Phát triển doanh nghiệp trong trường đại học và những gợi ý chính sách về đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96
Original Article
Development of Enterprises in Universities
and Policy Implications for University Governance
Reforms in Vietnam
Dinh Van Toan*
VNU University of Economics and Business,
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam
Received 12 March 2019
Revised 28 March 2019; Accepted 28 March 2019
Abstract: This paper focuses on analyzing and clarifying the theoretical basis for the
development of enterprises in universities and its relationship with university governance
in Vietnam. The status of enterprise development in the universities was also studied. On
this basis, the paper provides recommendations to accelerate the university governance
reform in the era of the fourth industrial revolution in higher education.
Keywords: Enterprises development in universities, university governance, university
governance reform.
*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: dinhvantoan@vnu.edu.vn
83
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96
Phát triển doanh nghiệp trong trường đại học và những
gợi ý chính sách về đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam
Đinh Văn Toàn*
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thuỷ, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 12 tháng 3 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 3 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 3 năm 2019
Tóm tắt: Nghiên cứu tập trung phân tích, làm rõ lý luận về phát triển doanh nghiệp trong
các trường đại học và mối quan hệ giữa phát triển doanh nghiệp với vấn đề quản trị đại
học. Đồng thời, nghiên cứu cũng khảo sát thực trạng phát triển doanh nghiệp trong các
trường đại học ở Việt Nam, từ đó đưa ra những gợi ý chính sách nhằm đẩy nhanh tiến
trình đổi mới quản trị đại học trong thời kỳ của giáo dục đại học 4.0 hiện nay.
Từ khóa: Phát triển doanh nghiệp trong trường đại học, quản trị đại học, đổi mới quản trị
đại học.
1. Giới thiệu *
Phát triển doanh nghiệp (PTDN) trong các
Mô hình trường đại học hoạt động gắn với
hợp tác, liên kết với bên ngoài và phát triển các
hoạt động kinh doanh (đại học doanh nghiệp),
hình thành doanh nghiệp trực thuộc trường
cũng được đề cập và bàn luận trong một số
nghiên cứu, điển hình như nghiên cứu của Trần
Anh Tài, Trịnh Ngọc Thạch (2003) [1]. Trong
thực tiễn, nhiều đại học trên thế giới áp dụng
phương thức này trong tổ chức quản lý để tăng
cường năng lực chuyển giao công nghệ và
thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ
(KHCN) ra thị trường. Ngày nay, phương thức
hoạt động như trên thường gắn với các trường
đại học được tổ chức, vận hành theo hướng thúc
đẩy khởi nghiệp sáng tạo và mô hình quản trị
đại học (QTĐH) tiên tiến. Yokoyama (2006) đã
tổng kết các hình thức phát triển trường đại học
tiến tới mô hình quản trị tiên tiến qua nhiều cấp
độ với các đặc điểm tổ chức, điều hành ở một
số trường đại học điển hình trên thế giới [2].
cơ sở giáo dục đại học, thường gọi là trường
đại học (ĐH), liên quan đến nhiều nội dung
cần bàn luận như: tổ chức và quản trị trong
các đại học, khởi nghiệp và khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo, trong đó việc hình thành các
doanh nghiệp mới là một kết quả quan trọng.
Kể từ năm 2000 đến nay, mỗi năm bình quân
Đại học Quốc gia Singapore (NUS) thành lập
khoảng 5 doanh nghiệp. Ở một số trường đại
học tại Mỹ như Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT), Đại học Standford và
Đại học Harvard, con số các doanh nghiệp
được thành lập còn cao hơn rất nhiều.
_______
* Tác giả liên hệ.
84
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96
85
Ở Việt Nam, thực tiễn cho thấy các nhà hoạch
định và nhà khoa học ngày càng quan tâm đến các
hoạt động hợp tác, gắn kết với doanh nghiệp và
đời sống xã hội để phục vụ cộng đồng của các
trường đại học. Các hoạt động này liên quan trực
tiếp đến PTDN, đổi mới mô hình tổ chức quản lý
và tiến tới quản trị tiên tiến trong trường đại học.
Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây [3, 4] và thực
tiễn cũng cho thấy các hoạt động này của các
trường đại học còn có nhiều hạn chế và vướng
mắc, hiệu quả hợp tác còn thấp, đổi mới công
nghệ và thúc đẩy sáng tạo còn chậm, kết quả
nghiên cứu khoa học (NCKH) ít được đưa vào
ứng dụng thực tiễn. Điều này làm giảm hiệu quả
đóng góp của các trường đại học cho nền kinh tế -
xã hội, đồng thời làm chậm tiến trình đổi mới tổ
chức và QTĐH.
Thông qua nghiên cứu tổng quan lý thuyết
về PTDN, bài viết phân tích sâu thêm sự liên hệ
giữa hoạt động này với đổi mới tổ chức quản lý
và quản trị trường đại học để đưa ra những gợi
ý chính sách về đổi mới QTĐH. Các gợi ý này
có thể gợi mở việc xây dựng chính sách, cải
tiến cơ chế quản lý của cơ quan nhà nước đối
với giáo dục đại học hiện đại phù hợp xu thế
hội nhập, đồng thời góp phần đổi mới quản trị
trường đại học theo hướng tăng cường tự chủ
và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu của giáo
dục đại học 4.0.
cứu đã chỉ ra những tác động của các liên kết
này, tác động của tư duy “'doanh nghiệp”,
phong cách quản lý “doanh nghiệp” (mô hình
đại học doanh nghiệp) đối với các nguồn lực tài
chính, tới việc ứng dụng các nguyên tắc của
doanh nghiệp trong mô hình quản lý và điều
hành trường đại học [6-11]. Các nghiên cứu
trên cũng đã được các nhà khoa học như Han và
Heshmati (2013), Trần Anh Tài (2010) tổng
hợp [12-13] .
Etzkowitz (2002) cũng sử dụng thuật ngữ
phát triển “doanh nghiệp đại học” (University
Entrepreneurship) để mô tả sự chuyển đổi quản
trị cùng với hình thành doanh nghiệp trong
trường đại học của MIT như kết quả của sự hợp
tác và liên kết với các ngành công nghiệp tư
nhân và các cơ quan chính phủ [7]. Clark
(1998) đã khái niệm hóa việc tìm kiếm các
phương pháp mới mà 5 trường đại học nghiên
cứu của châu Âu đang tìm kiếm như sự
“'chuyển đổi kinh doanh”' để giảm sự phụ thuộc
nặng nề vào sự hỗ trợ và giám sát của chính phủ
trong bối cảnh các tổ chức này cần sự chuyển
đổi và đổi mới [6]. Có thể nói tinh thần kinh
doanh, chuyển đổi kinh doanh hay đổi mới mô
hình tổ chức, điều hành trong trường đại học là
các tiền đề quan trọng cho PTDN trong trường
đại học. Đây cũng là các nhân tố tự thân của các
trường đại học trong tiến trình đổi mới quản trị
theo hướng QTĐH tiên tiến.
Yokoyama (2006) cho rằng các thuật ngữ
như PTDN và “tinh thần kinh doanh” trong bối
cảnh của các trường đại học không nhất thiết
phải được hiểu với ý tưởng thu lợi nhuận và
chấp nhận rủi ro, thậm chí là mang tính thương
mại cao. Thay vào đó, nghiên cứu của
Yokoyama (2006) tập trung vào thái độ của các
trường đại học trong việc cố gắng tự chủ về
chuyển giao công nghệ, tài chính hay nâng cao
trách nhiệm của trường đại học và các nhà khoa
học đối với xã hội nói chung. PTDN trong
trường đại học dẫn đến sự thay đổi trong cơ chế
quản lý và điều hành. Do đó, 5 hình thức phát
triển từ thấp đến cao của mô hình trường đại
học mà Yokoyama đưa ra có thể coi như kết
quả trực tiếp của quá trình PTDN và tinh thần
kinh doanh trong các trường đại học tiến tới mô
hình QTĐH tiên tiến (Bảng 1).
