Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thủy phân bột gạo lứt đỏ (Oryza punctate) bằng chế phẩm Spezyme alpha

Tạp chí Khoa học và Công nghệ 137 (2019) 106-110  
Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thủy phân bột gạo lứt  
đỏ (Oryza punctate) bằng chế phẩm Spezyme alpha  
Effect of Factors on the Hydrolysis of Red Rice (Oryza Punctate) by Spezyme Alpha  
Đặng Tiến Thành, Dương Thị Dự, Chu Kỳ Sơn, Vũ Thu Trang*  
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội – Số 1, Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội  
Đến Tòa soạn: 21-7-2017; chấp nhận đăng: 27-9-2019  
Tóm tắt  
Nghiên cứu này khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thủy phân dịch gạo lứt bằng chế phẩm  
enzyme Spezyme Alpha (-amylase) như nồng độ chất khô, nhiệt độ, nồng độ enzyme nhằm ứng dụng  
trọng sản xuất và chế biến các sản phẩm đồ uống từ gạo lứt. Dưới sự thay đổi của các tác nhận công nghệ,  
hàm lượng đường khử, hàm lượng tinh bột sót, chỉ số phân cắt tinh bột và hiệu suất dịch hóa đã được khảo  
sát. Kết quả nghiên cứu cho thấy điều kiện dịch hóa tốt nhất với nồng độ chất khô 80g/l, nhiệt độ thủy phân  
83oC trong 60 phút, nồng độ enzyme 0.048 w/w cho hiệu suất thủy phân 73.02%, chỉ số DE ( Dextrose  
Equivalent ) đạt 7.28%.  
Từ khóa: Gạo lứt đỏ, thủy phân, spezyme alpha, -amylase  
Abstract  
This study investigates several factors affecting the hydrolysis of red rice by Spezyme Alpha (-amylase) for  
red rice - based drink. Effect of factors such as dry matter concentration, hydrolysis temperature, enzyme  
concentration on the hydrolysis of red rice was investigated in this study with the aim of finding suitable  
condition to producing red rice - based drink. The reducing sugar content, starch content, DE (Dextrose  
Equivalent) index and hydrolysis yield were examined. The results indicated that the suitable hydrolyzing  
conditions of rice were 80g/l in dry matter; Hydrolysis temperature: 83oC; 60 min; Enzyme concentrations:  
0.048%w/w. The liquefied yield achieved 73.02%; DE index: 7.28%.  
Keywords: Brown rice, hydrolysis, spezyme alpha, -amylase  
1.Giới thiệu  
Gạo* (Oryza sativa L) là lương thực chính của  
mg/100 g bột gạo lứt nảy mầm [1]. Sản phẩm chế  
biến từ nguyên liệu này có giá trị rất lớn trong việc  
cải thiện các chức năng của cơ thể. Có rất nhiều  
nghiên cứu trên thế giới đã được tiến hành để xác  
định tác dụng của gạo lứt với sức khỏe con người và  
đã khẳng định được công dụng của sản phẩm này với  
các bệnh như bệnh tiểu đường [2] hay công dụng cải  
thiện hệ thống tiêu hóa [3]. Vì vậy, sản phẩm gạo lứt  
không chỉ là một sản phẩm giàu dinh dưỡng, mà còn  
được coi là một thực phẩm chức năng cho con người.  
hơn một nửa dân số thế giới như Ấn Độ, Pakistan,  
Thái Lan, Việt Nam, Brazil, Philippin, Indonesia,  
Trung Quốc. Đa số các nước sản xuất gạo trên thế  
giới và người tiêu dùng tập trung nhiều ở Châu Á.  
