Những xu hướng thay đổi và tương lai của giáo dục đại học

VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 11-18  
Review Article  
Trends of Change in and the Future of Higher Education  
Ngo Tu Lap*  
VNU International Francophone Institute,  
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam  
Received 29 November 2018  
Revised 03 December 2018; Accepted 04 December 2018  
Abstract: Since the foundation of the first modern university in Berlin in 1809 as a  
realization of Immanuel Kant’s idea, this special institution has gone through many  
changes in terms of functions and operational models. The most significant trend today is  
probably Uberization involving all aspects of higher education. Uberization, in our  
opinion, will lead to a non-campus based higher education model and perhaps the death  
of the traditional university.  
Keywords: Higher education, Uberization, new technologies, non-campus based  
higher education.  
*
_______  
* Corresponding author.  
E-mail address: ngotulap@yahoo.com  
11  
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 11-18  
Những xu hướng thay đổi và tương lai của giáo dục đại học  
Ngô Tự Lập*  
Viện Quốc tế Pháp ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội,  
144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận ngày 29 tháng 11 năm 2018  
Chỉnh sửa ngày 03 tháng 12 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 04 tháng 12 năm 2018  
Tóm tắt: Kể từ khi ra đời năm 1809 tại Berlin như là sự hiện thức hóa ý tưởng của triết  
gia Khai sáng Immanuel Kant, trường đại học hiện đại đã có nhiều thay đổi về chức năng  
và mô hình hoạt động. Xu hướng đáng chú ý nhất hiện nay có lẽ là Uber hóa, một xu  
hướng bao trùm mọi thành tố của giáo dục đại học, từ học liệu, cơ sở vật chất, giảng viên  
đến chương trình đào tạo. Xu hướng Uber hóa, theo chúng tôi, sẽ dẫn đến mô hình đại  
học phi học đường và có thể là sự tiêu vong của trường đại học truyền thống.  
Từ khóa: Giáo dục đại học, Uber hóa, công nghệ mới, giáo dục phi-học đường.  
1. Nhập đề*  
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, trong  
thậm chí còn nặng lời hơn: ông đặt cho cuốn  
chuyên khảo xuất sắc của mình về nền giáo dục  
đại học Bắc Mỹ một cái nhan đề gây sốc, The  
University in Ruins (Trường đại học trong cảnh  
đổ nát) [2]. Nhiều người lên tiếng báo động về  
trình trạng chất lượng giáo dục suy giảm, dẫn  
đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp đại học  
không tìm được việc làm, hoặc phải làm những  
việc không đúng ngành nghề đào tạo. Trong rất  
nhiều lý do, một lý do thường được nhắc đến là  
tác động tiêu cực của xu hướng thương mại hóa  
giáo dục. Chúng tôi cho rằng điều đó chỉ đúng  
một phần. Vấn đề việc làm, nhất là việc làm  
đúng ngành nghề, của sinh viên sau khi tốt  
nghiệp là vấn đề phức tạp và có tính thời điểm,  
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó một trong  
những yếu tố quan trọng nhất là nhu cầu của  
nền kinh tế. Mặt khác, thương mại hóa giáo dục  
cũng không chỉ có tác động tiêu cực. Theo  
những thập niên gần đây, khủng hoảng giáo dục  
đại học trở thành một đề tài tranh luận gay gắt.  
Gerald Graff, mở đầu cuốn sách đoạt Giải  
thưởng Sách Quốc Gia Beyond the Culture  
Wars: How Teaching the Conflicts Can  
Revitalize American Education (Vượt qua  
những cuộc chiến văn hoá: Giảng dạy mâu  
thuẫn có thể giúp phục hồi nền giáo dục Mỹ ra  
sao) như sau: "Nếu tin vào những gì chúng ta  
đọc gần đây, nền giáo dục đại học Mỹ đang ở  
trong tình trạng thê thảm"1 [1]. Bill Readings  
_______  
* Tác giả liên hệ.  
Địa chỉ email: ngotulap@yahoo.com  
"If we believe what we have been reading lately,  
1
American higher education is in a disastrous state". Graff,  
Gerald Beyond the Culture Wars: How Teaching the  
Conflicts Can Revitalize American Education, New York:  
Norton, 1993, tr. 3.  
