Nghiên cứu tác dụng chống tổn thương phổi cấp của bài thuốc cổ truyền để ứng dụng điều trị Covid-19

NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Nghiên cứu tác dụng  
chống tổn thương phổi cấp của bài thuốc  
cổ truyền để ứng dụng điều trị Covid-19  
Bùi Thị Thu Hiền1, Nguyễn Thanh Hằng1, Trần Thị Thu Huyền1, Hoàng Văn Nghĩa2  
Nguyễn Thái Biềng 1, Chử Văn Mến 1, Hồ Anh Sơn 1, Trần Bá Hiếu1  
1Học viện Quân y  
2Khoa Y học Cổ truyền, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y  
TÓM TẮT  
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng chống tổn thương  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Đại dịch COVID-19 do vi rút Corona chủng mới  
phổi cấp của bài thuốc YCT trên động vật thực (SARS-CoV-2) xuất hiện tại Vũ Hán vào cuối năm  
nghiệm để phát triển ứng dụng trong điều trị 2019 đang đe dọa nghiêm trọng sức khỏe nhân loại  
Covid-19.  
và sự phát triển kinh tế xã hội của mọi quốc gia trên  
Phương pháp nghiên cứu: Chuột nhắt trắng thế giới [1]. Do chưa có vaccine phòng bệnh cũng  
được gây tổn thương phổi cấp bằng acid oleic. Hình như chưa có thuốc điều trị đặc hiệu viêm phổi do  
ảnh giải phẫu bệnh lý, tỷ lệ trọng lượng ướt/khô của SARS-CoV-2 vì vậy điều trị các triệu chứng nghiêm  
phổi và tần suất hô hấp được dùng để đánh giá tác trọng để hạn chế tổn thương và giảm nguy cơ tử  
dụng điều trị và dự phòng tổn thương phổi cấp của vong là sách lược chính trong điều trị hiện nay [2].  
bài thuốc.  
Trong các tài liệu Đông dược kinh điển có từ  
Kết quả: So với nhóm mô hình và nhóm dùng hơn 2000 năm nay đã ghi chép rất nhiều bài thuốc  
Ambroxol, nhóm điều trị và dự phòng bằng bài vị thuốc có tác dụng hiệu quả trong điều trị các bệnh  
thuốc YCT giúp giảm tần suất hô hấp, giảm tỷ lệ liên quan đến hô hấp. Dược lý học hiện đại đã chứng  
trọng lượng ướt/khô của phổi, giảm tổn thương minh các vị thuốc trong các bài thuốc này không chỉ  
sung huyết phổi trên đại thể và vi thể.  
có tác dụng kháng viêm, tiêu đờm, giảm tiết dịch  
Kết luận: Bài thuốc YCT giúp cải thiện chức mà còn có tác dụng điều tiết chức năng miễn dịch  
năng hô hấp của phổi bị tổn thương do axit oleic, của cơ thể. Trong thập kỷ qua, các nhà khoa học  
hiệu quả điều trị tốt hơn so với thuốc đối chứng đã xác định được nhiều hoạt chất trong dược liệu  
Ambroxol.  
có hoạt tính chống SARS-CoV. Do sự tương đồng  
Từ khóa: Tn thương phổi cấp, Covid-19, axit của SARS-CoV và SARS-CoV-2, những nghiên cứu  
oleic.  
trước đây có thể làm sáng tỏ các hợp chất tự nhiên  
Ngày nhận bài: 04/11/2020  
Ngày phản biện: 15/12/2020  
Ngày chấp nhận đăng: 23/12/2020  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
0
75  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
có khả năng ức chế SARS-CoV-2 [3, 4].  
