Sử dụng dịch vụ y tế của người nghèo ở Hà Nội
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 27 (2011) 256-264
Sử dụng dịch vụ y tế của người nghèo ở Hà Nội
PGS.TS. Mai Thị Thanh Xuân*
Khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 10 tháng 8 năm 2011
Tóm tắt. Bài viết bàn về cơ hội của người nghèo Hà Nội trong tiếp cận dịch vụ y tế và thực tế việc
khai thác các cơ hội đó như thế nào. Phân tích số liệu về sử dụng thẻ bảo hiểm y tế của người
nghèo trong những năm gần đây, bài viết rút ra nghịch lý: khi bị đau ốm, quyết định của người
nghèo về việc có chữa trị hay không, đến bệnh viện nào, lựa chọn hình thức khám chữa bệnh nào
là xuất phát từ yếu tố kinh tế chứ không phải từ yếu tố sức khỏe; đồng thời kiến nghị một số giải
pháp trực tiếp và gián tiếp nhằm tạo cơ hội nhiều hơn cho người nghèo trong tiếp cận dịch vụ y tế,
chăm sóc sức khỏe bản thân.
Từ khóa: Dịch vụ, y tế, người nghèo, Hà Nội.
1. Cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế của người
nghèo ở Hà Nội*
nhu cầu KCB nói riêng và chăm sóc sức khỏe
nói chung tốt hơn so với cả nước.
Thứ hai, mật độ mạng lưới y tế tại Hà Nội
cao hơn các địa phương khác, nhưng tỷ lệ người
nghèo lại thấp hơn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Hà Nội khá cao đã làm giảm đáng kể tỷ lệ
hộ nghèo trên địa bàn. Trong nhiều năm qua,
mức thu nhập bình quân đầu người của Hà Nội
luôn cao hơn mức trung bình chung cả nước,
trong đó năm 2006 cao hơn 1,57 lần, năm 2009
cao hơn 1,65 lần, và năm 2010 cao hơn khoảng
1,6 lần. Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo toàn Thành phố
cũng giảm từ 3% năm 2006 xuống còn 2,4%
năm 2008 (cả nước giảm tương ứng là 15,47%
xuống 13,4%). Từ năm 2009, Hà Nội áp dụng
chuẩn nghèo riêng (270.000 đồng/người/tháng
đối với khu vực nông thôn và 350.000
đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị -
cao hơn 2 lần so với chuẩn quốc gia là 200.000
đồng và 260.000 đồng)(1) nên tỷ lệ hộ nghèo
Là trung tâm kinh tế, văn hóa và khoa học -
kỹ thuật của cả nước, Hà Nội có nhiều cơ hội
hơn so với các địa phương khác trong tiếp cận
dịch vụ y tế.
Thứ nhất, tại Hà Nội, số lượng và mật độ
các cơ sở khám chữa bệnh (KCB) cao hơn các
địa phương khác. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, đến năm 2009, Hà Nội có 651 cơ sở
KCB (chiếm 4,84% tổng số cơ sở của cả nước)
với 10.066 giường bệnh (chiếm 4,32%), trong
đó có 41 bệnh viện (chiếm 4,09%). Bình quân
trên 1 km2 tại Hà Nội có 0,195 cơ sở KCB (cả
nước có 0,04 cơ sở) và trung bình 9.941 người
dân có 1 cơ sở KCB (cả nước 24.613,5 người)
[1]. Mật độ cơ sở y tế cao hơn đồng nghĩa với
việc người dân Hà Nội có điều kiện đáp ứng
______
Theo Quyết định số 1592 của Ủy ban Nhân dân Thành
phố Hà Nội, năm 2009.