2. Cơ sở lý luận
PTDN được biết đến một cách rộng rãi như
sự tổng hợp các vai trò, chức năng của doanh
nhân gồm khả năng và mong muốn của các cá
nhân trong hoặc ngoài tổ chức hiện có để nhận
biết, tạo nên cơ hội kinh doanh mới (sản phẩm
mới, phương pháp sản xuất mới, đề án tổ chức
mới và sự kết hợp sản phẩm - thị trường mới)
và giới thiệu những ý tưởng của họ tới thị
trường. Theo Wennekers và Thurik (1999), các
hoạt động này thường đối mặt với sự không
chắc chắn và những trở ngại khác bằng sự quyết
định hình thức, sử dụng các nguồn lực và tổ
chức thực hiện [5]. Đối với các trường đại học,
trong bối cảnh ngày càng có sự liên kết gần hơn
với thị trường và doanh nghiệp, nhiều nghiên
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96
86
y
Bảng 1 Các hình thức phát triển của trường đại học
Mức Hình thức
Đặc điểm chính trong cơ chế tổ chức điều hành
- Tăng sự tự quyết định của trường đại học
- Sự ra đời của văn hóa doanh nghiệp
- Xem xét lại vấn đề quản trị, quản lý, lãnh đạo và tài trợ nội bộ trong
trường đại học
- Thiết lập kế hoạch chiến lược
Thí điểm mẫu
(Ví dụ: Đại học Tokyo)
1
- Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường trách nhiệm trong
trường đại học
Trường đại học theo
định hướng doanh
nghiệp (Đại học
Waseda)
- Mở rộng hoạt động kinh doanh
- Chính sách theo định hướng thị trường
- Xung đột giữa các giá trị học thuật và kinh doanh
- Sự ra đời của tinh thần quản lý trong các hoạt động
2
Trường đại học định
hướng kinh doanh non
trẻ (Đại học
- Phụ thuộc vào tài chính công
- Tự nhận dạng là một trường đại học mang tinh thần kinh doanh
- Đóng góp vào nền kinh tế địa phương
3
4
Nottingham Trent)
- Thể chế tự quyết định
- Thu nhập đáng kể từ tài trợ bên ngoài
- Cơ cấu quản trị và cấu trúc quản lý theo định hướng thị trường
- Tích hợp cơ cấu doanh nghiệp, kinh doanh và học thuật
- Tự chủ hoàn toàn và tự lực
Trường đại học doanh
nghiệp thích ứng
(Đại học Surrey)
- Chia sẻ rủi ro và trách nhiệm giữa các tác nhân tham gia vào các
hoạt động kinh doanh một cách rõ ràng
5
Hình thức lý tưởng
- Tích hợp văn hóa kinh doanh, doanh nghiệp và văn hóa học thuật;
văn hóa quản lý và phối hợp trong một tổ chức mà không có xung đột
Nguồn: Yokoyama, 2006 [2].
Trường đại học theo định hướng mô hình
QTĐH tiên tiến trước hết cần tiếp cận tinh thần
kinh doanh và tăng cường hợp tác với doanh
nghiệp. Sau đó, cần thay đổi phương thức tổ
chức, quan tâm nhiều hơn đến quản lý, điều
hành dựa trên hiệu quả các hoạt động. Cùng với
các hoạt động mang tinh thần “kinh doanh” như
vậy, việc thành lập các doanh nghiệp và sự hoạt
động hiệu quả của các đơn vị dịch vụ hỗ trợ
như văn phòng chuyển giao công nghệ (OTT)
sẽ thúc đẩy chuyển giao tri thức từ các trường
đại học tới doanh nghiệp [4]. Kết quả của các
hoạt động và sự chuyển dịch này làm tăng tính
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, là
cơ sở vững chắc cho thành công của quản trị đại
học tiên tiến. Các trường đại học có mô hình tổ
chức và phương thức quản trị tiên tiến luôn lấy
mục tiêu thỏa mãn nhu cầu của người học và
các bên liên quan thông qua việc triển khai có
hiệu quả cao mọi hoạt động gắn với đổi mới
sáng tạo.
Kết quả nghiên cứu và khảo sát mang tính
học thuật về mối liên hệ giữa PTDN trong
trường đại học với các ngành công nghiệp và
môi trường bên ngoài của Yusof và Jain (2010)
cũng cho thấy vai trò cầu nối của các văn phòng
chuyển giao công nghệ trong trường đại học là
hết sức quan trọng [14]. Các trường đại học
hoạt động theo mô hình QTĐH tiên tiến và sự
hoạt động hiệu quả của các văn phòng này sẽ
thúc đẩy sự hình thành các doanh nghiệp mới.
