Phối hợp hai vạt tự do trong tạo hình khuyết hổng phức tạp vùng đầu cổ
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
PHỐI HỢP HAI VẠT TỰ DO TRONG
TẠO HÌNH KHUYẾT HỔNG PHỨC TẠP VÙNG ĐẦU CỔ
1
1
1
1
NGUYỄN ANH TUẤN , NGUYỄN ANH KHÔI , NGUYỄN QUỐC CẨN , PHẠM PHƯƠNG BẢO
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Các khuyết hổng phức tạp vùng đầu cổ đòi hỏi phải tạo hình bằng hai vạt tự do. Tuy
nhiên để đạt được kết quả chức năng và thẩm mỹ chấp nhận được hiện vẫn là thách thức của phẫu thuật
viên đầu cổ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 12/2019 đến tháng 09/2020, chúng tôi thực hiện
05 trường hợp tạo hình bằng phối hợp hai vạt tự do tại khoa Ngoại Đầu cổ Hàm mặt bệnh viện Ung Bướu
thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi ghi nhận các yếu tố liên quan đến phẫu thuật, biến chứng và phục hồi
sau tạo hình.
Kết quả: Nghiên cứu có 05 trường hợp tạo hình phối hợp vạt xương mác tự do với vạt đùi trước ngoài
(04 trường hợp) và vạt cẳng tay quay (01 trường hợp). Thời gian phẫu thuật trung bình là 630 phút (600 -
660 phút). Thời gian nằm viện trung bình là 21 ngày (14-32 ngày). Biến chứng sớm hay gặp trong nghiên
cứu là nhiễm trùng với 01 trường hợp dò vết mổ ra da. Sự phục hồi chức năng của xương hàm dưới
(75%) và thẩm mĩ khuôn mặt (75%) của các trường hợp tạo hình bằng hai vạt tự do đạt kết quả khá tốt
sau thời gian 1 tháng và 6 tháng.
Kết luận: Phối hợp hai vạt tự do là một lựa chọn quan trọng trong tạo hình khuyết hổng phức tạp
vùng đầu cổ. Ở bệnh nhân được lựa chọn phù hợp, phối hợp hai vạt tự do có nhiều lợi ích, cung cấp
lượng mô thích hợp tối ưu cho việc tạo hình khuyết hổng.
chức năng. Xuất phát từ thực tế đó, việc phối hợp
hai vạt tự do được đề xuất đã giải quyết tốt thách
thức này, đem lại một kết quả chức năng và thẩm mĩ
thuận lợi sau phẫu thuật[2][15]. Ao và cộng sự là tác
giả đầu tiên báo cáo nghiên cứu phối hợp vạt xương
mác tự do và vạt đùi trước ngoài trong tạo hình
khuyết hổng vùng hốc miệng năm 1998[1]. Sau đó
Wei và cộng sự báo cáo một nghiên cứu với số
lượng bệnh nhân khá lớn sử dụng phối hợp hai vạt
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các khuyết hổng phức tạp đường hô hấp tiêu
hóa trên thường gặp sau phẫu thuật cắt rộng bướu
ác tính và thường liên quan đến xương, niêm mạc
hốc miệng, da, mô mềm. Tạo hình loại khuyết hổng
này đòi hỏi phải sử dụng kỹ thuật vi phẫu. Tuy nhiên
để đạt được kết quả chức năng và thẩm mỹ chấp
nhận được hiện vẫn là thách thức của phẫu thuật
viên đầu cổ.
tự do trong tạo hình khuyết hổng vùng đầu cổ[12]
.
Vạt tự do có thể che phủ đầy đủ cho hầu hết
các kích cỡ khuyết hổng khu trú tại một vùng chức
năng nhất định như mặt, hốc miệng, khẩu hầu…
Trong trường hợp cắt rộng từ hai vùng chức năng
trở lên hay các khuyết hổng phức tạp về thể tích,
chiều không gian hoặc liên quan đến nhiều loại mô
(xương, niêm mạc, da, mô mềm) thì có thể vượt quá
khả năng che phủ của một vạt tự do. Những khuyết
hổng này đặt ra cho phẫu thuật viên không chỉ cố
gắng che phủ về mặt giải phẫu mà còn phục hồi
Đặc biệt, cắt rộng bướu ác tính giai đoạn tiến
triển vùng hốc miệng thường gây ra khuyết hổng
xương hàm dưới phức tạp liên quan đến xương,
niêm mạc hốc miệng, da, mô mềm. Theo y văn, vạt
xương mác tự do là lựa chọn tiêu chuẩn tạo hình
khuyết hổng xương hàm dưới với nhiều ưu điểm,
ngoài ra còn có đảo da có thể che phủ phần mềm.
