình bán nguyệt, đồng thời được hơ lửa ở mặt trong để tạo độ cong cần thiết. Công việc đầu tiên  
trong bước này đó là 3 cột chái (cột con) của mỗi chái được kê lên các khối trụ bê tông, sau đó  
chúng được liên kết bởi 2 vành hồi dưới (ngang với cốt sàn) và trên (ngang đỉnh cột); kỹ thuật  
liên kết này cũng được áp dụng tương tự như với gian giữa. Đầu các vành hồi được liên kết với  
4
Theo phương pháp xây dựng truyền thống, các cột của Gươl thường được chôn sâu dưới đất. Tuy nhiên, theo anh Hồ  
Văn Bằng, hiện nay việc kê cột lên các khối bê tông sẽ làm giúp giảm độ dài các cột giúp thuận lợi hơn cho việc khai  
thác và vận chuyện về thôn. Bên cạnh đó việc kê cột lên các khối bê tông hạn chế mối mọt làm hỏng chân cột cũng  
như tăng khoảng hở từ mặt đất đến sàn để tăng hiệu quả sử dụng không gian này.  
73  
Trương Hoàng Phương và CS.  
Tập 129, Số 2A, 2020  
5
các đà gian giữa bằng mộng và đinh . Việc dựng 2 chái phải thật khéo léo để tạo ra hình bán  
nguyệt cân xứng và làm sao để vành hồi không bị nứt, gãy. Cần 80 công với 80 người tham gia  
để hoàn thành các bước trên.  
b. Dựng khung mái (bước 5)  
Dựng khung mái nhà cũng là một công đoạn quan trong quá trình dựng Gươl. So với Gươl  
ở Quảng Nam, Gươl A Ka có chiều cao và độ dốc nhỏ hơn. Theo ý kiến của các già làng, điều này  
có thể được lý giải bởi 2 nguyên nhân chính: thứ nhất, vùng Nam Đông thường nằm ở vị trí thấp,  
gần đồng bằng, nên mái phải làm thấp để giảm tác động các cơn bão lớn; thứ 2, các làng ở Nam  
Đông có quy mô nhỏ, nguồn lực và nguồn vật liệu hạn chế nên không đủ khả năng để làm mái  
lớn. Để tiến hành dựng mái, đầu tiên thôn phải làm các nghi lễ cúng nối cột giữa và đặt đòn đôn;  
đây là một trong những nghi lễ quan trọng trong quá trình dựng Gươl. Sau khi kết thúc phần lễ,  
là công việc dựng khung mái. Đầu tiên, phần cột giữa phía trên (có tiết diện vuông và tròn) được  
liên kết với phần cột dưới (có tiết diện tròn) đã được dựng trước đó; sau đó, đòn đôn được gác  
lên cột trung tâm ở vị trí trung điểm. Hai kèo ở 2 chái được gắn với với đòn đôn thông qua 2 lỗ ở  
2 đầu đòn đôn; hệ thống cột giữa, đòn đôn và 2 kèo chái được định vị tạm thời bởi các cây tre lớn  
và dây buộc. Tiếp theo, 8 cây kèo ở phần gian giữa và 4 cây còn lại ở 2 chái lần lượt được gác lần  
lượt từ xuyên, vành hồi lên đến đòn đôn. Các cây kèo này lại được liên kết bởi 12 đòn tay ở gian  
6
giữa và 10 đòn tay cong bằng thân cây mây hèo ở 2 chái để tạo nên một bộ khung mái vững chắc,  
có thể chịu được lực tác động của các cơn gió lớn trong mùa mưa bão cũng như đảm bảo độ dốc  
phù hợp (48) để không bị thấm dột sau khi lợp mái lá (hình 13). Cần khoảng 20 công để hoàn  
thành phần khung mái.  
Hình 12. Dựng cột chái và vành hồi  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Hình 13. Dựng khung mái (đòn đôn – kèo)  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
5 Theo anh Hồ Văn Bằng, việc dùng đinh trong dựng Gươl đã được áp dụng phổ biến trong những thập kỷ gần đây, giúp  
cho việc liên kết các cấu kiện được chắc chắn hơn.  