12  
N.T. Lap / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 11-18  
13  
chúng tôi, những gì đang diễn ra là hệ quả của  
những thay đổi mang tính bản chất của giáo dục  
đại học, thể hiện trước hết ở chức năng, mô  
hình hoạt động và đối tượng của nó.  
đương thời, con người có một năng lực phổ  
quát gọi là lý trí mà nếu được sử dụng tự do có  
khả năng giúp con người khám phá thế giới và  
hành động đúng đắn, hợp với quy luật tự nhiên.  
Tuy nhiên, phần lớn nhân loại không có khả  
năng sử dụng lý trí một cách tự do, vì thế chỉ là  
những người vị thành niên về trí tuệ. Trong tiểu  
luận quan trọng “Khai sáng là gì”, Kant cho  
rằng chức năng chính của đại học là giúp người  
học thoát khỏi tình trạng vị thành niên về trí tuệ  
đó, để họ có thể "sử dụng tri thức của mình mà  
không cần sự chỉ dẫn của người khác." [4]  
Chức năng khai sáng của trường đại học hiện  
đại được thực hiện qua vai trò trung tâm của  
khoa Triết học (các môn khoa học xã hội và  
nhân văn). Nền tảng của trường đại học hiện đại  
chính là sự thẩm vấn không ngừng của lý trí và  
trường đại học phải là một không gian tự trị dựa  
trên tinh thần phê phán để đào tạo con người tự  
do. Ý tưởng này của Kant về trường đại học  
hiện đại được Humboldt hiện thực hóa lần đầu  
tiên tại Berlin. Như vậy, với trường đại học  
hiện đại, trọng tâm được chuyển từ chức năng  
dạy nghề sang chức năng khai sáng.  
Chức năng sản xuất là một chức năng  
tương đối mới, xuất hiện khoảng giữa thế kỷ 20  
và gắn liền với sự hình thành và lớn mạnh của  
nền kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế truyền  
thống, đại học có nhiệm vụ chuẩn bị cho quá  
trình sản xuất bằng cách đào tạo nhân lực.  
Trong nền kinh tế tri thức, trường đại học trở  
thành một mắt xích của quá trình sản xuất. Đối  
với các ngành sản xuất có công nghệ cao, các  
công đoạn sản xuất quan trọng nhất - nghiên  
cứu, thiết kể và thử nghiệm - đều được thực  
hiện chủ yếu trong phòng thí nghiệm của các  
trường đại học. Trường đại học sản xuất ra sản  
phẩm hoàn chỉnh, còn nhà máy chỉ có nhiệm vụ  
nhân bản mà thôi. Vì thế, trường đại học không  
chỉ tham gia vào quá trình sản xuất theo nghĩa  
thông thường, mà bản thân nó cũng trở thành  
một doanh nghiệp sản xuất và bán tri thức dưới  
nhiều hình thức: Các trường đại học có thể ký  
hợp đồng nghiên cứu như một loại dịch vụ,  
hoặc có thể chủ động đầu tư nghiên cứu rồi sau  
đó thương mại hóa kết quả. Không những thế,  
vì tri thức trở thành một thứ hàng hóa ngày  
2. Những thay đổi về chức năng: từ dạy nghề  
đến khai sáng và mỹ phẩm trí tuệ  
Như chúng ta đều biết, trường đại học hiện  
đại đầu tiên trên thế giới được Wilhelm von  
Humboldt thành lập năm 1809 tại Berlin. Kể từ  
thời điểm đó, thiết chế đặc biệt này đã có những  
thay đổi đáng kể về mặt chức năng. Theo chúng  
tôi, trường đại học hiện nay có bốn chức năng  
cơ bản. Các chức năng này xuất hiện trong và  
do những điều kiện lịch sử cụ thể. Tầm quan  
trọng của chúng cũng thay đổi theo các điều  
kiện lịch sử khác nhau.  
Chức năng đầu tiên của của đại học là dạy  
nghề, hay “đào tạo nhân lực”. Đó cũng là chức  
năng truyền thống, gắn liền với các trường đại  
học từ thời Trung cổ.  