Tuy nhiên, kích thước đảo da là tương đối hạn chế.
Do đó, đối với các khuyết hổng xương hàm dưới
Ngày nhận bài: 12/10/2020
Ngày phản biện: 03/11/2020
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Anh Tuấn
Email: nguyenanhtuan56@gmail.com
1 Khoa Ngoại đầu cổ, hàm mặt - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
85
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
phức tạp thì một vạt xương mác tự do không thể che
phủ đầy đủ phần mềm, mà cần phối hợp thêm vạt tự
do thứ hai[8].
mạch giáp trên. Chúng tôi sẽ thiết kế và tiến hành
lấy vạt tự do tiếp theo. Tùy thuộc kích thước khuyết
hổng, mất thể tích mô mềm, che phủ niêm mạc hay
da mà chúng tôi lựa chọn vạt cẳng tay quay (khuyết
hổng kích thước trung bình) hay vạt đùi trước ngoài.
Nếu lấy vạt đùi trước ngoài, chúng tôi sẽ lấy cùng
chân lấy vạt xương mác. Vạt tự do thứ hai sẽ được
nối với động mạch mặt (hoặc động mạch giáp trên),
tĩnh mạch hầu ngoài hoặc tĩnh mạch mặt chung bên
đối diện.
Một số phẫu thuật viên lựa chọn tránh sử dụng
vạt tự do thứ hai bằng một vạt tại vùng hoặc vật liệu
thay thế khác. Cho nên chúng tôi thực hiện nghiên
cứu này để đánh giá tính khả thi cũng như an toàn
của việc sử dụng hai vạt tự do trong tạo hình khuyết
hổng phức tạp vùng đầu cổ. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi sử dụng vạt xương mác tự do để tạo hình
khuyết hổng xương hàm dưới. Tùy theo kích thước,
tính chất khuyết hổng phần mềm (mô mềm, niêm
mạc, hay da) kèm theo mà chúng tôi lựa chọn vạt tự
do thứ hai là vạt cẳng tay quay hay vạt đùi trước
ngoài.
Trong phẫu thuật, chúng tôi ghi nhận thời gian
phẫu thuật. Sau phẫu thuật, chúng tôi theo dõi biến
chứng và tỉ lệ thành công của vạt. Chúng tôi đánh
giá chức năng và kết quả thẩm mỹ sau khi tạo hình
tại các thời điểm 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi đánh giá kết quả phục hồi chức năng
bệnh nhân sau phẫu thuật dựa vào 3 đặc điểm: chế
độ ăn, phát âm và độ rộng khi há miệng. Phân loại
kết quả thẩm mỹ đạt được sau tạo hình thành 3
mức: tốt, trung bình, xấu dựa vào độ cân xứng của
khuôn mặt sau tạo hình (tương ứng với cân xứng,
mất cân xứng ít, mất cân xứng trung bình).
Các bệnh nhân bị khuyết hổng xương hàm dưới
phức tạp sau phẫu thuật bệnh nguyên phát đang
điều trị tại khoa Ngoại đầu cổ, hàm mặt bệnh viện
Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh ở giai đoạn
tiến triển tại chỗ tại vùng, tuổi dưới 70 tuổi, và đồng
ý tạo hình bằng phối hợp hai vạt tự do (vạt xương
mác phối hợp vạt đùi trước ngoài hoặc cẳng tay
quay).
Đặc điểm
0
1
2
Chế độ
ăn
Không ăn được
(ăn qua sonde)
Chế độ ăn hạn
chế, thức ăn mềm
Bình
thường
Thay đổi nghiêm Thay đổi vừa phải,
Bình
thường
Phương pháp nghiên cứu
Phát âm
trọng, người
người nghe phải
cố gắng để hiểu
nghe không hiểu
Báo cáo loạt ca.