Phương pháp nghiên cứu  
Do vậy để giải quyết những nhu cầu bức thiết iết kế nghiên cứu  
trong điều trị COVID-19 hiện nay chúng tôi đề  
Dung dịch acid oleic được pha với tỷ lệ: Oleic:  
xuất nghiên cứu chọn lọc xây dựng bài thuốc điều EtOH 70: EtOH 96 (2:7:0.5)  
trị triệu chứng tổn thương phổi cấp, đây là triệu  
Chuột được gây viêm phổi bằng acid oleic (0.16  
chứng nghiêm trọng nhất dẫn đến tử vong bởi đại ml/kg) tiêm tĩnh mạch, nhóm chứng âm được tiêm  
dịch này. Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng dung dịch cồn với cùng thể tích.  
mô hình tổn thương phổi cấp bằng axit oleic trên  
Động vật nghiên cứu 46 chuột nhắt trắng được  
chuột nhắt trắng để đánh giá hiệu quả điều trị của phân làm 5 nhóm:  
bài thuốc. Bài thuốc này được chọn lọc và kết hợp từ  
1) Nhóm 1 (n=6) chứng âm: tiêm dung dịch  
hai phương thuốc kinh điển trong điều trị các triệu cồn và uống NaCl 0,9% (0.3 ml/ngày).  
chứng liên quan đến hô hấp trong y học cổ truyền,  
2) Nhóm 2: (n=8) gây mô hình: tiêm acid oleic  
với các vị thuốc là ma hoàng, hạnh nhân, bán hạ, và uống NaCl 0,9% (0.3 ml/ngày).  
trạch tả, phục linh, mà tác dụng và tính an toàn được  
chứng minh qua hàng trăm năm sử dụng.  
3) Nhóm 3: (n=8) chứng dương điều trị: tiêm  
acid oleic và uống Ambroxol (0.3 ml /ngày) sau khi  
tiêm 5 ngày.  
NGUYÊN VẬT LIỆU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG  
PHÁP NGHIÊN CỨU  
Nguyên liệu, thiết bị và động vật nghiên cứu  
Nguyên liệu  
4) Nhóm 4: (n=8) điều trị: tiêm acid oleic và  
uống dịch chiết của bài thuốc, (0.3 ml /ngày) sau  
khi tiêm 5 ngày.  
5) Nhóm 5: (n=8) chứng dương dự phòng:  
Dược liệu của bài thuốc bao gồm ma hoàng, uống Ambroxol (0.3 ml /ngày) trước khi tiêm 3  
hạnh nhân, bán hạ, phục linh, trạch tả...được mua ngày, acid oleic được tiêm ở ngày thứ 4, sau đó chuột  
từ Công ty cổ phần Dược liệu Việt Nam. Siro được tiếp tục uống thuốc cho đến ngày thứ 5.  
Ambroxol, lọ 50 ml: 30 mg/5 ml được mua từ Công  
6) Nhóm 6: (n=8) nhóm dự phòng: uống dịch  
ty cổ phần Dược DANAPHA - Việt Nam. Acid chiết của bài thuốc, (0.3 ml /ngày) trước khi tiêm 3  
Oleic được mua từ Sigma-Aldrich-Mỹ  
iết bị  
ngày, acid oleic được tiêm ở ngày thứ 4, sau đó chuột  
được tiếp tục uống thuốc cho đến ngày thứ 5.  
Trừ nhóm dự phòng chuột được cho uống dịch  
Bộ dụng cụ dùng để tiêm và cho chuột uống  
thuốc, bộ dụng cụ lấy máu chuột (vial tráng EDTA chiết trước khi gây mô hình 4 ngày, các nhóm khác  
K2, mao quản), cân phân tích 10-4, model CP224S, sau khi gây mô hình chuột được phân ngẫu nhiên  
Sartorius - Đức, máy xét nghiệm huyết học tự động vào các nhóm và cho uống thuốc 5 ngày.  
XE2100, hãng Sysmex, hệ thống PowerLab, AD eo dõi trọng lượng chuột  
Instrument-Mỹ.  