Trong trường đại học Trung cổ phương  
Tây, như Immanuel Kant đã phân tích trong  
Xung đột giữa các khoa (The Conflict of the  
Faculties), các khoa được phân thành hai đẳng  
cấp, gồm ba Thượng khoa là Thần học, Luật  
học và Y học, một Hạ khoa, là Triết học (bao  
gồm cả các ngành khoa học xã hội và nhân  
văn). Các Thượng khoa nằm trong mối quan  
tâm của quyền lực nhà nước vì chúng dạy người  
dân tuân theo các quy tắc xã hội, nghĩa là đào  
tạo các thần dân, những người thừa hành, còn  
Hạ khoa (Khoa Triết học), ngược lại, bị coi  
thường vì nó chỉ dạy việc sử dụng lý trí một  
cách tự do [3].  
Các trường đại học trung cổ phương Đông  
cũng có bản chất dạy nghề tương tự. Mục đích  
chủ yếu của giáo dục đại học ở Trung Hoa và  
Việt Nam, chẳng hạn, là đào tạo quan lại cho bộ  
máy cai trị - nói bằng ngôn ngữ hiện đại thì đó  
là trường “quản trị công”. Tóm lại, đại học  
trung cổ về bản chất là trường nghề.  
Chức năng Khai sáng là chức năng cốt lõi  
của đại học hiện đại mà cha đẻ tinh thần là  
Immanuel Kant. Theo Kant và các nhà tư tưởng  
N.T. Lap / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 11-18  
14  
càng quan trọng có thể mua bán, trao đổi trên  
thị trường, nhiều trường đại học phương Tây trở  
thành những tập đoàn kinh doanh giáo dục. Họ  
thành lập những bộ phận “Giáo dục quốc tế”,  
chuyên khai thác thị trường giáo dục ở các nước  
đang phát triển. Nhiều học giả trên thế giới gọi  
đó là “Chủ nghĩa thực dân học thuật.”  
việc đáp ứng nhu cầu ấy cũng đang trở thành  
một dịch vụ tự nhiên và lành mạnh.  
Dĩ nhiên, tất cả các trường đại học đều ít  
nhiều phải thực hiện cả bốn chức năng, nhưng  
mức độ thì khác nhau. Trong nền giáo dục đại  
học của một quốc gia như Việt Nam hiện nay,  
theo chúng tôi, cần có một số ít trường đại học  
tinh hoa, có nhiệm vụ đào tạo các trí thức, các  
nhà lãnh đạo tinh hoa, đóng vai trò tiên phong  
về trí tuệ của dân tộc. Các trường này tuyển  
sinh khắt khe và hạn chế về số lượng, nhưng  
cần được đầu tư rất tốt từ ngân sách nhà nước -  
về bản chất đó là sự đầu tư của cả dân tộc để  
đào tạo nhân tài. Có lẽ Việt Nam hiện nay chỉ  
nên có hai hoặc ba trường như vậy. Bên cạnh  
đó, Việt Nam nên có một số trường đại học  
nghiên cứu thực hành, có khả năng thực hiện  
chức năng sản xuất, gắn kết nghiên cứu với sản  
xuất. Đầu tư cho các trường này một phần đến  
từ ngân sách nhà nước, một phần khác đến từ  
các hợp đồng sản xuất. Số trường như vậy ở  
Việt Nam có lẽ chỉ nên chiếm khoảng 20% đến  
25%. Các trường còn lại, tức là khoảng 75%  
đến 80%, nên tập trung vào giảng dạy và chủ  
yếu thực hiện chức năng đào tạo nhân lực và  
đáp ứng nhu cầu phát triển cá nhân, tức là cung  
cấp dịch vụ mỹ phẩm trí tuệ. Đầu tư cho các  
trường đại học này chủ yếu đến từ thị trường.  
Người học trả học phí cho trường đại học như  
là khoản đầu tư cá nhân để nhận được dịch vụ  
đào tạo nhân lực, sau đó sẽ thu hồi khi làm việc  
trong tương lai. Một số công ty cũng có thể đầu  
tư bằng cách trả học phí cho nhân lực tương lai  
của họ. Đối với đầu tư cho các trường cung cấp  
dịch vụ mỹ phẩm trí tuệ, chúng ta nên để thị  
trường điều tiết.  