Độ rộng
khi há
miệng
Nhỏ hơn 1 ngón
tay
Từ 1 đến 2 ngón
tay
Lớn hơn 2
ngón tay
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định bằng
kết quả mô học sau khi sinh thiết bướu, được đánh
giá tình trạng di căn hạch và di căn xa (nếu là bệnh
ác tính). Khảo sát tiền căn phẫu thuật, xạ trị, và chấn
thương vị trí cho vạt (cẳng chân, cẳng tay không
thuận) - nhận vạt (đầu cổ). Chúng tôi đánh giá mạch
máu nơi cho vạt - nhận vạt bằng lâm sàng và
cận lâm sàng. Tất cả các trường hợp chúng tôi đều
sử dụng máy doppler cầm tay để xác định nhánh
xuyên nuôi đảo da trong quá trình thiết kế vạt.Chúng
tôi có hai kíp phẫu thuật: cắt rộng bướu nguyên phát
và lấy vạt. Bệnh nhân được lấy vạt xương mác ở
chân không thuận cùng lúc với phẫu thuật điều trị
bệnh nguyên phát. Sau khi phẫu thuật bướu nguyên
phát, chúng tôi đánh giá khuyết hổng phần mềm
để lựa chọn lấy vạt tự do tiếp theo. Trong lúc đó
tạo hình xương mác cho phù hợp khuyết hổng
xương hàm dưới và tiến hành nối vi phẫu động - tĩnh
mạc mác với động - tĩnh mạch mặt hoặc động - tĩnh
Bảng 1. Bảng đánh giá phục hồi chức năng bệnh
nhân sau phẫu thuật
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chúng tôi thực hiện tạo hình khuyết hổng
xương hàm dưới phức tạp bằng hai vạt tự do cho 05
bệnh nhân từ tháng 12 năm 2019 đến tháng 09 năm
2020. Tất cả các khuyết hổng xương hàm dưới đều
tạo hình bằng vạt xương mác tự do có đảo da. Đối
với khuyết hổng phần mềm chúng tôi tạo hình bằng
04 vạt đùi trước ngoài và 01 vạt cẳng tay quay. Các
trường hợp ác tính đều được hóa trị hỗ trợ hoặc xạ
trị bổ túc sau phẫu thuật điều trị bướu nguyên phát.
BN Giới Tuổi
Chẩn đoán
Vạt tạo hình
1
2
Nữ
Nữ
16
18
Sarcôm xương hàm dưới
Sarcôm xương hàm dưới
Vạt xương mác + Vạt cẳng tay quay
Vạt xương mác + Vạt đùi trước ngoài
86
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
3
4
5
Nam
Nữ
58
45
48
Ung thư nướu răng hàm dưới T4N2M0
Vạt xương mác + Vạt đùi trước ngoài
Hoại tử xưng hàm dưới/ Ung thư amiđan phải T2N0M0 đã xạ trị
Ung thư nướu răng hàm dưới T4N2M0 đã hóa trị
Vạt xương mác + Vạt đùi trước ngoài
Vạt xương mác + Vạt đùi trước ngoài
Nam
Bảng 2. Đặc điểm bệnh nhân trong nghiên cứu
Thời gian phẫu thuật trung bình là 630 phút
Trong quá trình theo dõi, hai trong số bệnh
nhân nghiên cứu tái phát, vị trí tái phát tại chỗ (01
trường hợp) và tại vùng (1 trường hợp), chưa di căn
xa. Tại thời điểm viết nghiên cứu này, một trường
hợp ung thư nướu răng hàm dưới đã hóa trị xuất
viện sau phẫu thuật 14 ngày và đang chờ xạ trị bổ
túc sau mổ.