______
* ĐT: 84-915868907
E-mail: xuanmtt@vnu.edu.vn
(1)
256
257
M.T.T. Xuân / Tạp ꢀꢁꢂ Kꢁoa ꢁọꢀ ĐHQGHN, Kinꢁ tế và Kinꢁ doanꢁ 27 (2011) 256-264
theo chuẩn mới là 6,09% và năm 2010 chỉ còn
5,4% (ước tính). Như vậy, trong khi mạng lưới
y tế của Hà Nội được mở rộng thì số người
nghèo lại có xu hướng giảm mạnh, do đó có thể
thấy cơ hội đối với người nghèo trong việc thụ
hưởng các dịch vụ về chăm sóc sức khỏe tại
đây là rất lớn.
về việc cấp thẻ BHYT cho người nghèo và Luật
BHYT có hiệu lực từ ngày 01/7/2009, người
nghèo Hà Nội được tạo cơ hội nhiều hơn trong
việc thụ hưởng các dịch vụ KCB. Theo số liệu
của Phòng thu BHYT - BHXH Thành phố Hà
Nội, năm 2009 số người được phát thẻ BHYT
tăng 2% (đạt 355.463 thẻ), đặc biệt năm 2010
tăng 31,9% so với năm trước (ước đạt 468.868
thẻ - xem Biểu đồ 1). Mệnh giá bình quân 1 thẻ
năm 2007 tăng 30.000 đồng so với 2005 (từ
50.000 đồng lên 80.000 đồng), năm 2009 và
2010 tăng 114.000 đồng so với 2008 (từ 80.000
đồng lên 194.000 đồng). Tổng kinh phí cũng
tăng tương ứng từ 5.626,2 triệu đồng năm 2005
lên 8.634,88 triệu đồng năm 2007; 68.959,822
triệu đồng năm 2008 và 90.960,392 triệu đồng
năm 2010. Trong 6 năm, tổng kinh phí chi cho
BHYT của người nghèo tăng 16,17 lần, mệnh
giá thẻ tăng 3,88 lần [2].
Chính những thuận lợi trên cùng sự quan
tâm của chính quyền các cấp đã tạo điều kiện
cho Hà Nội trở thành một trong những địa
phương được đánh giá là thực hiện khá tốt
chính sách bảo hiểm y tế (BHYT) cho người
nghèo trong thời gian qua. Số người nghèo
được cấp phát thẻ BHYT miễn phí trên địa bàn
ngày càng tăng: năm 2005, cả Thành phố mới
cấp được 112.524 thẻ cho người thuộc diện
nghèo, nhưng đến năm 2008 đã cấp 348.493 thẻ
(tăng 3,1 lần). Đến năm 2009, cùng với Quyết
định số 44/2009/QĐ-UBND ngày 15/01/2009
Comment [M1]: Đặt Biểu đồ 1 tại đâ
fgj
dfet
500000
450000
400000
350000
300000
250000
200000
150000
100000
50000
0
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Biểu đồ 1. Số thẻ BHYT cấp phát cho người nghèo 2005-2010.
Nguồn: Báo cáo kết quả khám chữa bệnh người nghèo tại Thành phố
Tính chung toàn Thành phố, đến nay đã có
nào sự cố gắng của hệ thống cán bộ y tế nói chung
60% số người nghèo, người tàn tật có hoàn cảnh
khó khăn được phát thẻ BHYT miễn phí, 40% số
còn lại được các quận, huyện cân đối ngân sách
và vận động các nguồn kinh phí khác để mua thẻ.
Mặc dù tỷ lệ người nghèo được phát thẻ BHYT
chưa cao, song con số đó cũng đã phản ánh phần
và đội ngũ cán bộ BHYT nói riêng.
2. Những nghịch lý trong sử dụng dịch vụ y
tế của người nghèo ở Hà Nội
Một là, nhu cầu KCB của người nghèo lớn
hơn các đối tượng khác nhưng khả năng tiếp
258
M.T.T. Xuân / Tạp ꢀꢁꢂ Kꢁoa ꢁọꢀ ĐHQGHN, Kinꢁ tế và Kinꢁ doanꢁ 27 (2011) 256-264
cận các dịch vụ y tế lại thấp hơn. Do kinh tế
khó khăn, nhiều người nghèo đã chọn cách tự
gánh lấy bệnh tật mà không dám đến bệnh viện.