Chức năng thứ tư là chức năng phát triển  
cá nhân, một chức năng nổi lên cùng với sự  
phát triển đến một trình độ tương đối cao của xã  
hội. Để hiểu chức năng này, chúng ta có thể  
hiên hệ với dịch vụ làm đẹp. Ở các xã hội có  
trình độ phát triển thấp, việc làm đẹp là xa xỉ  
đối với đại đa số người dân. Nhưng khi xã hội  
sung túc hơn, việc làm đẹp trở nên phổ biến.  
Nhiều loại mỹ phẩm mới ra đời, và không chỉ  
phụ nữ trẻ, mà cả người già, nam giới cũng có  
nhu cầu làm đẹp. Bây giờ quần áo không chỉ có  
chức năng giữ ấm mà còn có chức năng trang  
điểm cho cơ thể. Các đồ đạc, nhà cửa ngày  
càng mang nhiều chức năng thẩm mỹ ngoài các  
công dụng thông thường. Người ta còn áp dụng  
cả các thành tựu y học vào việc làm đẹp. Giải  
phẫu thẩm mỹ trở thành một trào lưu ở nhiều  
nước. Nhu cầu làm đẹp dẫn đến sự hình thành  
của cả một nền kinh tế làm đẹp.  
Nhưng nhu cầu làm đẹp không chỉ dừng ở  
các khía cạnh vật chất, mà còn thể hiện ở cả  
phương diện tinh thần, đặc biệt là về mặt trí tuệ.  
Con người trong xã hội càng phát triển càng có  
nhu cầu hiểu biết, không phải để trở thành  
“nhân lực chất lượng cao”, mà nhằm tự hoàn  
thiện. Nhiều người đã có bằng cấp và việc làm  
vẫn đăng ký học các chuyên ngành khác. Ở Hàn  
Quốc, do truyền thống, nhiều phụ nữ ngừng đi  
làm sau khi lập gia đình nhưng vẫn theo học tại  
các trường đại học, và tỷ lệ học sinh tốt nghiệp  
phổ thông học lên đại học là 81-84%. Thật là vô  
lý khi đòi hỏi mọi sinh viên ra trường phải làm  
đúng ngành nghề đào tạo. Bởi lẽ, càng ngày  
càng có nhiều người học đại học đơn thuần chỉ  
vì sự phát triển cá nhân - chúng tôi xin gọi đó là  
một thứ “mỹ phẩm trí tuệ” (intellectual  
cosmetics). Nhu cầu về “mỹ phẩm trí tuệ” đang  
tăng lên không ngừng tại hầu hết các nước và  
đó một xu hướng tự nhiên và lành mạnh. Vì thế,  
Tóm lại, giáo dục đại học có những chức  
năng khác nhau, đòi hỏi cách tiếp cận khác  
nhau. Đó là một trong những lý do chúng ta  
không chi cần phải chấp nhận mà còn phải chủ  
động kinh doanh giáo dục đại học một cách hợp  
lý. Vấn đề là phải có một khuôn khổ pháp lý  
phù hợp và hiệu quả, bởi lẽ giáo dục, cũng như  
y tế, là một lĩnh vực đặc biệt, liên quan đến con  
người. Những trường đại học tư vì lợi nhuận  
vừa phải chịu sự điều chỉnh của luật doanh  
N.T. Lap / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 11-18  
15  
nghiệp vừa phải chịu sự điều chỉnh của luật  
giáo dục đại học.  
Nhưng taxi Uber và Grab chỉ là một ví dụ  
của xu hướng Uber hóa, mà, như chúng tôi đã  
viết ở trên, đang phát triển mạnh mẽ trong hầu  
như mọi lĩnh vực. Trong lĩnh vực cho thuê nhà  
ở chẳng hạn: những gia đình hoặc cá nhân có  
thừa một vài phòng trong một khoảng thời gian  
nhất định có thể thông qua một công ty dịch vụ  
kiểu Uber để cho những người có nhu cầu phù  
hợp thuê với cái giá thấp hơn so với giá khách  
sạn thông thường. Dịch vụ này giúp tăng thu  
nhập cho chủ căn hộ, tăng hiệu suất sử dụng  
của căn phòng nhưng người thuê cũng được  
hưởng lợi.  