(600 - 660 phút). Tất cả các trường hợp tạo hình
bằng vạt tự do đều thông nối tốt, không có trường
hợp nào phải phẫu thuật lại vì tắc mạch nối. Sau
phẫu thuật, thời gian rút ống khai khí đạo trung bình
là 8 ngày (6 - 12 ngày). Ở vị trí lấy vạt, chân không
thuận của bệnh nhân có thể đi lại sau 3 tuần phẫu
thuật. Sau 1 tháng, đa số bệnh nhân (4 trường hợp)
vận động gần như bình thường, 1 bệnh nhân hạn
chế nhẹ biên độ khi vận động gắng sức. Thời gian
nằm viện trung bình là 21 ngày (14 - 32 ngày). Biến
chứng sớm hay gặp trong nghiên cứu là nhiễm trùng
với 01 trường hợp dò vết mổ ra da. Trường hợp này,
chúng tôi điều trị thành công bằng chăm sóc tại chỗ
và kháng sinh toàn thân.
BÀN LUẬN
Các khuyết hổng phức tạp vùng đầu cổ sau
phẫu thuật cắt rộng bướu ác tính thường đòi hỏi kĩ
thuật vi phẫu tạo hình. Việc tạo hình những khiếm
khuyết vùng đầu cổ này không chỉ là thách thức về
mặt phẫu thuật mà còn đặt ra những yêu cầu về
phục hồi chức năng và thẩm mỹ. Trong ba mươi
năm qua, tỉ lệ thành công của vi phẫu tạo hình tăng
lên đáng kể, cũng như nhiều loại vạt với thành phần
khác nhau sử dụng trong tạo hình vùng đầu cổ.
Tuy nhiên, trong các trường hợp khuyết hổng rộng,
phức tạp liên quan đến nhiều cấu trúc giải phẫu,
nhiều loại mô cắt bỏ và chức năng phần mô cắt bỏ
đảm nhận; nên có thể không có một vạt tự do đầy đủ
xương và mô mềm thích hợp để phục hồi cấu trúc
giải phẫu ba chiều và chức năng phức tạp.
Bệnh nhân tái khám được đánh giá bằng lâm
sàng và hình ảnh học (panorex hoặc CT Scan).
Sau phẫu thuật 1 tháng, tất cả bệnh nhân đều phục
hồi tốt chức năng nuốt, nói và há miệng. Về chế độ
ăn để đánh giá chức năng nhai có 2 trường hợp đạt
mức điểm 2.
Chế độ ăn
Số trường hợp
Tỷ lệ %
0
1
2
0
3
1
0
75
25
Một số tác giả cho rằng sử dụng vạt tự do thứ
hai sẽ linh hoạt và dễ dàng hơn trong việc phục hồi
cấu trúc giải phẫu. Mặc dù thời gian phẫu thuật kéo
dài hơn, tỉ lệ biến chứng nơi cho vạt có thể tăng
nhưng mức độ phục hồi chức năng tăng lên. Ngoài
ra, thời gian lành thương rút ngắn do vạt tạo hình vi
phẫu được cấp máu tốt. Bệnh nhân sẽ nhanh chóng
tiếp nhận điều trị bổ túc sau phẫu thuật. Từ đó mang
lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân, cũng như giảm gánh
Bảng 3. Kết quả phục hồi chức năng bệnh nhân sau
tạo hình 1 tháng
Sau phẫu thuật 06 tháng, tất cả các trường hợp
chức năng nhai, phát âm, độ rộng khi há miệng đều
đạt mức điểm 2. Trên phim panorex, chúng tôi ghi
nhận lành xương hoàn toàn.
nặng về chi phí chăm sóc sức khỏe[2][3][9][11][12][13][14]
.
Đa số các trường hợp (3/4 trường hợp) trong
nghiên cứu đều đạt kết quả thẩm mỹ tốt sau phẫu
thuật 06 tháng.
Kết quả thẩm mỹ
Số trường hợp
Tỷ lệ %
Tốt
Trung bình
Xấu
3
1
0
75
25
0
Bảng 4. Đánh giá kết quả thẩm mỹ sau phẫu thuật
87
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
Hình 1. Hình ảnh trên lâm sàng và trên CT tái tạo 3D
Hình 2. Bệnh nhân được tái tạo bằng vạt xương mác và vạt đùi trước ngoài
Tạo hình đồng thời bằng hai vạt tự do đòi hỏi
Chúng tôi cũng đã thực hiện tạo hình các
khuyết hổng phức tạp vùng đầu cổ bằng một vạt vi
phẫu phối hợp với một vạt tại vùng. Tuy nhiên,
chúng tôi chưa có số liệu so sánh trực tiếp giữa hai
nhóm phối hợp hai vạt tự do với một vạt tự do và
một vạt tại vùng. Tham khảo y văn, chúng tôi nhận
thấy các đặc điểm sau. Một số vạt tại vùng thường
được phối hợp với vạt tự do trong tạo hình vùng đầu
cổ là vạt ngực lớn, vạt delta ngực, vạt cơ thang.