Hiện nay, Việt Nam là một trong nhưng quốc gia  
hàng đầu trên thế giới về xuất khẩu gạo. Theo Bộ  
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khối lượng gạo  
xuất khẩu năm 2016 ước tính đạt 4.88 triệu tấn và 2,2  
tỉ USD nhưng thu nhập của người nông dân không  
cao, giá sản phẩm bán ra thấp hơn nhiều quốc gia  
khác như Thái Lan, Ấn Độ, Mỹ. Yêu cầu đặt ra là  
phải nâng cao giá trị gia tăng chất lượng sản phẩm  
nông nghiệp nói chung và lúa gạo nói riêng.  
Trong công nghệ sản xuất đồ uống từ thực vật  
có thể gây hiện tượng kết lắng trong quá trình bảo  
quản mặc dù đã sử dụng các yếu tố công nghệ như  
đồng hóa, sử dụng phụ gia để giảm thiểu quá trình  
này. Một số nghiên cứu tại Việt Nam đã đề suất sản  
phẩm sữa thực vật sử dụng phương pháp thủy phân  
bằng enzyme để tăng hiệu suất thu hồi dịch gạo lứt và  
giảm hiện tượng kết lắng trong quá trình bảo quản  
[4] . Tuy nhiên dịch thủy phân có hàm lượng đường  
khử cao dẫn tới nguy cơ biến đổi về màu sắc và chất  
lượng do phản ứng Mailard ở các quá trình chế biến  
nhiệt sau này. Bên cạnh đó hàm lượng đường đơn cao  
có thể ảnh hưởng tới những người mắc bệnh rối loạn  
chuyển hóa glucid. Trong nghiên cứu thức uống từ  
Gạo lứt là nguồn nguyên liệu tuyệt vời để sản  
xuất thức uống bổ dưỡng không gluten, không lactose  
và không gây dị ứng. Các nghiên cứu chỉ ra rằng  
trong thành phần của gạo lứt và gạo lứt nảy mầm  
chứa một thành phần đáng kể các hợp chất phenolic  
không hòa tan (18.47 mg/100g bột gạo lứt, 24.78  
* Địa chỉ liên hệ: Tel: (+84) 934668283  
Email: trang.vuthu@hust.edu.vn  
106  
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 137 (2019) 106-110  
enzyme tới quá trình dịch hóa: khảo sát nồng độ  
ngô ngọt [5] đã sử dụng chế phẩm Spezyme alpha  
(bản chất là enzyme -amilase) để thu được dịch ngô  
ít lắng căn [5]. Chế phẩm Spezyme alpha được lựa  
chọn do chỉ thủy phân tinh bột tạo ra sản phẩm chủ  
yếu là các dextrin phân tử lượng thấp mà không thủy  
phân triệt để thành glucoza và fructoza. Định hướng  
sản xuất dịch gạo thủy phân có hiệu suất dịch hóa cao  
nhất và chỉ số DE (Dextrose Equivalent) thấp (DE <  
20 phân cắt các liên kết trong phân tử tinh bột thành  
maltodextrin [6] ) khả năng hấp thu của các loại  
dextrin này trong cơ thể chậm vì vậy sản phẩm sẽ phù  
hợp với cả nhưng người bị rối loạn chuyển hóa  
glucid. Chính vì thế, nghiên cứu này sẽ nghiên cứu  
một số yếu tố ảnh hưởng tới quá trình dịch hóa gạo  
lứt đỏ bằng chế phẩm Spezyme alpha, nhằm tìm điều  
kiện dịch hóa phù hợp để thu dịch gạo lứt ứng dụng  
trong sản xuất các sản phẩm đồ uống từ gạo lứt đỏ.  
enzyme từ 0.012 - 0.12%w/w, nhiệt độ 83oC, trong  
thời gian từ 30-120 phút. Xác định lượng đường khử,  
đường tổng, tinh bột và tinh bột sót trong nguyên liệu  
và sản phẩm sau khi dịch hóa, tính hiệu suất dịch hóa.  