Động vật thí nghiệm  
Chuột được cân xác định trọng lượng ở các thời  
điểm: trước khi tiêm và ngày thứ 2, 4 trong quá trình  
Chuột nhắt trắng chủng Swiss, cả hai giống, điều trị.  
khỏe mạnh, cân nặng 20,0 2,0g. Động vật được Đánh giá chức năng hô hấp của chuột  
nuôi trong phòng thí nghiệm, ánh sáng tự nhiên,  
Chức năng hô hấp của chuột được đo ở các thời  
uống nước và ăn thức ăn được nấu chín, bảo đảm điểm: trước khi tiêm, sau khi tiêm 6 giờ, 24h, 72h và  
theo nhu cầu.  
ngày thứ 5.  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
76  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Quan sát đại thể và đánh giá lượng nước trong hơn, lông hơi xù. Ở các nhóm dự phòng và điều trị  
phổi chuột  
chuột thở nhanh và gấp hơn so với nhóm chứng âm  
Sau 5 ngày, chuột được giết và bóc tách phổi để nhưng chậm hơn so với nhóm mô hình.  
quan sát mức độ phù và xung huyết phổi.  
* Quan sát hình hành đại thể, cân trọng lượng phổi.  
500  
P<0.01  
* Xác định lượng nước trong phổi chuột:  
Phổi của chuột được bóc tách khỏi lồng ngực  
P<0.01  
400  
được rửa sạch bằng nước muối sinh lý thấm khô  
bằng giấy thấm hoặc bông.  
300  
- Cân ngay lập tức để ghi trọng lượng ướt của  
200  
phổi.  
- Sau khi sấy khô 24h ở 60oC phổi được cân lại  
100  
lần nữa để ghi trọng lượng khô.  
Tỷ lệ trong lượng ướt/khô của phổi = trọng lượng  
0
ướt/trọng lượng khô × 100%  
l
l
o
T
m
C
C
a
x
o
a
Y
h
N
r
+
S
+
b
A
Hình ảnh giải phẫu bệnh vi thể của phổi chuột  
ùy dưới phổi phải được cố định trong 10%  
paraformaldehyd, nhúng trong parafin và nhuộm  
màu HE. Ba phần của phổi được chọn để nhuộm HE.  
Xử lý số liệu  
Các dữ liệu được phân tích bằng phần mềm  
GrapPad Prism 8. Số liệu được trình bày dưới dạng  
giá trị trung bình độ lệch chuẩn (X SD) hoặc  
tỷ lệ phần trăm. So sánh các giá trị trung bình bằng  
independent t-test. So sánh các biến liên tục trước  
và sau điều trị được thực hiện với thuật toán paired  
t-test hoặc Wilcoxon (đối với biến phi tham số). So  
sánh các biến định tính bằng kiểm định χ2. Giá trị  
P< 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê.  
A
m
O
O
A
+
A
O
Hình 1. Tn suất hô hấp giữa các nhóm điều trị ở ngày  
thứ 5  
Kết quả đo tần số hô hấp cho thấy so với nhóm  
chứng âm, nhóm gây mô hình bằng acid oleic tần  
suất hô hấp tăng lên với P<0,01 khi so sánh ở tất cả  
các thời điểm. Trong nhóm mô hình tần số hô hấp  
không có sự cải thiện đáng kể giữa các ngày.  
500  
400  
300  
200  
100  
0
P<0.05  
P<0.01  
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
Trọng lượng  
Trọng lượng chuột ở các ngày đo cân nặng  
không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm.  
Chức năng hô hấp  
Quan sát đặc trưng bên ngoài cho thấy, ở nhóm  
chứng âm chuột thở đều, hoạt bát, mắt trong và lông  
l
l
o
T
m
C
C
a
x
o
a
Y
h
N
r
+
S
+
b
A
A
m
O
O
A
+
A
O
mượt. So với nhóm chứng âm, nhóm gây mô hình Hình 2. Tn suất hô hấp giữa các nhóm điều trị ở ngày  
bằng acid oleic chuột thở nhanh và gấp, vận động ít thứ 3  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
0
77  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Ở nhóm điều trị bằng Ambroxol so với nhóm  
Khi so sách giữa nhóm dự phòng bằng YCT  
mô hình điều trị bằng Ambroxol không có sự cải và nhóm dự phòng bằng Ambroxol tần số hô hấp  
thiện về tần suất hô hấp với P>0,05 khi so sánh ở không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm.  
tất cả các thời điểm. Trong nhóm điều trị bằng Tuy nhiên ở nhóm dự phòng bằng YCT tần số hô  
Ambroxol tần số hô hấp không có sự cải thiện đáng hấp ở thời điểm 24h giảm xuống so với thời điểm  
kể giữa các ngày.  