Đây là nguyên nhân của tình trạng số lượng
người nghèo được phát thẻ BHYT miễn phí
ngày càng tăng nhưng số người sử dụng thẻ để
chăm sóc sức khỏe cho bản thân lại rất ít. Theo
báo cáo của Phòng Giám định chi - BHYT Hà
Nội, tỷ lệ người nghèo sử dụng thẻ BHYT trong
KCB đạt mức rất thấp, từ 10-26%, thậm chí có
năm chỉ đạt 7,7% (năm 2008) (xem Bảng 1).
Comment [M2]: Đặt Bảng 1 tại đây
Bảng 1. Tỷ lệ người nghèo sử dụng thẻ BHYT qua các năm
Nội dung
Tổng số thẻ cấp phát (thẻ) Tổng số người KCB (người) Tỷ lệ sử dụng thẻ (%)
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
112.524
115.630
107.936
348.493
355.463
468.868
12.376
12.380
12.335
26.860
110.549
94.711
11,0
10,7
11,4
7,7
31,1
20,2
2010 (sơ bộ)
Nguồn: Phòng Giám định chi - BHYT Hà Nội.
Cần phải hiểu rằng, tình trạng trên không
phải do người nghèo khỏe mạnh và không có
nhu cầu KCB, mà là do những rào cản trong
việc tiếp cận các dịch vụ y tế, như: kinh tế thiếu
thốn, điều kiện đi lại khó khăn, sự phiền hà
trong thủ tục KCB…, trong đó nguyên nhân
kinh tế là chủ yếu(2). Ngoài ra, một số quy định
pháp luật hiện hành trong lĩnh vực này chưa
hợp lý đối với hoàn cảnh người nghèo và cận
nghèo. Chẳng hạn, người nghèo có thẻ BHYT
nhưng mỗi khi đi KCB họ vẫn phải đóng thêm
nhiều chi phí khác. Theo quy định của Luật
BHYT, người nghèo vẫn phải cùng chi trả từ 5-
20% chi phí KCB; đồng thời lại khống chế mức
thanh toán tối đa cho một lần điều trị (không vượt
quá 40 tháng lương tối thiểu, tương đương khoảng
tối đa 28 triệu đồng/đợt điều trị) đã gây khó khăn
không nhỏ, thậm chí quá tải về khả năng kinh tế
gia đình và dẫn đến tâm lý nản lòng mỗi khi cần
đến bệnh viện. Ví dụ, một bệnh nhân phải chạy
thận nhân tạo tại Bệnh viện Bạch Mai trung bình
mỗi năm tiêu phí 80-90 triệu đồng, thì tính ra số
tiền phải chi trả dù chỉ 5% cũng lên tới 28-30 triệu
đồng, vượt mấy chục lần thu nhập của họ. Đó là
chưa kể nhiều bệnh viện còn tìm đủ mọi cách để
tận thu nên đã làm tăng gánh nặng tài chính cho
người nghèo khi sử dụng dịch vụ y tế. Thêm vào
đó, việc quy định về phạm vi sử dụng thẻ cho
những người được cấp thẻ BHYT miễn phí chỉ
giới hạn trong địa phương nên khi họ có nhu cầu
chuyển tới các cơ sở KCB ngoại tỉnh (gần nhà
hơn), hay lên tuyến trên thì không được hưởng ưu
đãi cũng làm giảm khả năng tiếp cận dịch vụ y tế
của người nghèo. Điều đó giải thích cho tình trạng
ngay tại các quận nội thành, nhiều người nghèo
khi ốm đau cũng chỉ đến được với y tế phường,
mà không đến được với các trung tâm y tế chuyên
sâu. Đó là thiệt thòi lớn của người nghèo.
Hai là, điều trị nội trú mang lại hiệu quả
cao hơn cho người bệnh, nhưng phần lớn người
nghèo khi ốm đau đòi hỏi phải chữa trị lại lựa
chọn hình thức điều trị ngoại trú. Số liệu thống
kê của Phòng Giám định chi - BHYT Hà Nội
cho thấy, trong tổng số bệnh nhân nghèo đến
khám chữa tại các bệnh viện thì chỉ có chưa đến
20% chấp nhận điều trị nội trú, thậm chí có năm
chỉ dưới 10% (xem Bảng 2).