Ý tưởng phát triển dịch vụ dùng chung cũng  
có thể áp dụng với những đồ vật hay dụng cụ  
khác. Ở Pháp, chẳng hạn, từng có một trào lưu  
mua thuyền buồm. Hàng ngàn chiếc thuyền  
buồm được mua và neo buộc tại các cảng khắp  
nước Pháp nhưng tần suất sử dụng rất thấp.  
Liệu có cần hoặc có nên mua những chiếc  
thuyền đắt tiền như vậy để chỉ sử dụng một vài  
lần mỗi năm? Rộng hơn, sự nhận thức lại về  
môi trường khiến chúng ta phải đặt câu hỏi: liệu  
có cần thiết không khi chúng ta sử dụng quá  
nhiều nguyên vật liệu để sản xuất những đồ vật  
ít khi dùng đến? Điều này đúng ngay cả với  
những đồ gia dụng thông thường. Ví dụ, trước  
đây mỗi gia đình thường có một bộ dụng cụ:  
một cái máy khoan, một cái cưa, một cái máy  
bơm mà tần suất sử dụng rất thấp, có những đồ  
cả năm không hề sử dụng lần nào. Rõ ràng, sẽ  
thông minh hơn nhiều nếu chúng ta thuê những  
dụng cụ này mỗi khi cần đến.  
3. Những thay đổi về mô hình hoạt động: từ  
Uber hóa đến đại học phi học đường  
3.1. Uber hóa như là một xu hướng  
Sự xuất hiện gần đây của Uber và Grab đã  
gây nên nhiều tranh cãi và phản đối, đặc biệt là  
từ phía các hãng taxi truyền thống và cả một số  
nhà quản lý. Nhưng xu hướng chia sẻ, mà  
chúng tôi gọi là “Uber hóa”, là một xu hướng  
đang trở nên ngày càng phổ biến trong tất cả  
lĩnh vực của xã hội. Giáo dục đại học dĩ nhiên  
cũng không phải là ngoại lệ. Cuộc cạnh tranh  
giữa taxi truyền thống và taxi Uber hiện nay  
thật ra đang phản ánh một cuộc đấu tranh có  
bản chất sâu xa hơn: cuộc đấu tranh giữa một  
phương thức kinh doanh cũ đang nhanh chóng  
trở thành lỗi thời với một phương thức kinh  
doanh mới thuộc về tương lai. Có thể nói rằng  
Uber hóa là một trong những biểu hiện tiêu biểu  
của nền kinh tế mới, hay cách mạng công  
nghiệp 4.0 như cách nói đang thời thượng  
hiện nay.  
Ý tưởng trung tâm của Uber và Grab là huy  
động xe hơi cá nhân tham gia vào hoạt động  
vận tải hành khách công cộng, nhờ đó tăng hiệu  
quả sử dụng của chúng: chủ xe có thêm thu  
nhập, khách hàng được giảm cước phí, thành  
phố bớt ùn tắc giao thông, môi trường đỡ bị hủy  
hoại nhờ giảm bớt khí thải.  
Thực ra ý tưởng này không mới. Từ nhiều  
thập niên trước, ở nhiều quốc gia đã có dịch vụ  
đi xe chung (tiếng Anh gọi là carpooling) -  
những người có nhu cầu sử dụng xe hơi tương  
đối giống nhau thỏa thuận đi chung xe để giảm  
chi phí mua, bảo trì và các chi phí khác liên  
quan đến xe hơi. Carpooling được nhiều chính  
phủ khuyến khích, nhưng trước kia không phổ  
biến lắm do việc kết nối hết sức phức tạp, khó  
khăn. Chính những tiến bộ vượt bậc của công  
nghệ thông tin, đặc biệt là internet, trong những  
năm gần đây đã cho phép giải quyết một cách  
hiệu quả việc tìm kiếm và kết nối giữa chủ xe  
và những người có nhu cầu sử dụng xe, biến ý  
tưởng này thành một hình thức vận tải đặc biệt  
hiệu quả.  
Xu hướng Uber hóa cũng có ảnh hưởng,  
hay ít nhất là liên quan, đến một lối sống mới  
đang hình thành: lối sống chia sẻ. Chẳng hạn,  
ngày càng có nhiều bạn trẻ không có chủ trương  
mua mà chỉ thuê nhà. Việc thuê nhà cho phép  
người ta sống trong những điều kiện tốt, dễ thay  
đổi tùy theo ý thích và công việc mà không đòi  
hỏi đầu tư lớn - điều cực kỳ quan trọng trong  
một xã hội không ngừng biến đổi, khi các cá  
nhân thường xuyên thay đổi nơi làm việc,  
thường xuyên di chuyển, thường xuyên thay đổi  
đối tác - không chỉ đối tác làm ăn mà cả đối tác  
trong quan hệ tình cảm.  