6 Do hình dạng cong của 2 chái nên không thể dùng các đòn tay gỗ mà thay vào đó là dùng thân cây mây hèo có đường  
kính lớn và có thể uốn cong và có độ bền hơn gỗ rất nhiều. Tuy nhiên, để dễ dàng uốn cong khi lắp vào kèo thì chúng  
được hơ lửa trước về một phía để tạo độ cong cơ bản (cách làm tương tự với vành hồi)  
74  
jos.hueuni.edu.vn  
Tập 129, Số 2A, 2020  
c. Lợp mái (bước 6)  
Hình 14. Đan tấm lá lợp mái  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Hình 15. Lợp mái lá cho 2 chái  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Để lợp mái, các tấm mái lá phải được làm trước. Các nan tre được đan với nhau để tạo nên  
bộ khung; sau đó, lá nón sau khi đã được người dân thu thập đầy đủ và được cắt gọn được gắn  
vào khung tre với mật độ làm sao để đảm sau khi lợp mái không bị thấm dột khi có mưa lớn  
(hình 14). Sau khi các tấm lợp được làm xong (kích thước (KT): 180x250cm), thôn tiến hành lợp  
mái nhà. Công việc này cũng cần được tính toán cẩn thận để làm sao không bị hở hoặc vênh. Việc  
lợp các tấm mái được tiến hành từ trên xuống dưới đúng theo cách lợp mái truyền thống và phổ  
biến của người Katu ở cả vùng Quảng Nam và Thừa Thiên Huế. Theo giải thích của người dân,  
cách lợp từ trên xuống này giúp cho việc di chuyển các tấm lá có kích thước và khối lượng lớn  
được dễ dàng hơn. Tấm lợp đầu tiên được cột chặt vào đòn đôn trên và vào các đòn tay bằng dây  
cước và mây. Để đưa được các tấm lợp lên đúng vị trí, đầu tiên 2 thanh gỗ dài được kê lên cùng  
góc với mái, đầu tấm lợp được cột với 2 sợi dây thừng, sau đó 3 người đứng dưới đặt tấm lợp lên  
2 thanh gỗ này, 2 người phía trên phối hợp kéo tấm lợp dọc lên cho đến vị trí cần thiết. Đối với  
hàng thứ 2 trở đi thì tấm lá được lợp trước đó phải được nâng hở lên để tấm lá hàng sau có thể  
luồn vào phía dưới và giao với tấm trên một khoảng thích hợp (hình 15). Cách lợp lá đối với 2  
chái cũng tương tự, tuy nhiên có sự khác nhau về diện tích của các tấm lá lợp ở 2 chái, các tấm  
trên có diện tích nhỏ hơn tấm dưới; các tấm lá này được cuốn cong theo hình bán nguyệt của chái  
và được cột chặt với vành hồi và các đòn tay bằng thân cây mây (Hình 16). Toàn bộ công đoạn  
lợp mái cần khoảng 220 công (trong đó khai thác lá nón: 160 công với 80 người tham gia, đan tấm  
lá: 30 công với 20 người tham gia và lợp tấm lá: 30 công với 30 người tham gia).  
75  
Trương Hoàng Phương và CS.  
d. Ráp đà sàn và sạp (bước 7)  
Tập 129, Số 2A, 2020  
Hình 16. Liên kết tấm mái với đòn tay vành hồi  
Hình 17. Đan sạp lồ ô  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Ở công đoạn này, 21 đà sàn dọc bằng gỗ (KT: 8x12cm) được ráp song song với khoảng cách  
giữa các đà khoảng 20cm và kê lên 5 đà sàn chính ở dưới. Trong đó, một số đà ở 2 chái được cắt  
ngắn để làm 2 khuôn bếp (KT: 70x70cm). Để tăng độ vững chắc, các đà này được liên kết với vành  
hồi, đà chính và khuôn bếp bằng đinh. Sạp được tiến hành làm khi ráp xong đà dọc. Việc lắp các  
thanh đà này đã được tính toán làm sao để sau khi ráp sạp xong phải tạo ra độ phẳng và ngang.  
7
Sạp được làm từ các thanh lồ ô được nối với nhau bằng cước và được cột chặt vào đà. Khoảng  
cách giữa các thanh lồ ô trung bình khoảng 5cm (Hình 17). Cần khoảng 40 công với 20 người  
tham gia để hoàn thành công đoạn này (gồm cả công đi khai thác lồ ô).  
e. Ráp cầu thang (bước 8)  
Cầu thang là nơi để người dân lên xuống nhà nên cần loại gỗ tốt và dày bản. Trước tiên, 3  
dầm cốn thang (KT: 5x26cm) được gác chéo một góc hợp lý với mục đích là để đỡ các bậc thang.  