Comment [M3]: Đặt Bảng 2 tại đây
______
(2) Theo một số nghiên cứu của Cục Quản lý và KCB (Bộ
Y tế), có đến 40% số người nghèo bị ốm không đến các cơ
sở KCB, trong đó do nguyên nhân kinh tế khó khăn chiếm
53%. Nếu phải KCB nội trú, 42% người nghèo chủ yếu sử
dụng dịch vụ nội trú tại bệnh viện huyện (tỷ lệ này của
người giàu là 16,9%) [3].
259
M.T.T. Xuân / Tạp ꢀꢁꢂ Kꢁoa ꢁọꢀ ĐHQGHN, Kinꢁ tế và Kinꢁ doanꢁ 27 (2011) 256-264
Bảng 2: Cơ cấu bệnh nhân nghèo KCB phân theo hình thức nội - ngoại trú
Nội dung
Trong đó
Tổng số bệnh
nhân (người)
Ngoại trú
%
Nội trú
%
Năm
2005
12.376
12.920
12.335
26.860
110.549
94.711
11.251
10.067
9.852
19.542
99.530
84.396
90,91
77,92
79,87
72,76
90,03
89,11
1.125
2.313
2.483
7.318
11.019
10.315
9,09
22,08
20,13
27,24
9,97
2006
2007
2008
2009
2010 (sơ bộ)
10,89
Nguồn: Phòng Giám định chi - BHYT Hà Nội
Biểu đồ 2 sẽ cung cấp cho chúng ta một cái
nhìn rõ hơn về biến động của số bệnh nhân đến
KCB tại các bệnh viện trong quan hệ so sánh giữa
hình thức điều trị nội trú và ngoại trú.
120000
100000
80000
60000
40000
20000
0
Nội trú
Ngoại trú
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Năm
Biểu đồ 2. Số bệnh nhân nghèo KCB nội trú và ngoại trú.
Nguồn: Theo số liệu Phòng Giám định chi - BHYT Hà Nội.
Chi phí cho một lần KCB bình quân của
Thực tế cho thấy, người nghèo chỉ đi khám,
chữa bệnh khi thấy bản thân có vấn đề về sức
khỏe. Nghịch lý ở đây là, tại sao tỷ lệ người nghèo
lựa chọn hình thức điều trị ngoại trú rất cao trong
khi điều trị nội trú mang lại cơ hội chữa bệnh tốt
hơn? Đối với họ, câu trả lời lại nằm ở vấn đề kinh
tế, không phải ở vấn đề chữa bệnh.
bệnh nhân nội trú và ngoại trú có sự khác biệt
rất lớn và có xu hướng ngày càng tăng. Năm
2005, chênh lệch chi phí bình quân một lần
KCB giữa nội trú và ngoại trú là 8,9 lần, thì
năm 2006 tăng lên đến 10,5 lần, năm 2007 là
15,6 lần, năm 2008 là 13,9 lần, năm 2009 là
13,4 lần và năm 2010 là 13,5 lần (xem Bảng 3).
Comment [M4]: Chuyển Bảng 3 lên,
ko để gần Bảng 4
Bảng 3. Chi phí bình quân một lần KCB
Đơn vị tính: Nghìn đồng
2005
2006
2007
2008
2009
2010 (sơ bộ)
400
5.400
Ngoại trú
Nội trú
280
2.500 3.000 4.500 5.000 5.300
285
288
360
396
Nguồn: Phòng Giám định chi - BHYT Hà Nội.
260
M.T.T. Xuân / Tạp ꢀꢁꢂ Kꢁoa ꢁọꢀ ĐHQGHN, Kinꢁ tế và Kinꢁ doanꢁ 27 (2011) 256-264
Bệnh nhân điều trị nội trú tuy không phải
Ba là, người nghèo có nguy cơ bị bệnh cao
nhưng thực tế sử dụng dịch vụ KCB lại rất thấp.