Nhược điểm của các vạt tạo hình là cấp máu thường
không tối ưu. Nếu cơ ngắn, đảo da lớn sẽ có một số
vùng của vạt da cấp máu ngẫu nhiên, đặc biệt giảm
tưới máu ở những vùng xa của vạt[9]. Theo quan
điểm của Chen và cộng sự, vạt da cơ ngực lớn là
lựa chọn phổ biến tạo hình vùng đầu cổ tuy nhiên
yêu cầu phức tạp về mặt kỹ thuật. Bởi vì chúng ta
cần nhiều thời gian hơn để lấy vạt cũng như thực
hiện nối vi phẫu. Thách thức không chỉ đơn thuần về
mặt kĩ thuật, mà còn thách thức về phía bệnh nhân,
lựa chọn và lên kế hoạch cẩn thận. Trong nghiên
cứu của Guilemaud và cộng sự cho thấy rằng nhờ
vào việc lựa chọn bệnh nhân và lên kế hoạch phù
hợp; thời gian phẫu thuật, tỉ lệ biến chứng, thời gian
nằm viện, tỉ lệ thành công giữa nhóm bệnh nhân sử
dụng hai vạt tự do và nhóm một vạt tự do phối hợp
vạt tại vùng trong tạo hình khuyết hổng lớn vùng đầu
cổ là không khác biệt[5].
88
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
nên tránh sử dụng để tạo hình niêm mạc sàn miệng
vì nhiều nguy cơ như dò, lộ xương, dày, ít linh hoạt,
gây cản trở chức năng sàn miệng. Tác giả cũng báo
cáo rằng tỉ lệ thất bại của tạo hình hai vạt tự do
(2,8%) thấp hơn một vạt tự do phối hợp một vạt tại
vùng ((9%). Các nghiên cứu cho thấy kết quả của
phối hợp hai vạt tự do tốt hơn so với một vạt tự do
phối hợp với vạt tại vùng. Các tác giả suy đoán rằng
cuống lớn của vạt tại vùng có thể gây chèn ép giảm
tưới máu của vạt tự do, gia tăng tỉ lệ huyết khối tĩnh
mạch cảnh trong (từ 14 - 33%) làm cho tỉ lệ thất bại
cao hơn[4]. Đồng thời xu hướng teo cơ và tác dụng
của trọng lực theo thời gian đối với vạt tại vùng ảnh
hưởng nhiều đến kết quả tạo hình[6].