Một đầu dầm cốn thang được gắn vào các lỗ mộng của các cột gian giữa, kẹp vào phần nhô ra  
của đà sàn. Việc liên kết này đảm bảo độ chắc chắn cần thiết. Sau đó, 4 bậc thang dưới (KT:  
5x25cm) được đưa vào các khe ở dầm cốn thang đã được đục sẵn với các khoảng cách đều nhau.  
Riêng bậc trên cùng được gác lên phần đà sàn thừa ra khỏi cột và khoảng cách với bậc dưới lớn  
hơn với mục đích như bậc ngồi khi cần thiết. 5 người hoàn thành công việc này trong 1 ngày.  
f. Đan phên và ráp vách (bước 9)  
Khác với loại dùng để đan sạp, loại dùng để làm vách là cây Bọp Bọp (một loại lồ ô nhỏ)  
7 Các thanh lồ ô để làm sạp được chẻ nhỏ từ cây lồ ô có độ rộng khoảng 3cm. Mặt ngoài của thanh lồ ô sẽ được quay lên  
phía trên. Theo người dân, sạp lồ ô có khoảng ở có độ bền không cao so với sạp làm từ các thanh gỗ nhưng lại rất mát  
và sạch do bề mặt láng.  
76  
jos.hueuni.edu.vn  
Tập 129, Số 2A, 2020  
do đặc tính mỏng, mềm và dẻo. Cần tổng cộng 100 công (80 công khai thác, 20 công làm tại chỗ).  
Để làm phên, trước tiên các cây Bọp Bọp được chẻ và làm dập thành từng miếng phẳng. Sau đó  
các miếng này được đan theo kiểu nong đôi và mặt trong - ngoài được lật xen kẽ để tạo ra hiệu  
quả về mặt thẩm mỹ khi đan (hình 18). Các tấm phên có các kích thước khác nhau được gắn vào  
các vành hồi trên dưới và các cột. Tổng cộng có 17 tấm phên lớn nhỏ được lắp bao gồm 8 tấm ở 2  
chái, 2 tấm ở gian giữa mặt trước, 2 tấm cửa, 4 tấm cho giá để đồ phía sau gian giữa (hình 19).  
Hình 18. Đan phên vách giá để đồ  
Hình 19. Lắp phên cho vách và giá để đồ  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Ảnh chụp bởi các thành viên dự án  
Bảng 3. Các thông số cơ bản (số lượng, kích thước, vật liệu) các cấu kiện của Gươl thôn A Ka  
Số  
STT Tên cấu kiện  
Kích thước (cm)  
Vật liệu  
lượng  
06 cái  
06 cái  
1
2
Cột chái  
22-25 (chân cột), 18-22 (đầu cột)x330 De  
Cột gian giữa  
22-25 (chân cột), 18-22 (đầu cột)x330 Da chôn, muỗi, tè, kiền  
35 (chân cột), 29 (đầu cột); 18 (cạnh đầu  
cột vuông)x590  
3
Cột trung tâm  
01 cái  
Mít nài  
4
5
6
7
8
Đà sàn chính  
Đà sàn phụ  
Dầm sàn biên  
Sạp  
05 cái  
20 cái  
02 cái  
80 cây  
03 cái  
19x15x540 (gian giữa), 350 (chái)  
10x10x230 (gian giữa), 80-260 (chái)  
6x20x510  
Trường  
Đào, chò, chua trường  
Chò trường  
Lồ ô  
Băng ngang  
10,5x29x460  
Chò, mẹc  
77  
Trương Hoàng Phương và CS.  