Từ đó xác định điều kiện dịch hóa phù hợp với quá  
trình sản xuất và nhằm thu hiệu suất dịch hóa cao chỉ  
số DE thấp (DE < 20: phân cắt các liên kết trong phân  
tử tinh bột thành maltodextrin [6])  
2.3 Phương pháp nghiên cứu  
Xác định hàm lượng đường khử bằng phương pháp  
Graxinop [8]; xác định hàm lượng đường tổng bằng  
phương pháp thủy phân bằng axit [8], xác định hàm  
lượng tinh bột theo phương pháp thuỷ phân bằng axit  
[8], xác định chỉ số DE: là chỉ số đánh giá mức độ  
phân cắt các liên kết trong phân tử tinh bột, chỉ số DE  
càng cao mức độ phân cắt càng lớn, phân tử tinh bột  
được chia thành các chuỗi dextrin càng nhỏ [6]. Chỉ  
số DE = (∑ Đường khử / ∑ Đường tổng) x 100%.  
Xác định hàm lượng tinh bột sót: quá trình thủy phân  
chuyển tinh bột thành đường. Xác định hàm lượng  
tinh bột sót còn lại sau quá trình thủy phân thông qua  
hàm lượng đường tổng và hàm lượng đường khử sau  
quá trình thủy phân [8].Đường tổng = đường khử +  
tinh bột sót Tinh bột sót = Đường tổng – đường  
khử. Hiệu suất dịch hóa = (Tinh bột sót / Tinh bột  
tổng số) x 100  
2. Vật liệu và phương pháp  
2.1 Nguyên liệu  
Gạo lứt đỏ Sóc Trăng ( Oryza punctate ).Gạo lứt  
đỏ nguyên liệu có thành phần: màu đỏ hoặc đỏ nhạt;  
chiều dài: 3.07 - 4.01 mm; chiều rộng: 1.05 - 2.01  
mm. Gạo lứt đỏ có giá trị dinh dưỡng với 69.7 ± 1.0  
Cacbonhydrat; 6.9 ± 0.2 Protein; 3.2 ± 0.2 chất béo;  
độ ẩm 10 ± 1 theo phần trăm khối lượng.  
Spezym Alpha được sản xuất tại Dupont - USA.  
Spezym Alpha có bản chất là α- amilase được sản  
xuất từ một chủng vi khuẩn biến đổi gen Bacillus  
licheniformis xúc tác thủy phân liên kết α – 1,4  
glucozid bên trong chuỗi polysaccharide, chuyển hóa  
tinh bột thành các dextrin hòa tan làm giảm độ nhớt  
của dịch hồ tinh bột. Enzyme Spezyme alpha được  
khuyến cáo là sử dụng ở nhiệt độ 83-85°C, nồng độ  
enzyme 0,02-0,025%(w/w), pH 5.7 – 5.8 [7].  
3. Kết quả và thảo luận  
3.1 Ảnh hưởng của nồng độ chất khô tới quá trình  
dịch hóa bột gạo lứt đỏ bằng chế phẩm Spezyme  
Alpha  
Biến thiên của hàm lượng đường khử, tinh bột  
sót, chỉ số DE và hiệu suất quá trình dịch hóa khi thay  
đổi nồng độ chất khô ban đầu (50-150 g/l) tại nhiệt độ  
thủy phân 83oC và nồng độ enzyme 0.024%w/w được  
thể hiện trên Hình 1. Hiệu suất thủy phân tăng theo  
thời gian dịch hóa và đạt 82% sau 120 phút. Ở các  
mẫu nồng độ chất khô 50 g/l và 80g/l từ 60-120 phút  
dịch hóa hiệu suất dịch hóa tăng không đáng kể khi  
kéo dài thời gian dịch hóa. Với nồng độ dịch gạo lứt  
đỏ lớn hơn 100g/l độ nhớt dịch cao, khó khăn trong  
khuấy dịch, giảm khả năng tiếp xúc của enzyme với  
các phân tử tinh bột dẫn tới hiệu suất dịch hóa giảm.  