N.T. Lap / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 11-18  
16  
để khai thác chúng theo phương thức truyền  
Uber hóa là một xu hướng không thể tránh  
thống. Tuy nhiên, sự kết nói giữa các thư viện  
nhanh chóng chuyển sang một cấp độ sâu sắc  
hơn, đó là kết nối về nội dung: Các học liệu được  
số hóa và chia sẻ, cho phép người đọc dễ dàng tìm  
kiếm các học liệu cần thiết, và trong nhiều trường  
hợp, tải nội dung xuống để sử dụng. Việc tải nội  
dung học liệu xuống để sử dụng trong nhiều  
trường hợp là hoàn toàn miễn phí, nhưng ngay cả  
trong trường hợp mất phí thì chi phí cho việc mua  
tài liệu cũng giảm đi đáng kể.  
Nhưng xu hướng Uber hóa học liệu không  
chỉ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí, mà còn  
làm thay đổi cách chúng ta khai thác học liệu.  
Một ưu thế rất lớn của các tài liệu số hóa là khả  
năng liên kết - cả liên kết nội văn bản và lẫn  
liên kết liên văn bản, giúp người sử dụng tìm  
kiếm, trích dẫn và kiểm tra nguồn học liệu một  
cách nhanh chóng và chính xác.  
khỏi còn bởi vì trái đất của chúng ta đã quá tải,  
đã bị khai thác cạn kiệt. Uber hóa, vì thế, cũng  
là một thái độ văn minh trong ứng xử với thiên  
nhiên. Nó phản ánh sự trưởng thành đáng kể  
của nhân loại trong tư duy về tài sản. Trong quá  
khứ, do hoàn cảnh sống bấp bênh mà cội nguồn  
sâu xa là nền sản xuất thấp kém, người ta có xu  
hướng tích lũy tài sản càng nhiều càng tốt. Thế  
nhưng khi nền sản xuất đã phát triển hơn và  
năng suất lao động đã cao hơn, khi điều kiện  
sống đã được đảm bảo, con người sớm hay  
muộn cũng sẽ nhận thấy rằng việc tích trữ là  
không cần thiết. Về điểm này, chúng tôi thấy  
Marx đã tiên đoán rất chính xác. Nhiều người  
nghĩ rằng vì lòng tham của con người là vô bờ  
bến nên không thể có cái viễn cảnh đẹp đẽ  
“Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” của  
chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng thực tiễn đang  
cho thấy rằng cuộc sống sẽ thay đổi. Phương  
thức sản xuất thay đổi thì tâm lý con người ta  
cũng sẽ thay đổi. Khi nền kinh tế tri thức lên  
ngôi, khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  
tư cho phép đảm bảo ở mức cao các nhu cầu vật  
chất và tinh thần của con người, cái nhu cầu  
tích trữ và lòng tham tưởng chừng cố hữu của  
con người cũng sẽ ngày càng giảm đi.  
Uber hóa cơ sở vật chất  
Ngoài học liệu, xu hướng Uber hóa cũng  
xuất hiện và rất nên được khuyến khích trong  
việc quản lý và khai thác các cơ sở vật chất, hậu  
cần khác phục vụ cho công tác dạy và học. Hiện  
nay, mỗi trường đại học, mỗi viện nghiên cứu  
đều có những có sở vật chất tương tự nhau: hội  
trường lớn, hội trường nhỏ, phòng học, thư  
viện, phòng thí nghiệm, sân vận động, bể bơi,  
phòng tập thể thao và vô số các thiết bị chuyên  
dụng… Rất nhiều trong số những cơ sở vật chất  
đó có tần suất sử dụng rất thấp. Việc Uber hóa  
sẽ giúp các cơ sở đào tạo đại học tổ chức, khai  
thác và sử dụng các cơ sở vật chất và hậu cần  
hiệu quả hơn. Chẳng hạn, nhờ các ứng dụng của  
công nghệ thông tin, một nhóm các trường đại  
học và viện nghiên cứu có thể luân phiên sử  
dụng chung các hội trường, quảng trường…  
Uber hóa không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sử  
dụng các cơ sở vật chất, tiết kiệm ngân sách,  
tiết kiệm nguồn lực, nó còn giúp cải thiện chất  
lượng đào tạo và nghiên cứu nhờ hợp lý hóa và  
tối ưu hóa các nguồn lực.  