Một cuộc điều tra của Bộ Y tế cho thấy, tỷ lệ
ốm đau ở nhóm hộ nghèo thường cao gấp 2 lần
so với nhóm hộ giàu, và tình trạng sức khỏe của
nhóm 20% hộ gia đình có mức sống thấp nhất
(nhóm nghèo) kém hơn rất nhiều so với nhóm
khá và nhóm giàu [5], nhưng do chi phí KCB
quá cao so với thu nhập của họ nên nhu cầu về
chăm sóc sức khỏe không được bảo đảm, kể cả
những lúc đau yếu, bệnh tật. Cũng theo số liệu
của Bộ Y tế, mặc dù người nghèo được miễn
giảm một phần hay toàn bộ chi phí KCB nhưng
tỷ lệ chi phí điều trị nội trú của họ vẫn chiếm
tới 40,5% tổng thu nhập [6]. Do vậy, việc người
nghèo không “mặn mà” với bệnh viện kể cả khi
bị ốm đau là điều dễ hiểu (xem Bảng 4).
trả chi phí về thuốc men, giường bệnh, nhưng
chi phí gián tiếp lại rất cao (bao gồm: chi phí về
ăn ở, đi lại, chi phí cơ hội của bản thân người
bệnh và thân nhân đi theo chăm sóc, thậm chí
cả chi phí “lót tay” cho bác sĩ), tương đương
với khoảng 10 tháng chi tiêu ngoài lương thực,
thực phẩm [4]. Để trả tiền nằm viện, phần lớn
người nghèo phải vay mượn, thậm chí bán cả
đồ đạc, phương tiện sản xuất, làm cho cuộc
sống của họ vốn khó khăn càng khó khăn hơn.
Trên thực tế nhiều người nghèo đã trở thành
“con nợ” sau mỗi lần phải nhập viện(3). Vì vậy,
ngoại trú đối với họ là một cách để tiết kiệm chi
phí KCB, thậm chí có nhiều người còn “tiết
kiệm” hơn bằng cách không đến bệnh viện cho
dù bị đau ốm và có thẻ BHYT. Đây là lý do chủ
yếu nhất của tình trạng bệnh nhân nghèo KCB
ngoại trú nhiều hơn nội trú.
Bảng 4. Tần suất KCB của các đối tượng tham gia BHYT giai đoạn 2005-2010
Đơn vị tính: lượt/người/năm
2005
2008
2009
2010
Nội trú Ngoại trú Nội trú Ngoại trú Nội trú Ngoại trú Nội trú Ngoại trú
Người nghèo 0.045
0.361
0.638
2.358
0.038
0.658
2.358
0.452
0.925
2.215
0.051
0.358
1.358
0.368
0.467
2.155
1.210
1.651
2.156
1.215
2.354
2.683
Bắt buộc
0.235
1.235
Tự nguyện
Nguồn: Phòng Giám định chi BHYT - BHXH Hà Nội.
Có sự khác biệt lớn về tần suất KCB của
người nghèo trước và sau năm 2009 chủ yếu là do
Luật BHYT (có hiệu lực từ 1/7/2009) đã mở ra cơ
hội nhiều hơn cho bệnh nhân nghèo. Đó là quy
định về việc cho phép các cơ sở KCB ngoài công
lập đủ điều kiện chuyên môn kỹ thuật được ký
hợp đồng KCB cho người có thẻ BHYT; quy
định về việc mở rộng đăng ký ban đầu tại tuyến
huyện, xã; và quy định về thanh toán cho bệnh
nhân KCB trái tuyến bằng thẻ BHYT ở ba mức
40%, 50%, 70% tùy theo tuyến bệnh viện. Các
quy định đó đã tạo điều kiện cho người nghèo tiếp
cận các dịch vụ y tế tốt hơn, kể cả dịch vụ KCB
sử dụng kỹ thuật cao. (3)
Tuy nhiên, nếu so với các đối tượng BHYT
bắt buộc và tự nguyện (công nhân, viên chức,
người lao động làm việc trong các doanh
nghiệp, thuộc tầng lớp khá giả hơn, thậm chí
giàu có) thì tần suất KCB của người nghèo chưa
bằng một nửa. Nếu một người có điều kiện kinh
tế, tự nguyện tham gia BHYT một năm bình
quân sử dụng dịch vụ KCB nội trú 1,776 lần và
điều trị ngoại trú 2,352 lần và những người
tham gia BHYT bắt buộc sử dụng dịch vụ đó
tương ứng là 0,725 và 1,096 lần, thì những
người nghèo chỉ sử dụng có 0,336 lần và 0,599
lần[7]. Tình trạng đó là do nhiều người nghèo
thiếu thông tin, không biết rõ các quy định mới
(nêu trên) của pháp luật hiện hành. Do đó,
______
(3)
11562-1-8/nguoi-ngheo-khong-dam-om.aspx, có gần 60%
số hộ gia đình nghèo mắc nợ do chi phí KCB; khoảng
3,7% số hộ bị nghèo hóa do chi phí y tế (năm 2008).