Số
bệnh
nhân
Thời gian
phẫu thuật
(phút)
Thời gian
nằm viện
(ngày)
Nghiên cứu
Balasubramanian
Chen
Không ghi
nhận
21
840
660
Không ghi
nhận
474
Lee
10
22
12
602
990
660
14
20,7
11 - 82
28
Guillemaud
Mo
Posch
Không ghi
nhận
12
Mặc dù không có một hướng dẫn thực hành
lâm sàng thống nhất, đa số các tác giả đều chỉ định
tạo hình khuyết hổng vùng đầu cổ bằng hai vạt tự do
trong một số trường hợp sau: (1) khuyết hổng phức
tạp liên quan đến xương, niêm mạc hốc miệng, da
và mô mềm mà không thể tạo hình bằng một vạt
phức hợp duy nhất, (2) khuyết hổng niêm mạc hốc
miệng lớn không thể che phủ bằng một vạt da lớn
hoặc vạt da cơ, (3) khó tạo hình vì khuyết hổng lớn
liên quan đến cấu trúc giải phẫu ba
chiều[3][4][11][12][13][14]. Tất cả năm trường hợp lựa chọn
trong nghiên cứu của chúng tôi đều có khuyết hổng
lớn liên quan đến nhiều cấu trúc giải phẫu và nhiều
loại mô (xương, niêm mạc, da, phần mềm). Phối
hợp hai vạt tự do chắc chắn đặt ra nhiều vấn đề khó
khăn về kĩ thuật, tăng khả năng biến chứng và thời
gian phẫu thuật. Chúng tôi cũng như nhiều tác giả
khác đều không có ý định thúc đẩy phối hợp hai vạt
tự do trở thành qui trình thường quy, mà chỉ muốn
nhấn mạnh đây có thể là một lựa chọn điều trị, nhất
là các khối bướu trước đây thường được xem là
không thể phẫu thuật được (T4b)[3]. Tác giả Wei và
cộng sự khuyến cáo không nên sử dụng hai vạt tạo
tự do tạo hình cho các ung thư tái phát hoặc ung thư
thứ hai[12]. Tuy nhiên trong nghiên cứu của Mo và
cộng sự, có ba trường hợp tái phát được tạo hình
bằng phối hợp hai vạt tự do. Tác giả cũng lưu ý rằng
cần cân nhắc sử dụng phối hợp hai vạt tự do tùy vào
mỗi trường hợp cụ thể, có thể lựa chọn phối hợp
thêm với vạt tại vùng hay vật liệu thay thế, và quan
trọng hơn cả là thời gian sống còn tiên lượng không
được quá ngắn (dưới 6 tháng)[8].
Wei
36
5
730
630
45
21
Chúng tôi
Bảng 5. Bảng thời gian phẫu thuật và thời gian
nằm viện trung bình của bệnh nhân
Tác giả Chen và cộng sự khi nghiên cứu tổng
hợp các nghiên cứu tạo hình khuyết hổng đầu cổ
phức tạp bằng hai vạt phối hợp đã nhận thấy rằng
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về thời gian
phẫu thuật trung bình giữa hai nhóm tạo hình bằng
hai vạt tự do so với một vạt tự do phối hợp một vạt
tại vùng[5]. Guillemaud cũng đưa ra kết luận tương tự
khi không có sự khác biệt về thời gian phẫu thuật,
thời gian nằm viện và tỉ lệ thành công giữa nhóm
phối hợp hai vạt tự do so với một vạt tự do phối hợp
một vạt tại vùng[6].
Tất cả các trường hợp tạo hình, chúng tôi đều
thực hiện nối vi phẫu thành công, không có trường
hợp tắc mạch nào cần phải thực hiện khâu nối lại.
Biến chứng sau mổ ghi nhận là biến chứng nhẹ, chỉ
một trường hợp nhiễm trùng dò từ hốc miệng ra da.
Chúng tôi chỉ can thiệp điều trị bằng kháng sinh và
chăm sóc tại chỗ. Tác giả Chen và cộng sự tổng hợp
38 nghiên cứu từ y văn, trong 474 bệnh nhân tạo
hình khuyết hổng phức tạp vùng đầu cổ bằng phối
hợp hai vạt tự do, tỉ lệ biến chứng nhẹ là 6,96%
(33/474). Các biến chứng nhẹ hay gặp là nhiễm
trùng (14/474) và hở vết mổ (13/474). Tỉ lệ biến
chứng nặng là 20% (90/474). Hầu hết các biến
chứng nặng đều liên quan đến thám sát lại mạch
máu nối vi phẫu (33/474). Khi so sánh biến chứng
giữa hai nhóm phối hợp hai vạt tự do với vạt tự do
phối hợp vạt tại vùng, tác giả ghi nhận tỉ lệ biến
chứng nhẹ hoặc nặng đều thấp hơn ở nhóm phối
hợp hai vạt tự do. Tuy nhiên tác giả cũng thừa nhận
rằng tổng kết này có thể không đại diện chính xác
kết quả của hai nhóm vì nhiều lí do như thiếu hụt số
liệu của nhóm vạt tự do phối hợp vạt tại vùng hoặc
sự thiên vị của các tác giả trong các nghiên cứu hồi
Thời gian phẫu thuật trung bình trong nghiên
cứu của chúng tôi là 630 phút, thấp hơn so với một
số nghiên cứu khác. Thời gian nằm viện trung bình
trong nghiên cứu của chúng tôi là 21 ngày (14 - 32
ngày), tương đương với các tác giả khác.