Tập 129, Số 2A, 2020  
9
Băng dọc  
Xuyên  
04 cái  
02 cái  
02 cái  
02 cái  
14 cái  
12 cái  
10,5x25x235  
6x20x460  
Chò, mẹc  
10  
11  
12  
13  
14  
15  
16  
17  
18  
19  
20  
21  
Chò  
Vành hồi trên  
Vành hồi dưới  
Kèo  
1,8x16  
Dỗi, gội  
Dỗi, gội  
Kiền  
1,8x16  
10-12x 460  
5x10x520  
Đòn tay  
Chò  
Đòn tay vành hồi 6 cái  
3-4  
Mây hèo  
Kiền  
Đòn đôn trên  
Đòn đôn dưới  
Mái lá  
01 cái  
01 cái  
24 tấm  
12x490  
6x22 (hình thang cân)x520  
180 x 250 (1 tấm)  
60x60 (hình con gà trống)  
5x25x530  
Chò  
Lá nón  
Chò  
Trang trí đầu hồi 2 cái  
Bậc cầu thang  
05 cái  
03 cái  
Mẹc  
Dầm cốn thang  
5x26x180  
Mẹc  
3x84 (trên)  
17 tấm  
(800 cây)  
22  
Vách (phên)  
Bọp Bọp (lồ ô loại nhỏ)  
3x81 (dưới)  
23  
24  
Giá để đồ  
48x48  
Bọp Bọp (lồ ô loại nhỏ)  
Bọp Bọp (lồ ô loại nhỏ)  
Phên  
100x180  
Cửa đi  
Nẹp  
viền  
25  
8x8  
Chò  
78  
jos.hueuni.edu.vn  
Tập 129, Số 2A, 2020  
Hình 20. Các chi tiết liên kết các cấu kiện chính ở Gươl thôn A Ka  
Nguồn: Trương Hoàng Phương  
3
Ý nghĩa thực tiễn và bài học kinh nghiệm  
Trong suốt một thời gian dài, người Katu ở Nam Đông không xây dựng lại được Gươl  
truyền thống nào thì việc phục dựng thành công Gươl ở thôn A Ka đánh dấu sự nỗ lực to lớn của  
cộng đồng thôn cùng các tổ chức hỗ trợ, và có ý nghĩa lớn lao đối với đồng bào Katu ở Nam Đông.  
Điều này thể hiện được các điểm sau:  
Việc phục dựng thành công Gươl đã chứng tỏ rằng tri thức bản địa trong việc xây dựng  
Gươl vẫn còn lưu lại rõ nét trong một bộ phận người dân, từ kinh nghiệm kiếm vật liệu, cho đến  
việc gia công các cấu kiện, trang trí, điêu khắc các chi tiết, rồi dựng nhà. Các công việc này đã  
được thực hiện một cách thuần thục và khéo léo. Bên cạnh đó, việc kết hợp sử dụng các công cụ,  
vật liệu và phương pháp xây dựng mới, được học hỏi từ người Kinh bên cạnh các phương pháp,  
công cụ truyền thống đã giúp rút ngắn thời gian xây dựng cũng như tăng tính chính xác và thẩm  
79  
Trương Hoàng Phương và CS.  
Tập 129, Số 2A, 2020  
mỹ cho công trình. Điều này hoàn toàn phù hợp trong bối cảnh hiện tại, là cơ hội để người dân  
thực hành kiến thức xây dựng đã được học từ các thế hệ cha ông. Hình dáng và không gian bên  
trong của ngôi nhà sau khi hoàn thành tuy không đồ sộ và sắc sảo như Gươl ở vùng Quảng Nam  
nhưng về cơ bản vẫn giữ được “hồn cốt” của Gươl truyền thống vùng Nam Đông. Ngoài ra, quá  
trình dựng Gươl là cơ hội rất tốt để thế hệ trẻ trong thôn có cơ hội học hỏi kỹ thuật dựng Gươl  
thông qua quá trình quan sát hoặc tham gia ở một số công việc. Thông qua việc dựng nhà, tính  
liên kết cộng đồng - yếu tố sống còn trong cộng đồng dân tộc thiểu số đang dần bị mai một cũng  
đã phần nào được khôi phục. Việc phục dựng Gươl nhất thiết phải gắn với cộng đồng, người dân  
thôn phải là nhân tố chủ đạo trong quá trình xây dựng. Tuy nhiên, việc phục dựng sẽ khó thành  
hiện thực nếu thiếu một nhân tố đóng vao trò như chất xúc tác đó là các tổ chức tài trợ và các nhà  
nghiên cứu. Nhờ các nỗ lực lớn lao cũng như những hỗ trợ kịp thời về chuyên môn và kinh phí  
đã góp phần cho thành công của Dự án.  
Gươl sau khi được phục dựng sẽ nơi để lưu giữ, trưng bày các các vật dụng truyền thống,  
là nơi để tổ chức các hoạt động lễ hội, các nghi lễ truyền thống của tộc người, là nơi để trao truyền  
cho các thế hệ trẻ những tri thức bản địa; những hoạt động như vậy sẽ giúp gắn kết cộng đồng.  