6h (P<0.05).  
600  
Tỷ lệ trong lượng ướt/khô của phổi  
Ở nhóm điều trị bằng Ambroxol tỷ lệ trong  
lượng ướt/khô của phổi không có sự khác biệt ý  
nghĩa so với nhóm mô hình. Tuy nhiên ở nhóm  
điều trị bằng YCT tỷ lệ trong lượng ướt/khô của  
phổi giảm xuống có ý nghĩa so với nhóm mô  
hình (P<0,05) và nhóm điều trị bằng Ambroxol  
(P<0,05).  
P<0.05  
400  
200  
0
l
l
o
T
m
C
C
a
x
o
a
Y
h
N
r
+
S
+
b
A
A
m
O
O
P<0.05  
A
+
A
6
O
P<0.05  
Hình 3. Tn suất hô hấp giữa các nhóm điều trị lúc 6h  
sau khi tiêm acid oleic  
4
Ở nhóm điều trị bằng bài thuốc YCT so với  
nhóm mô hình, tần số hô hấp giảm có ý nghĩa ở  
ngày thứ 3 (P<0,05) và thứ 5 (P<0,01). So với  
nhóm điều trị bằng Ambroxol điều trị bằng YCT  
giúp giảm tần số hô hấp ở thời điểm 6h (P<0,05),  
ngày thứ 3 (P<0,01) và ngày thứ 5 (P<0,01). Trong  
nhóm điều trị bằng YCT tần số hô hấp ở ngày thứ 5  
giảm có ý nghĩa so với lúc 6h (P<0,05).  
2
0
l
l
o
T
m
C
C
a
x
o
a
Y
h
N
r
+
S
+
b
A
A
m
O
O
A
+
A
500  
O
P<0.05  
400  
300  
200  
100  
0
Hình 5. Tỷ lệ trọng lượng ướt/khô của  
phổi giữa các nhóm điều trị  
Khi so sánh giữa nhóm dự  
phòng bằng YCT và nhóm dự  
phòng bằng Ambroxol tỷ lệ trong  
lượng ướt/khô của phổi ở nhóm  
dự phòng dùng YCT nhỏ hơn có ý  
nghĩa so với nhóm dự phòng bằng  
Ambroxol (P<0,05).  
6h  
24h  
6h  
24h  
Pre-Ambroxol+OA  
Pre-YCT+OA  
Hình 4. Tn suất hô hấp giữa các nhóm dự phòng lúc  
6h và 24h sau khi tiêm acid oleic  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
78  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
8
6
4
2
0
Hình ảnh đại thể phổi  
P<0.05  
Quan sát hình ảnh phổi cho thấy, ở nhóm  
chứng âm phổi màu hồng nhạt, kích thước  
nhỏ hơn. Ở các nhóm khác phổi màu hồng  
đậm hơn do có biểu hiện xung huyết, kích  
thước phổi lớn hơn so với nhóm chứng âm.  
Ngoài ra ở nhóm điều bằng YCT mức độ  
xung huyết nhẹ hơn, màu sắc phổi nhạt hơn  
so với nhóm điều trị bằng Ambroxol. Tương  
tự ở nhóm dự phòng bằng YCT mức độ xung  
huyết và màu sắc phổi cũng nhẹ hơn so với  
nhóm điều trị bằng Ambroxol.  
Pre-Ambroxol+OA Pre-YCT+OA  
Hình 6. Tỷ lệ trọng lượng ướt/khô của phổi giữa hai  
nhóm dự phòng  
Hình 7. Hình ảnh đại thể phổi giữa các nhóm  
Kết quả giải phẫu bệnh  
có nơi bị xơ hóa với các tế bào sợi tăng sinh.  
Ở nhóm chứng âm phổi có tổn thương sung  
Ở nhóm điều trị bằng Ambroxol có tổn thương  
huyết nhẹ: các mao mạch máu ở vách phế nang bị sung huyết ở phổi: các mao mạch phế nang và các  
sung huyết. Các phế nang lòng rộng và sáng. mạch máu bị sung huyết mạnh, vách phế nang dày.  