89
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
cứu, ca lâm sàng và mô tả loạt ca[4]. Posch cũng ghi
nhận tai biến hay gặp thường nhẹ liên quan đến
neck: A case series and literature review,
Microsurgery 2012,1 - 8
nhiễm trùng tại chỗ (2/12) và tụ máu (1/12)[10]
.
4. Chen CL, Zenga J, Roland LT, Pipkorn P,
Complications of double free flap and free flap
combined with locoregional flap in head and
neck reconstruction: A systematic review, Head
& Neck 2017;1 - 15
Chúng tôi ghi nhận sự phục hồi chức năng của
xương hàm dưới (75%) và thẩm mĩ khuôn mặt
(75%) của các trường hợp tạo hình bằng hai vạt tự
do đạt kết quả khá tốt sau thời gian 1 tháng và 6
tháng. Nghiên cứu của các tác giả Chen, Hasano,
Posch nhận định rằng phối hợp vạt xương mác và
vạt đùi trước ngoài tự do trong tạo hình vùng đầu cổ
là an toàn, đem lại kết quả phục hồi chức năng
tốt[7][10][13]. Tác giả Guillemaud cũng ghi nhận sự
phục hồi chức năng nói khá tốt sau tạo hình với tỉ lệ
66,2% (từ đơn) và 88,2% (thành câu). Tác giả đánh
giá phục hồi chức năng nuốt bằng thử nghiệm nuốt
barrit phân thành ba mức độ lỏng, sệt và đặc. Kết
quả đánh giá là tốt nếu không thấy hình ảnh barrit
trong thanh quản bệnh nhân khi nuốt. Sau 18,2
tháng theo dõi, có 31 bệnh nhân (88,6%) được xác
định nuốt tốt với thử nghiệm nuốt barrit ở cả ba mức
độ. Trong nghiên cứu, tác giả không so sánh trực
tiếp sự phục hồi chức năng giữa hai nhóm phối hợp
hai vạt tự do so với một vạt tự do. Nhưng tác giả
nhận định rằng, nghiên cứu thu nhận được kết quả
phục hồi chứng năng tốt ở nhóm bệnh nhân khuyết
hổng phức tạp cần tạo hình bằng hai vạt tự do[6].
5. Guillemaud JP, Seikaly H, Cote DWJ, Barber
BR, Rieger JM, Wolfaardt J, Nesbitt P, Harris JR,
Double Free-Flap Reconstruction: Indications,
Challenges,
and
Prospective
Functional
Outcomes, Arch Otolaryngol Head Neck Surg
2009;135(4): 406 - 410
6. Hanasono MM, Weinstock YE, Yu P,
Reconstruction of extensive head and neck
defects with multiple simultaneous free flaps,
Plast Reconstr Surg 2008;122:1739 - 1746
7. Lee JT, Hsu H, Wang CH, Cheng LF, Sun TJ,
Huang CC, Chien SH, Reconstruction of
Extensive Composite Oromandibular Defects
with Simultaneous Free Anterolateral Thigh
Fasciocutaneous and Fibular Osteocutaneous
Flaps, Journal of Reconstructive Microsurgery
2010; 26(3):145 - 151
8. Mo KWL, Vlantis A, Wong EWY, Chiu TW,
Double free flaps for reconstruction of complex/
composite defects in head and neck surgery,
Hong Kong Med J 2014; 20: 279 - 84
KẾT LUẬN
Phối hợp hai vạt tự do là một lựa chọn quan
trọng trong tạo hình khuyết hổng phức tạp vùng
đầu cổ. Bằng cách sử dụng hai kíp phẫu thuật, lựa
chọn bệnh nhân và lên kế hoặch cẩn thận thì thời
gian và biến chứng phẫu thuật không tăng lên. Ở
bệnh nhân được lựa chọn phù hợp, phối hợp hai vạt
tự do có nhiều lợi ích, cung cấp lượng mô thích hợp
tối ưu cho việc tạo hình khuyết hổng.