261
M.T.T. Xuân / Tạp ꢀꢁꢂ Kꢁoa ꢁọꢀ ĐHQGHN, Kinꢁ tế và Kinꢁ doanꢁ 27 (2011) 256-264
chính sách BHYT với mục tiêu trợ giúp hướng
đến đối tượng người nghèo song trên thực tế
người giàu lại đang được hưởng lợi nhiều hơn
(vì họ đến bệnh viện KCB nhiều hơn, mà mức
trợ cấp từ ngân sách tỷ lệ thuận với số lượng và
giá trị dịch vụ y tế họ sử dụng).
đồng/người/tháng), trong khi chi phí KCB bình
quân một lần từ 280-400 nghìn đồng (ngoại trú)
và từ 2,5-5,4 triệu (nội trú), vượt xa nhiều lần
so với khả năng tài chính của họ, đó là chưa kể
trường hợp điều trị bệnh hiểm nghèo. Tuy
người nghèo có thẻ BHYT được miễn phí, hoặc
chỉ phải trả một phần viện phí (từ 5-20%),
nhưng trên thực tế những người bị đau ốm lâu
dài, những người bị bệnh nan y đã phải trả một
khoản chi phí không hề nhỏ cho một lần nhập
viện, bao gồm cả chi phí trực tiếp, chi phí gián
tiếp và chi phí không chính thức.
Bốn là, việc lựa chọn dịch vụ KCB của
người nghèo nhìn chung không xuất phát từ
mục tiêu sức khỏe, mà từ mục tiêu kinh tế. Mặc
dù người nghèo có nguy cơ mắc bệnh cao,
nhưng do nguồn thu nhập ít ỏi, đường sá xa xôi,
điều kiện đi lại khó khăn… nên khả năng tiếp
cận dịch vụ y tế rất thấp, đặc biệt các dịch vụ kỹ
thuật cao. Những người sống càng xa thành phố
thì chi phí cho đi lại càng lớn, và cuộc hành
trình đến bệnh viện càng khó khăn, phức tạp
(như một số xã của huyện Ba Vì, Ứng Hòa, Mỹ
Đức cách trung tâm Thành phố đến hàng chục,
thậm chí đến cả trăm km). Vì vậy, mỗi khi bị
bệnh nặng phải chuyển lên KCB ở tuyến trên,
phải đối mặt với nhiều khó khăn tốn kém…, thì
có đến 70% trong số họ đã từ chối chuyển tuyến
và lựa chọn điều trị tại tuyến xã hoặc tuyến
huyện, thậm chí chấp nhận cái chết(4). Như vậy,
đối với người nghèo, để chữa khỏi bệnh họ
không lựa chọn (thực ra là không có quyền lựa
chọn vì không có tiền) địa chỉ KCB tốt, mà là
lựa chọn nơi điều trị nào ít tốn kém nhất. Đó là
nghịch lý lớn nhất trong các nghịch lý của
người nghèo khi sử dụng dịch vụ y tế nói chung
và dịch vụ BHYT nói riêng hiện nay.