Tiến trình hình thành doanh nghiệp trong
trường đại học cùng với sự phát triển kinh tế -
xã hội, các ngành công nghiệp và cộng đồng
kinh doanh sẽ có tác động lan tỏa và thúc đẩy
hoàn thiện môi trường bên ngoài. PTDN trong
đại học cần một môi trường bên ngoài phù hợp
- hệ sinh thái (bao gồm mạng lưới sáng tạo).
Ngược lại, một hệ sinh thái hỗ trợ đổi mới sáng
tạo xung quanh trường đại học lại thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình chuyển đổi sang mô hình
QTĐH tiên tiến của nhà trường (Hình 1).
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96
87
Sự hình thành và hoạt động của các doanh
nghiệp trong trường đại học có thể theo một số
hình thức khác nhau, nhưng nhìn chung có liên
quan chặt chẽ với chu kỳ của nghiên cứu - thử
nghiệm - chuyển giao - ứng dụng thực tiễn và
thương mại hóa. Các doanh nghiệp được thành
lập thường gặp trong các đại học nhằm thương
mại hóa sản phẩm KHCN bắt nguồn từ các kết
quả và ý tưởng nghiên cứu - được gọi là doanh
nghiệp “Spin-off”. Đặc trưng của các doanh
nghiệp này là được hình thành và nuôi dưỡng
trong trường đại học cùng vai trò quan trọng
của các nhà khoa học, nhà sáng chế với các ý
tưởng sáng tạo. Mặt khác, doanh nghiệp trong
trường đại học thường được phát triển từ các
sản phẩm hay ý tưởng sáng tạo, thường gọi là
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startups). Các
doanh nghiệp này thường có quy mô vừa và
nhỏ để đối phó với nguy cơ rủi ro cao. Do vậy,
startups là nét đặc trưng vốn có của các trường
đại học trong thời đại ngày nay, bởi lẽ bản thân
các trường đại học là môi trường lý tưởng cho
phát triển khởi nghiệp gắn với đổi mới, sáng
tạo [15].
Thuật ngữ PTDN cũng đã được áp dụng để
nghiên cứu và giải quyết cụ thể đối với các hoạt
động theo định hướng thị trường xảy ra trong
giáo dục đại học hiện đại. Phân tích các hoạt
động chuyển giao công nghệ của các trường đại
học và các kết quả liên quan đến PTDN, các
học giả như: Bercovitz và Feldman (2006),
Bercovitz và cộng sự (2001), Feldman và cộng
sự (2002), Owen-Smith (2005), Owen-Smith và
Powell (2003), Colyvas và Powell (2007) đã
xác định các hoạt động hướng ra thị trường bao
gồm việc tạo ra các startups phục vụ đời sống
xã hội là điển hình của PTDN trong trường đại
học [17-22]. Bên cạnh đó, các hành vi và hoạt
động của sinh viên theo định hướng thị trường
và vai trò của sinh viên khởi nghiệp kinh doanh
hay “doanh nhân sinh viên” được nhà nước bảo
trợ đôi khi cũng được coi là phát triển tinh thần
kinh doanh và PTDN trong đại học [23].
Ngoài mục tiêu lợi nhuận, phát triển kinh
doanh và hình thành doanh nghiệp trong trường
đại học có điểm khác biệt so với các doanh
nghiệp và doanh nhân ở mục tiêu chuyển giao
tri thức, chuyển giao công nghệ và ý tưởng mới
ra thị trường. Đặc biệt, nó góp phần hoàn thiện
mô hình tổ chức và điều hành theo hướng đổi
mới QTĐH. Theo Bercovitz và Feldman
(2002), các hoạt động PTDN trong trường đại
học góp phần tích cực cho phát triển kinh tế tri
thức và đóng góp cho tiến bộ xã hội [19]. Do
vậy, các quốc gia thường có những chính sách
hỗ trợ và thúc đẩy sự ra đời và phát triển của
các doanh nghiệp trong trường đại học, đồng
thời tạo môi trường đổi mới và chuyển dịch
sang mô hình QTĐH tiên tiến.
3. Phát triển doanh nghiệp trong đại học ở
một số quốc gia tiêu biểu
PTDN trong các trường đại học đã khá phổ
biến trong nhiều thập niên qua trên thế giới.