Ngoài ra, ngôi nhà sẽ một trong những điểm tham quan hấp dẫn trong chuỗi các hoạt động du  
lịch cộng đồng ở địa phương. Cộng đồng thôn A Ka cần tiếp tục nỗ lực để sử dụng và bảo quản  
một cách hiệu quả ngôi nhà này như là tài sản quý của thôn. Đây là bài học kinh nghiệm quý báu  
và là hình mẫu để có thể nhận rộng ra các thôn khác ở Nam Đông, giúp bảo tồn loại hình kiến  
trúc truyền thống đặc sắc của người Katu, góp phần bảo tồn văn hoá truyền thống dân tộc Katu  
cũng như của dân tộc thiểu số trong bối cảnh hiện nay.  
Tài liệu tham khảo  
1. Bh’Riu Liếc (2018). P’rá Cơtu Tiếng Cơtu. NXB Hội Nhà Văn.  
2. Đại học Nông Lâm Huế (2008). Xây dựng nhà cộng đồng truyền thống có sự tham gia của người dân ở  
vùng núi miền Trung Việt Nam” (2008). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia  
community houses in Central Vietnam, Vernacular heritage and earthen architecture: contributions for  
sustainable development. Proceedings of International Conference on Vernacular Architecture  
CIAV2013 | 7ºATP | VerSus - 16-20 of October 2013 Vila Nova Cerveira, Portugal, pp. 359-364.  
4. Truong, H.P., Kobayashi, H. (2016). Conserving traditional community houses of the Katu ethnic  
minority in Nam Dong district, Central Vietnam. Journal of Architectural Institute of Japan. Vol. 81 No.  
720, 333-343  
5. Truong Hoang Phuong (2015). Conserving Traditional Community House of the Katu Ethnic Minority  
- A Case Study in Nam Dong District, Thua Thien Hue Province, Central Vietnam. Doctoral  
Dissertation, Kyoto University, Japan.  
6. Nguyen Ngoc Tung, Hirohide Kobayashi, Truong Hoang Phuong, Miki Yoshizumi, Le Anh Tuan, Tran  
Duc Sang (2019), Reconstruction process of traditional community house of Katu ethnic minority - Case  
study of Aka hamlet in Nam Dong district, Thua Thien Hue province, Vietnam, Vernacular and earthen  
80  
jos.hueuni.edu.vn  
Tập 129, Số 2A, 2020  
architecture towards local development, Proceedings of 2019 ICOMOS CIAV-ISCEAH International  
conference, ISBN 978-7-5608-8656-5, Pp. 518-524, China.  
COMMUNITY-BASED RECONSTRUCTION OF KATU  
TRADITIONAL COMMUNITY HOUSE IN A KA HAMLET,  
THUONG QUANG COMMUNE, NAM DONG DISTRICT  
1*  
1
2
3
Truong Hoang Phuong , Nguyen Ngoc Tung , Hirohide Kobayashi , Miki Yoshizumi  
1 University of Sciences, Hue University, 77 Nguyen Hue, Hue, Vietnam  
2 Graduate School of Global Environmental Studies, Kyoto University, Japan  
3 College of Gastronomy Management, Ritsumeikan University, Japan  
4 National institute of Cultural and Art Studies, Sub-institute in Hue, Vietnam, 06 Nguyen Luong Bang,  
Hue, Vietnam  
Abstract. The reconstruction project of traditional community house of Katu ethnic group  
(Guol in Katu language) in A Ka hamlet, Thuong Quang commune, Nam Dong district, Thua  
Thien Hue province was implemented in two years (March 2016 August 2018) by the efforts  
of the entire hamlet community, with funding from Kyoto University, Japan and technical  
support from ethnographic experts. In particular, the process of processing and building the  
house has been implemented within 6 months (March 2018 August 2018). This paper focuses  
on clarifying the techniques and the role of community in the reconstruction steps of Guol in  
A Ka hamlet. The successful restoration of the house has shown that despite some difficulties  
in the restoration process, traditional construction techniques are still clearly preserved in the  
community. This is the basis for passing down indigenous knowledge to the next generations  
to preserve the house as a typical model for replication in other hamlets in the district.  
Keywords: traditional community house, community, reconstruction, Katu ethnic group  
81  
pdf 19 trang yennguyen 21/04/2022 960
Bạn đang xem tài liệu "Phục dựng nhà cộng đồng truyền thống dân tộc Katu có sự tham gia của cộng đồng tại thôn A Ka, xã Thượng Quảng, huyện Nam Đông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfphuc_dung_nha_cong_dong_truyen_thong_dan_toc_katu_co_su_tham.pdf