3.2. Xu hướng Uber hóa trong giáo dục đại học  
Bây giờ xin trở lại đề tài của chúng ta về  
giáo dục đại học. Những cuộc thảo luận gần đây  
ở Việt Nam về đại học 4.0 đề cập đến nhiều  
khía cạnh, nhưng theo chúng tôi, khía cạnh  
quan trọng nhất chính là xu hướng Uber hóa các  
nguồn lực, bao gồm cả nhân lực, vật lực và  
chương trình đào tạo.  
Uber hóa học liệu  
Xu hướng Uber hóa học liệu là hệ quả trực  
tiếp của công nghệ số và internet và quá trình  
này vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách mạnh  
mẽ và toàn diện.  
Uber hóa học liệu bắt đầu bằng sự kết nối  
đơn thuần về mặt thông tin giữa các thư viện  
thông qua internet nhằm giúp người đọc xác lập  
được sự tồn tại và tình trạng của các học liệu cụ  
thể tại các địa chỉ cụ thể, từ đó có thể tiếp cận  
Uber hóa giảng viên  
Theo chúng tôi, rất nhiều quy định lien  
quan đến giảng viên không chỉ ở Việt Nam mà  
cả trên thế giới đang trở thành lạc hậu so với  
N.T. Lap / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 11-18  
17  
thực tiễn. Chẳng hạn, trong quy định về mở  
ngành đào tạo ở bậc đại học, Thông tư năm  
2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam  
yêu cầu cơ sở đại học phải có tối thiểu 10 giảng  
viên cơ hữu có trình độ thạc sĩ trở lên cùng  
ngành hoặc ngành gần với ngành đăng ký đào  
tạo, trong đó ít nhất 1 tiến sĩ và 4 thạc sĩ, hoặc 2  
tiến sĩ và 2 thạc sĩ cùng ngành đăng ký đào tạo.  
Thông tư này cũng quy định, giảng viên cơ hữu  
phải giảng dạy tối thiểu 70% khối lượng  
chương trình đào tạo. Trong hoạt động đảm bảo  
chất lượng, người ta cũng đòi hỏi các đơn vị  
đào tạo phải đảm bảo một tỷ lệ giảng viên và  
diện tích sử dụng trên đầu sinh viên, học  
viên [5].  
Chúng tôi cho rằng những quy định như vậy  
đã lỗi thời, bởi vì trong xã hội chia sẻ hiện nay,  
chúng ta cần phải tối ưu hóa việc sử dụng các  
nguồn lực, cả nguồn lực con người lẫn nguồn  
lực vật chất, bằng cách chia sẻ. Nói cách khác,  
điều cần làm là Uber hóa chúng để nâng cao  
hiệu quả sử dụng, chứ không nên xem các  
nguồn lực đó như là những nguồn dự trữ. Xin  
lấy ví dụ, khi mở ngành, điều quan trọng nhất là  
nhu cầu của xã hội. Khi có nhu cầu của hội  
thì có người học, và khi có người học thì sẽ có  
người dạy. Chúng ta cũng không nhất thiết phải  
quy định cứng nhắc về giảng viên cơ hữu, bởi  
vì là các giảng viên chỉ đảm nhiệm một vài môn  
nhất định và điều quan trọng là họ giảng dạy  
như thế nào, chứ không phải là họ thuộc biên  
chế ở đâu. Một số môn học có thời lượng rất ít  
trong mỗi chương trình, giảng viên phụ trách  
môn học ấy cần phải dạy cho nhiều trường. Quy  
định về ngành đúng và ngành gần cũng có vấn  
đề, bởi nó hạn chế tính sáng tạo của giảng viên,  
đặc biệt trong thời đại hiện nay, khi tính liên  
ngành đang ngày càng trở thành một đòi hỏi  
của tất cả các ngày đào tạo.  
người thầy cần đặt trong một bức tranh rộng lớn  
hơn, đó là xu hướng Uber hóa chương trình và phi  
học đường hóa giáo dục đại học.  