Gần đây nhất, một quốc gia mới nổi lên ở châu
Á thành công nhất phải kể tới là Singapore. Sự
chuyển đổi NUS sang mô hình QTĐH tiên tiến,
gắn với PTDN và đổi mới sáng tạo được bắt
đầu từ cuối thập niên 1990 khi quyết định thành
lập doanh nghiệp đầu tiên trong đại học. Trong
thời kỳ đầu, NUS thành lập văn phòng cấp phép
về công nghệ. Văn phòng này không quá chú ý
đến mục tiêu lợi nhuận cấp phép mà chú trọng
mở rộng quan hệ, quảng bá các kết quả công
nghệ của NUS trên thị trường bằng cách ưu tiên
cấp bản quyền sáng chế cho các doanh nghiệp
mới được thành lập. Bên cạnh đó, NUS cung
cấp các thiết bị, cơ sở vật chất ở các vườn ươm
công nghệ của trường, cấp vốn ban đầu cho các
doanh nghiệp mới thành lập. Trung tâm khởi
nghiệp được thành lập với nhiệm vụ mở rộng
chương trình đào tạo khởi nghiệp cho sinh viên
trong trường.
Các doanh nghiệp của NUS thực hiện các
chức năng tạo lập liên kết với các ngành công
nghiệp, nghiên cứu thúc đẩy các hoạt động của
trường theo định hướng doanh nghiệp.
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96
88
f
Môi trường bên ngoài bao gồm
mạng lưới đổi mới sáng tạo
Thành lập doanh nghiệp mới
Năng suất của các
OTT
Trường
đại học
Hình 1. PTDN trong trường đại học.
Nguồn: Rothaermel và cộng sự, 2007 [16].
Sự phát triển nhanh chóng các doanh
(29%), số hợp đồng ký với các cơ quan thuộc
Chính phủ và tư nhân chỉ chiếm 25%. Trong
vòng 5 năm (từ 2000-2004) đã có 54 công ty
được thành lập trong NUS [13].
Để thúc đẩy PTDN trong các trường đại
học, Chính phủ Brazil đã cụ thể hóa quy định
trong luật định về mô hình hoạt động của doanh
nghiệp trong các trường đại học. Theo đó,
Chính phủ có quy định mô hình doanh nghiệp
lai (hybrid firm) hay còn gọi là “doanh nghiệp
sơ sinh” được thành lập từ sự kết hợp giữa
nghiệp tại NUS đã thu được những kết quả cụ
thể như: thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua
đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và triển
khai (R&D), thu hút nhân tài; đẩy mạnh thương
mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và công
nghệ thông qua hoạt động bằng sáng chế và cấp
phép công nghệ; chỉ tính đến năm 2004, NUS
đã ký 239 hợp đồng cấp phép bản quyền công
nghệ. Đặc biệt, một tỷ lệ lớn các hợp đồng này
được ký với các công ty do NUS thành lập
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 83-96
89
trường đại học và doanh nghiệp. Trong trường
hợp kết hợp với doanh nghiệp tư nhân, Chính
phủ cho phép các trường đại học đặt trụ sở của
các công ty này trong trường hoặc trong các
trung tâm ươm tạo. Các công ty mới thành lập
được sự hỗ trợ tài chính một phần từ trường đại
học và một phần từ các bộ, ngành liên quan. Kết
quả từ chính sách ưu đãi trên đã thay đổi mô hình
QTĐH, làm tăng nhanh các dự án hợp tác giữa
các trường đại học và doanh nghiệp, tăng số
lượng công bố quốc tế và các phát minh sáng chế
ở Brazil. Đánh giá của Bộ Khoa học và Công
nghệ Brazil năm 2014 cho thấy số lượng bài báo
công bố quốc tế tăng mạnh: năm 2000 có 86 bài
thì năm 2014 lên 744 bài, số phát minh sáng chế
cũng tăng mạnh, tương ứng từ 20.639 bằng lên
33.395 bằng (tăng 61%) [24].