9. Narayan N, Manakchand KK, Combining free
tissue
transfer
with
pedicled
flap
in
reconstruction of extensive oromandibular
malignancy defects: a clinical study, Int Surg J.
2020;7(2):376 - 381
10. Posch NAS, Mureau MAM, Dumans AG, Hofer
SOP, Functional and Aesthetic Outcome and
Survival after Double Free Flap Reconstruction
in Advanced Head and Neck Cancer Patients,
Plastic and Reconstructive Surgery 2007,
124 - 129
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ao M, Asagoe K, Maetat M, Nakagawa F, Saitot
R, Nagase Y, Combined anterior thigh flaps and
vascularised fibular graft for reconstruction of
massive composite oromandibular defects,
British Journal of Plastic Surgery 1998;51:
350 - 355
11. Serletti JM, Coniglio JU, Tavin E, Bakamjian VY,
Simultaneous transfer of free fibula and forearm
flaps for complex oromandibular, Journal of
Reconstructiive Microsurgery 1998; 14(5):
297 - 303
2. Atmodiwirjo P, Anggrahita T, Combined free flap
reconstruction following head and neck cancer
resection: Chemeric and double free flap
reconstruction, Jurnal Plastik Rekonstruksi 2018;
5(1):188 - 94
12. Wei FC, Demirkan F, Cheng HC,Cheng IH,
Double Free Flaps in Reconstruction of
Extensive composite mandibular defects in Head
and Neck cancer, Plastic and Reconstructive
Surgery 1999, 39 - 47
3. Balasubramanian D, Thankappan K, Kuriakose
MA, Duraisamy S, Sharan R, Mathew J, Sharma
M, Iyer S, Reconstructive indication of
simulataneous double free flaps in the head and
90
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
13. Wei FC, Celik N, Chen HC, Cheng MH, Huang
WC, Combined Anterolateral Thigh Flap and
Vascularized Fibula Osteoseptocutaneous Flap
in Reconstruction of Extensive Composite
Mandibular Defects, Plastic and Reconstructive
Surgery 2002, 45 - 52
15. Yazar S, Wei FC, Chen HC, Cheng MH, Huang
WC, Lin CH, Tsao CK, Selection of Recipient
Vessels in Double Free Flap Reconstruction of
Composite
Head
and
Neck Defects, Plastic and Reconstructive
Surgery 2005,1553 - 1561.
14. Wei FC, Yazar S, Lin CH, Cheng MH, Tsao CK,
Chiang YC, Double Free Flaps in Head and
Neck Reconstruction, Clin Plastic Surg 2005,32:
303 - 308
91
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
ABSTRACT
Double free flaps for reconstruction of complex defects in head and neck surgery
Background: Extensive composite defects in the head and neck area may require the use of double free
flap reconstruction. These reconstructions are not only surgically challenging but also challenging to patients.
This study to demonstrate the feasibility of double free flap surgery in head and neck reconstruction.
Methods: From December of 2019 to September of 2020, double free flap reconstructions were used in 05
patients with extensive composite head and neck defects following malignant tumor (n=4) and
osteoradionecrosis (n=1) resection. Patients' demographic data were collected, and the outcomes measured
included flap survival and complications. Postoperative functional and aesthetic outcome were also analyzed.
Results: There were total 5 patients in our study. All reconstructions were performed using an
osteocutaneous fibula flap in combination with an anterolateral thigh flap (n = 4) or a radial forearm flap (n = 1).
The total flap survival rate was 100 percent. Mean operative time was 630 minutes (600 - 660 minutes). There
were no major complications. The majority of patients had satisfactory cosmetic and functional results of both
donor site and recipient site after 6 months of mean follow-up.
Conclusions: The use of double flaps is an option worth considering for complex head and neck defects in
carefully selected patients.
Keywords: Free flaps; Head and neck; Outcomes; Reconstruction.
92
Bạn đang xem tài liệu "Phối hợp hai vạt tự do trong tạo hình khuyết hổng phức tạp vùng đầu cổ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- phoi_hop_hai_vat_tu_do_trong_tao_hinh_khuyet_hong_phuc_tap_v.pdf