Để người nghèo Hà Nội nói riêng, người
nghèo cả nước nói chung tiếp cận được với dịch
vụ y tế nhiều hơn, việc mở rộng cánh cửa bệnh
viện đối với họ là cách làm thiết thực nhất. Cụ
thể, Nhà nước, trực tiếp là Bộ Y tế cần tăng
cường các biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho người
nghèo, trong đó tập trung giải quyết tốt các vấn
đề cốt lõi sau:
Thứ nhất, phải xác định mức viện phí phù
hợp với thu nhập của đại đa số người dân, bởi
mức viện phí là nhân tố tác động trực tiếp đến
quyết định KCB và lựa chọn địa chỉ điều trị của
bệnh nhân, đặc biệt là bệnh nhân nghèo. Một
vấn đề rất “nóng” đang được nhiều người quan
tâm hiện nay là Dự thảo Đề án tăng viện phí
của Bộ Y tế, với mức giá dịch vụ tăng thêm từ
2,5-10 lần. Mặc dù biểu giá dịch vụ y tế đã trở
nên lỗi thời do được duy trì quá lâu (16 năm
trước) so với giá cả các hàng hóa khác đang
tăng từng tháng, thậm chí từng ngày, nhưng nếu
tăng giá viện phí cho tương ứng với giá các
dịch vụ khác thì vô tình đã “đẩy” người nghèo
ra xa hơn với các bệnh viện.
3. Kiến nghị giải pháp
Như đã đề cập, nguyên nhân chủ yếu nhất
dẫn đến tình trạng người nghèo ít hoặc không
sử dụng dịch vụ y tế, kể cả khi được phát thẻ
BHYT miễn phí, trước hết là do không có khả
năng chi trả viện phí. Thu nhập của người
nghèo quá thấp (bình quân khoảng 275.000
Điều chỉnh viện phí là cần thiết, nhưng thiết
nghĩ không nên điều chỉnh với tốc độ đột phá
như đề xuất của Bộ Y tế. Với mức giá viện phí
thấp như hiện nay mà đã có đến 40% người
nghèo bị ốm không biết đến bệnh viện, thì liệu
khi dự thảo đề án được phê duyệt tỷ lệ đó sẽ là
bao nhiêu và người nghèo còn có cơ hội đến
KCB tại các bệnh viện nữa không? Vậy nên,
không nên xuất phát từ lợi nhuận để xác định
giá cả dịch vụ y tế, mà phải xuất phát từ lợi ích
xã hội, trước hết là lợi ích của người nghèo, của
______
(4)
Theo một nghiên cứu của Bộ Y tế, ở miền Bắc, tỷ lệ
người nghèo bị ốm không điều trị chiếm khoảng 40%,
trong đó khoảng 53% do khó khăn về tài chính
khong-duoc-dieu-tri/82/5335592.epi).
262
M.T.T. Xuân / Tạp ꢀꢁꢂ Kꢁoa ꢁọꢀ ĐHQGHN, Kinꢁ tế và Kinꢁ doanꢁ 27 (2011) 256-264
số đông. Chỉ có như vậy việc tăng viện phí mới
không làm tăng thêm gánh nặng chi phí KCB
của người nghèo, và cũng chỉ khi đó người
nghèo mới có cơ hội tiếp cận với bệnh viện.
song quá trình này cũng còn nhiều vấn đề đặt ra
cần giải quyết, trong đó nổi lên là việc lạm
dụng quỹ và lạm dụng kỹ thuật cao trong chỉ
định thuốc. Về lạm dụng quỹ, thể hiện rõ nhất
là tình trạng không sử dụng hết công suất thiết
bị tại một số bệnh viện đa khoa cấp tỉnh (có
khoảng 20% số thiết bị)(6), do đầu tư mua sắm
không tính đến nhu cầu và năng lực thực tế của
người sử dụng công nghệ (tức nhân viên kỹ
thuật không biết dùng máy). Về lạm dụng kỹ
thuật cao, thể hiện ở việc các bác sĩ chỉ định xét
nghiệm, dịch vụ kỹ thuật cao và kê đơn thuốc
không cần thiết do chạy theo mục tiêu tăng
nguồn thu từ viện phí trực tiếp cho bệnh viện.
Ví dụ, có căn bệnh chỉ cần kê ba loại thuốc là
đủ thì bác sĩ kê năm loại; có căn bệnh cần năm
xét nghiệm, bác sĩ lại yêu cầu mười… Động thái
này đã đẩy giá thành điều trị lên cao, kết quả là
bệnh viện có thu nhập nhưng người bệnh thì phải
gánh chi phí KCB quá nặng, nhiều người không
có khả năng thanh toán. Đó là chưa kể đến tình
trạng len vào kẽ hở chính sách để trục lợi của một
bộ phận cán bộ thiếu y đức, mà tiêu biểu là vụ
việc lập hồ sơ giả, kê khống 1.168 đơn thuốc để
“rút ruột” gần 4 tỷ đồng từ Quỹ BHYT tại Bệnh
viện Chợ Rẫy năm 2009.