Ở nhóm gây mô hình bằng acid oleic phổi có Vách phế nang còn có nhiều đại thực bào mà bào  
các tổn thương sung huyết: các mao mạch hô hấp bị tương chứa sắc tố máu màu vàng nâu do hồng cầu  
sung huyết mạnh, vách phế nang dày hơn nhóm 1, thoát mạch tạo nên.  
Hình 8. Hình ảnh giải phẫu bệnh phổi các nhóm  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
0
79  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Ở nhóm điều trị bằng YCT có tổn thương sung biểu mô niêm mạc phế quản, mất lông chuyển và  
huyết ở phổi: các mao mạch phế nang và các mạch dị sản gai. Hình ảnh mô học tổn thương pha sớm  
máu bị sung huyết mạnh, vách phế nang dày. Có ổ trong nhiễm SARS- CoV thường kết hợp với tổn  
viêm nhỏ cạnh phế quản gian tiểu thùy, gồm chủ thương phế nang lan tỏa trong khi ở pha muộn có  
yếu là các tế bào lympho.  
sự kết hợp tổn thương phá hủy phế nang với hiện  
Ở nhóm dự phòng bằng Ambroxol có tổn tượng xơ hóa cấp tính và tổ chức hóa phổi [6]. Cơ  
thương của phù phổi cấp: các phế nang chứa dịch chế sinh bệnh nền tảng những trường hợp SARS-  
phù màu hồng, các mao mạch máu ở vách phế CoV nặng cho đến nay còn chưa được đầy đủ. Tn  
nang sung huyết và xuất huyết. Lòng phế nang thương phổi lan rộng tỏ ra là có kết hợp với tải lượng  
rải rác có các đại thực bào bào tương chứa các hạt virus ban đầu, tăng thâm nhiễm tế bào monocyte,  
Hemosiderin.  
macrophage, và neutrophil ở phổi và tăng ngưỡng  
Ở nhóm dự phòng bằng YCT có tổn thương huyết thanh các cytokines, chemokines tiền viêm.  
của phù phổi cấp, các phế nang chứa dịch phù màu Do vậy, lâm sàng xấu đi trong SARS-CoV có thể do  
hồng, các mao mạch máu ở vách phế nang xung kết hợp giữa hiệu ứng trực tiếp tế bào-virus với đáp  
huyết và xuất huyết. Một số có tổn thương xung ứng miễn dịch bệnh lý được hình thành do tạo ra  
huyết ở phổi:các mao mạch phế nang và các mạch quá mức cytokine (bão cytokine) [7].  
máu bị xung huyết mạnh, vách phế nang.  
Mô hình động vật cung cấp cầu nối giữa bệnh  
nhân và các nghiên cứu tại phòng thí nghiệm.  
Các giả thuyết được tạo ra trong các nghiên cứu  
BÀN LUẬN  
Những nghiên cứu giải phẫu bệnh của bệnh ở người có thể được thử nghiệm trực tiếp trên các  
nhân tử vong do Covid-19 cho thấy, trong khoang mô hình động vật và kết quả nghiên cứu trên tế  
phế nang xuất hiện tương, dịch fibrin và màng trong bào giản đơn giản hơn có thể được thử nghiệm  
suốt. Các tế bào tiết ra chủ yếu là bạch cầu đơn trên các mô hình động vật để đánh giá mức độ  
nhân và đại thực bào, và các tế bào đa nhân lớn rất phù hợp của chúng trên một hệ thống cơ thể  
dễ nhìn thấy. Một lượng đáng kể tế bào biểu mô hoàn chỉnh [8]. Trong nghiên cứu này bằng việc  
phế nang loại II tăng sinh trong đó một số tế bào tiêm tĩnh mạch acid oleic chúng tôi đã tạo được  
phân lý. Có thể nhìn thấy các phần bên trong các mô hình tổn thương phổi cấp có các triệu chứng  
tế bào biểu mô phế nang loại II. Mạch máu tại vách giống như những bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2  
ngăn phế nang bị xung huyết, phù nề, có sự xâm ở giai đoạn tiến triển và nặng.  