Dựa trên nền tảng là kho học liệu số hóa và  
Uber hóa nhờ kết nối internet, thêm nữa, với sự  
hỗ trợ ngày càng hiệu quả của trí tuệ nhân tạo,  
người học ngày càng ít cần đến sự hướng dẫn  
của thầy. Trong tương lai không xa, người học  
thậm chí không cần đến nhà trường - Điều quan  
trọng bây giờ là: người học tiếp thu nội dung  
bài học như thế nào, chứ không phải là tiếp thu  
ở đâu. Chúng ta có thể tiên đoán rằng đã đến  
lúc các trường đại học chỉ cần công bố chương  
trình cùng nội dung các môn học và yêu cầu cần  
phải đạt được sau khi hoàn thành các môn học  
ấy, còn người học có toàn quyền lựa chọn học ở  
đâu và dưới hình thức nào. Nếu người học thi  
đạt yêu cầu các môn học và tích lũy đủ số tín  
chỉ, họ có thể được cấp bằng.  
Như vậy, nếu công tác khảo thí cũng do  
một tổ chức độc lập tiến hành thì có lẽ vai trò  
của trường đại học chủ yếu sẽ chỉ còn ở công  
việc soạn thảo chương trình. Nói cách khác,  
trường đại học thực chất chỉ còn là xưởng thiết  
kế chương trình mà thôi.  
4. Thay lời kết: Từ tinh hoa đến phổ cập và  
đại học cá nhân hóa  
Những phân tích trên đây cho thấy rằng  
giáo dục đại học đã và đang thay đổi căn bản về  
chất. Từ một thiết chế đặc biệt chỉ dành cho  
giới tinh hoa, trường đại học đã trở thành một  
thiết chế đại chúng sau những biến cố năm  
1968. Kể từ đó, giáo dục đại học ngày càng  
mang tính phổ cập. Nhưng tác động của các  
công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin,  
cùng với sự phổ biến của internet và trí tuệ  
nhân tạo đang thúc đẩy xu hướng Uber hóa còn  
khiến cho giáo dục đại học thay đổi nhanh  
chóng và sâu sắc hơn. Giáo dục đại học đang  
ngày càng trở nên cá nhân hóa. Điều này đồng  
nghĩa với sự suy giảm vai trò của trường đại  
học và rất có thể cũng là sự tiêu vong của thiết  
chế đặc biệt này.  
Uber hóa chương trình và sự xuất hiện của  
đại học phi học đường  
Quy định cứng nhắc về giảng viên cơ hữu còn  
lỗi thời vì một lý do khác thậm chí còn quan trọng  
hơn: với sự phát triển của công nghệ thông tin, vai  
trò của người thầy ngày càng trở nên không cần  
thiết nữa. Đến lượt mình, sự suy giảm vai trò của  
N.T. Lap / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 11-18  
18  
[2] Readings, Bill, The University in Ruins,  
Lời cảm ơn  
Cambridge: Harvard U.P, 1996.  
Nghiên cứu này được Đại học Quốc gia Hà  
Nội tài trợ trong khuôn khổ đề tài mã số  
QG.18.41.  
[3] Kant, Immanuel, The Conflict of the Faculties  
[1798], trans. Mary J. Gregor, New York: Abaris  
Books, 1979.  
[4] Kant, Immanuel, What is Enlightenment? 1784.  
Tài liệu tham khảo  
[5] Bộ giáo dục và đào tạo, Thông tư Số 22/2017/TT-  
BGDĐT, Ban hành Quy định điều kiện, trình t, thủ  
tc mngành đào to và đình chtuyn sinh, thu hi  
quyết định mngành đào to trình độ  
đại học.  
[1] Graff, Gerald, Beyond the Culture Wars: How  
Teaching the Conflicts Can Revitalize American  
Education, New York: Norton, 1993.  
pdf 8 trang yennguyen 16/04/2022 1340
Bạn đang xem tài liệu "Những xu hướng thay đổi và tương lai của giáo dục đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnhung_xu_huong_thay_doi_va_tuong_lai_cua_giao_duc_dai_hoc.pdf