nghiên cứu. Giai đoạn 1997-2000, trung bình có
95 doanh nghiệp Spin-off được hình thành hàng
năm; năm 2001 là 248; giai đoạn 2001-2006 có
26 doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán
với tổng giá trị trên 1,3 tỷ bảng Anh. Các
trường đại học đã đóng góp 3,3 tỷ bảng Anh
(khoảng 5,6 tỷ USD) cho nền kinh tế Anh trong
các năm 2010-2011, trong đó lợi nhuận từ các
công ty Spin-off mới thành lập là 2,1 tỷ bảng và
tạo ra 18.000 việc làm. Sự phát triển nhanh
chóng số lượng các công ty trong trường đại
học xuất phát từ sự thay đổi chính sách của
Chính phủ về thúc đẩy thành lập các doanh
nghiệp trong trường đại học, nổi bật nhất là
Luật Sở hữu sáng chế cho phép các công ty
Spin-off được “phi tập trung hóa” và các trường
đại học được chủ động đàm phán với người lao
động về vấn đề sở hữu trí tuệ. Trong số các
trường đại học tại Anh, Đại học Surrey được
biết đến như một đơn vị có văn hóa khởi nghiệp
và hoạt động PTDN sôi động vì đây là trường
đứng thứ 2 trong số các trường đại học ít phụ
thuộc nhất vào ngân sách từ Chính phủ. Một
trong những điểm nổi bật trong hoạt động
PTDN của Đại học Surrey là có nhiều hoạt
động để hình thành doanh nghiệp và tích hợp
các hoạt động đào tạo với khởi nghiệp.
- Tại Canada, Chính phủ có những chính
sách đặc thù và truyền thống thúc đẩy tận dụng
lợi ích kinh tế từ các nghiên cứu khoa học, cấp
kinh phí để thương mại hóa các sản phẩm
nghiên cứu qua hình thức hỗ trợ thành lập và
hoạt động của các công ty Spin-off trong các
trường đại học. Trong năm 2004 đã có 93 công
ty Spin-off niêm yết trên sàn chứng khoán, tạo
ra việc làm cho gần 30.000 người và đạt doanh
số 6,1 tỷ đô-la Canada (CAD). Ở cấp địa
phương, các văn phòng đại diện cho Bộ Công
nghiệp và các cơ quan cũng có nhiều chương
trình thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thành lập các
công ty khởi nghiệp công nghệ cao trong các
trường đại học để thương mại hóa các sản phẩm
nghiên cứu khoa học.
Ở một số quốc gia tiêu biểu khác như Mỹ,
Anh, Canada, nghiên cứu của Đinh Văn Toàn
(2018) cho thấy rõ ràng hơn vai trò quan trọng
của chính phủ đối với PTDN và đổi mới mô
hình QTĐH trong các trường đại học [25]:
- Tại Mỹ, trong vòng 20 năm (1980-1999)
kể từ khi Đạo luật Bayh-Dole về công ty
Spin-off được phê chuẩn, trung bình mỗi năm
có hơn 200 công ty được đăng ký thành lập
trong các trường đại học, đóng góp 33,5 tỷ USD
cho nền kinh tế Mỹ và tạo ra 280.000 việc làm.
Từ năm 1982, Chính phủ Mỹ còn có chương
trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, chi hơn 2 tỷ
USD cho việc hỗ trợ thành lập các doanh
nghiệp Spin-off vào năm 2004, tính đến năm
2009 đã hỗ trợ cho 112.500 công ty với tổng
kinh phí 26,9 tỷ USD. Ở cấp độ trường đại học,
điểm nổi bật ở Mỹ là các đại học nghiên cứu
đều có đơn vị đầu mối về kết nối và chuyển
giao công nghệ (OTT) và hỗ trợ cho các giảng
viên, sinh viên khởi nghiệp. Học viện MIT còn
quy định rõ điều khoản về tỷ lệ phân chia lợi
nhuận từ thương mại hóa các kết quả nghiên
cứu, trong đó dành 1/3 cho các nhà sáng chế.
- Tại Vương quốc Anh, ở hầu hết các đại
học danh tiếng thế giới (Oxford, Cambridge,
London
Metropolitan,
Birmingham,
Theo các nhà nghiên cứu chính sách thì mô
hình hiệp lực giữa ba bên (còn gọi mô hình
xoắn - Triple Helix) gồm: nhà nước - trường đại
học - doanh nghiệp là mô hình mà các nước
Manchester, Cardiff và Trường Kinh doanh
London) đều có các doanh nghiệp bên trong
hoặc liên kết với doanh nghiệp trong đào tạo và
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển doanh nghiệp trong trường đại học và những gợi ý chính sách về đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- phat_trien_doanh_nghiep_trong_truong_dai_hoc_va_nhung_goi_y.pdf