Thứ hai, nâng cao chất lượng mạng lưới y
tế cơ sở. Có một thực tế là, người nghèo thường
sống ở nông thôn vùng sâu, vùng xa nên mỗi
khi ốm đau họ thường đến y tế cơ sở. Tuy
nhiên, hiện tại khả năng về chuyên môn cũng
như cơ sở vật chất ở tuyến cơ sở rất hạn chế.
Theo kết quả nghiên cứu về y tế cơ sở thực hiện
năm 2010, chất lượng các dịch vụ y tế do tuyến
xã cung cấp cho người dân không cao và năng
lực chuyên môn của đội ngũ y bác sĩ tại đây
cũng còn nhiều hạn chế(5). Đây chính là những
thách thức không nhỏ trong việc thụ hưởng các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe của người nghèo,
gây bất bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội
trong vấn đề này.
Thiết nghĩ, khi người nghèo không có điều
kiện để tiếp cận với các cơ sở KCB có trình độ
cao tại tuyến tỉnh và trung ương thì việc nâng
cao chất lượng KCB tại các tuyến cơ sở là cách
tốt nhất để đáp ứng nhu cầu mà họ đáng được
thụ hưởng ngay tại cơ sở KCB gần nhất. Việc
nâng cao chất lượng KCB tại các tuyến cơ sở
không chỉ có tác dụng cung cấp dịch vụ KCB
tốt hơn, mà còn góp phần làm giảm tình trạng
quá tải tại các bệnh viện tuyến trên hiện nay.
Tuy nhiên, cần hiểu rằng, tăng cường chất
lượng y tế cơ sở không chỉ là việc đầu tư cơ sở
hạ tầng trang thiết bị cho các phòng khám, bệnh
viện…, mà còn là việc tăng cường đội ngũ y
bác sĩ có trình độ chuyên môn và y đức cao.
Làm được như vậy thì người nghèo mới được
hưởng đầy đủ các dịch vụ kỹ thuật, đặc biệt là
các dịch vụ kỹ thuật cao trong KCB.
Để khắc phục tình trạng trên, cơ chế chính
sách của Nhà nước cần phải được tiếp tục đổi
mới theo các hướng chủ yếu sau:
- Chuyển từ phương thức chi trả theo phí
dịch vụ sang thực hiện các phương thức chi trả
theo định suất và theo trường hợp bệnh (hiện tại
Hà Nội đã có Bệnh viện Ba Vì và Bệnh viện
Thanh Nhàn thực hiện phương thức thanh toán
này). Làm như vậy vừa tạo sự chủ động hơn
cho các bệnh viện khi điều hành ngân sách,
nâng cao trách nhiệm của các bên liên quan
trong việc quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn
kinh phí BHYT; vừa tránh được tình trạng lạm
dụng chỉ định thuốc và giảm bớt phiền hà cho
người bệnh khi thanh toán và làm thủ tục xuất,
nhập viện.
Thứ ba, đổi mới chính sách, cơ chế đi đôi
với tăng cường quản lý tài chính y tế các cơ sở
KCB. Tuy nước ta đã có nhiều nỗ lực để thực
hiện chính sách tài chính y tế công bằng nhằm
hỗ trợ người nghèo và các nhóm đối tượng dễ
tổn thương khác trong công tác KCB BHYT,
- Chuyển từ cấp phát ngân sách nhà nước
cho các cơ sở KCB sang cấp trực tiếp cho
______
(5) http://daibieunhandan.vn/ONA_BDT/NewsPrint.aspx?n
ewsId=200437
______
(6) http://www.napa.vn/vi/tthc/ncbl/
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng dịch vụ y tế của người nghèo ở Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- su_dung_dich_vu_y_te_cua_nguoi_ngheo_o_ha_noi.pdf