nhiễm của bạch cầu đơn nhân và tế bào lympho,  
Về mặt hô hấp trong quá trình thí nghiệm xác  
lòng mạch hình thành các cụng máu đông trong định liều gây tổn thương phổi bằng acid oleic quan  
suốt. Tchức phổi có huyết khu trú và hoại tử có sát thấy nhịp thở tăng lên với liều thấp và trung bình,  
thể gây nhồi máu xuất huyết. Một số phế nang trong khi đó nhịp thở giảm xuống và thường chuột  
xuất hiện thẩm thấu cơ học và xơ hóa kẽ phổi. Tn sẽ tử vong trong vòng 24 giờ khi tiêm tĩnh mạch  
thương đại thể nội tạng chiếm ưu thế ở các trường acid oleic liều cao. Trong khi đó điều trị bằng bài  
hợp tử vong gồm phù phổi, tăng thể tích phổi với thuốc YCT giúp giảm hẳn nhịp thở của chuột gây  
nhiều vùng tổn thương dạng sung huyết, sưng hạch tổn thương phổi cấp bằng acid oleic so với nhóm  
bạch huyết rốn phổi và bụng, giảm trọng lượng lách mô hình và nhóm điều trị bằng Ambroxol, từ đó  
[5]. Những thay đổi về hình thái bao gồm phá hủy giúp cải thiện đáng kể chức năng hô hấp của chuột.  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
80  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Về hình ảnh đại thể phổi các mô phổi của nhóm nang và các mạch máu bị sung huyết nhẹ hơn, vách  
chứng âm vẫn mềm mại với vẻ ngoài hơi hồng, phế nang mỏng hơn và mức độ viêm cũng thấp hơn  
trong khi các mô phổi của nhóm tiêm acid oleic cho so với nhóm mô hình và nhóm dùng Ambroxol.  
thấy xung huyết, xuất tiết và sưng ở các mức độ khác  
Tỷ lệ trọng lượng khô-ướt của các mô phổi trong  
nhau. Ngoài ra, giống như nhồi máu vùng tối có thể nhóm mô hình cao hơn nhóm chứng âm. Những dữ  
được quan sát trên bề mặt của nó, đồng thời có xuất liệu này chỉ ra rằng hàm lượng nước trong mô phổi  
hiết dịch tiết trong màng phổi. Tính thấm của vi của nhóm tiêm acid oleic đã tăng lên, cho thấy tính  
mạch phổi tăng lên rõ rệt, với sự gia tăng của nước thấm của phế nang tăng lên. Điều trị và dự phòng  
phổi ngoài phổi và rò rỉ chất lỏng giàu protein vào kẽ bằng bài thuốc YCT giúp giảm tỷ lệ trọng lượng khô  
và không gian không khí. Trong nghiên cứu này so ướt của phổi đó đã giảm lượng nước và tính thấm  
sánh hình ảnh đại thể phổi giữa các nhóm cho thấy của phổi so với nhóm mô hình cũng như nhóm điều  
cả nhóm điều trị và dự phòng bằng bài thuốc YCT trị và dự phòng bằng Ambroxol. Từ đó giúp giảm  
hình ảnh phổi sáng hơn, dịch màng phổi ít hơn so bớt tổn thương phổi và cải thiện cũng như phục hồi  
với nhóm mô hình và nhóm dùng Ambroxol. Điều chức năng hô hấp của phổi.  
đó chứng tỏ bài thuốc YCT dù dùng điều trị hay dự  
phòng đều giúp giảm mức độ xung huyết của phổi KẾT LUẬN  
cũng như dịch tiết từ đó hạn chế mức độ tổn thương  
phổi gây ra bởi acid oleic.  
Trong nghiên cứu này chúng tôi đã xây dựng  
thành công mô hình tổn thương phổi cấp với nhiều  
Về giải phẫu bệnh kết quả cho thấy thấy phù nề đặc điểm giống với tổn thương phổi gây ra bởi vi rút  
kẽ và mức độ phù nề không khí khác nhau, và một Sars-CoV-2. Dựa trên mô hình tổn thương phổi cấp  
số khu vực cho thấy thâm nhiễm xuất huyết lan rộng trong nghiên cứu này chúng tôi đã chứng minh tác  
với lắng đọng fibrin. Ngoài ra, có thâm nhiễm bạch dụng hiệu quả trong cả dự phòng và điều trị của bài  
cầu trung tính, thành phế nang dày và màng hyaline thuốc YCT. Kết quả cho thấy bài thuốc thông qua  
hoàn toàn tạo thành một cấu trúc giống như tổ ong giảm lượng dịch tiết, sung huyết phổi từ đó giúp cải  
trong phổi. Kết quả giải phẫu bệnh cũng cho thấy sử thiện chức năng hô hấp của phổi bị tổn thương do  
dụng bài thuốc YCT giúp giảm tổn thương phổi ở acid oleic, hiệu quả điều trị tốt hơn so với thuốc đối  
mức vi thể với các biểu hiện như các mao mạch phế chứng Ambroxl.  
ABSTRACT  
Objectives: In order to apply for the treatment of Covid-19, this study was carried out to investigate the  
therapeutic effect of traditional medicine YCT on mice with acute lung injury model.  
Methods: Acute lung injury was induced in the mice via the lateral tail vein injection of oleic acid.  
e histopathological of lung, lung wet-dry weight ratio and the respiratory rate were used to evaluate the  
therapeutic effect of YCT.  
Results: Compared to the model group and the Ambroxol group, the treatment and pre-treatment  
group with YCT decreased the respiratory rate and the wet/dry weight ratio of the lungs as well as mitigated  
congestive lung damage.  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
0
81  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Conclusion: YCT improved the respiratory function of lungs damaged by oleic acid and displayed a  
beter therapeutic effect than the control drug Ambroxol.  
Key wods: Acute lung injury, Covid-19, oleic acid.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Rolling updates on coronavirus disease (COVID-19) (Update: WHO characterizes COVID-19 as a  
pandemic). Tchức Y tế ế giới. Ngày 11 tháng 3 năm 2020.  
2. Huang, Chaolin; Wang, Yeming, et al. Clinical features of patients infected with 2019 novel coronavirus  
in Wuhan, China. Lancet,(20)30183-5.  
3. Lam T.T., Shum M.H., Zhu H.C., et al. Identifying SARS-CoV-2 related coronaviruses in Malayan  
pangolins. Nature, s41586-020-2169-0.  
4. Yang Yang, Sahidul Islam, Jin Wang, Yuan Li, and Xin Chen. Traditional chinese medicine in the  
treatment of patients infected with 2019-new coronavirus (sars-cov-2): a review and perspective. Int J Biol  
Sci. 2020; 16(10): 1708–1717.  
5. Haneen Amawi, Ghina'a I Abu Deiab, Alaa A. A. Aljabali, et al. COVID-19 pandemic: an overview of  
epidemiology, parthenogenesis, diagnostics and potential vaccines and therapeutics. er Deliv. 2020 Apr:  
10.4155/tde-2020-0035.  
6. Yung-Fang Tu, Chian-Shiu Chien, Aliaksandr A Yarmishyn, et al. A review of sars-cov-2 and the  
ongoing clinical trials. Int J Mol Sci. 2020 Apr 10;21(7):2657.  
7. Dae-Gyun Ahn, Hye-Jin Shin, Mi-Hwa Kim, et al. Current status of epidemiology, diagnosis,  
therapeutics, and vaccines for novel coronavirus disease 2019 (covid-19). J Microbiol Biotechnol. 2020  
Mar 28;30(3):313-324.  
8. Beilman G. Pathogenesis of oleic acid-induced lung injury in the rat: distribution of oleic acid during  
injury and early endothelial cell changes. Lipids 30: 817–823, 1995.  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
82  
pdf 8 trang yennguyen 15/04/2022 1380
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tác dụng chống tổn thương phổi cấp của bài thuốc cổ truyền để ứng dụng điều trị Covid-19", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tac_dung_chong_ton_thuong_phoi_cap_cua_bai_thuoc.pdf