Ở thời điểm 60 phút thủy phân hiệu suất thủy phân ở  
nồng độ chất khô 50 g/l, 80g/l, 100g/l và 150g/l lần  
lượt là 74.9%, 70.7%, 68.31% và 60.26%. Nhằm  
giảm chi phí cho quá trình dịch hóa ta chọn nồng độ  
chất khô 80g/l và thời gian dịch hóa là 60 phút cho  
hiệu suất dịch hóa đạt 70.7% chỉ số DE 4.65%. Một  
số nghiên cứu tại Viêt Nam cũng sử dụng phương  
pháp thủy phân bằng enzyme để dịch hóa gạo, tuy  
nhiên, khi sử dụng kết hợp enzyme amylase và  
glucoamylase [4] sản phẩm tạo ra có chỉ số DE cao  
39.48% và hàm lượng đường khử lớn dễ bị biến đổi  
2.2 Bố trí thí nghiệm  
Trong nghiên cứu này tiến hành khảo sát các  
yếu tố ảnh hưởng tới quá trình dịch hóa dịch gạo lứt  
đỏ như: nồng độ cơ chất, nhiệt độ và nồng độ enzyme  
để tìm điều kiện dịch hóa phù hợp trong điều kiện  
không không điều chỉnh pH.  
Gạo lứt được nghiền mịn bằng máy nghiền lọt  
rây kích thước 0,25mm sau đó được phối trộn với  
nước đến nồng độ chất khô yêu cầu. Nghiên cứu ảnh  
hưởng của nồng độ tới quá trình dịch hóa bằng  
enzyme: hàm lượng chất khô trong dịch từ 50 g/l -  
150g/l, cố định nhiệt độ là 83oC, nồng độ enzyme là  
0,025%w/w, thời gian dịch hóa là 30 phút, 60 phút,  
90 phút và 120 phút. Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt  
độ tới quá trình dịch hóa bằng enzyme: nhiệt độ 70 -  
90oC (70oC nhiệt độ dưới nhiệt độ hồ hóa tinh bột  
gạo, 83oC nhiệt độ hồ hóa và 90oC nhiệt độ hồ hóa  
hoàn toàn), nồng độ chế phẩm Spezyme Alpha  
0.024% w/w. Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ  
107  
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 137 (2019) 106-110  
trong quá trình chế biến nhiệt sau này. Bên cạnh đó,  
trong chế phẩn Spezyme alpha có chứa 1 lượng nhỏ  
enzyme γ-amylase hoạt động ở vùng nhiệt độ này.  
Khi khảo sát nhiệt độ hiệu quả của quá trình dịch hóa  
đạt cực đại ở 83°C đây là nhiệt độ thuộc vùng  
enzyme hoạt động tối thích enzyme phân cắt thủy  
phân tinh bột mạnh mẽ hàm lượng tinh bột sót ít hiệu  
suất thủy phân đạt cao. Nâng nhiệt độ lên 90°C  
enzyme ức chế, hoạt lực enzyme giảm nên lượng  
đường khử tạo ra rất ít, lượng tinh bột sót trong dịch  
thủy phân rất nhiều hiệu suất rất thấp. Đối với tinh  
bột gạo, nhiệt độ tối ưu của quá trình dịch hóa tương  
đồng với khuyến cáo của nhà sản xuất (83 – 85oC).  
Nhiệt độ tối ưu cho quá trình sản xuất sữa gạo là  
83°C. Enzyme alpha amylase ở chế phẩm enzyme  
Spezyme alpha (có nhiệt độ thủy phân phân là 83oC)  
nhiệt độ thủy phân này thấp hơn so với việc sử dụng  
chế phẩm Termamyl 120L (có nhiệt độ thủy phân là  
90oC) trong nghiên cứu sử dụng enzyme alpha  
amylase trong thủy phân gạo huyết rồng [10] nhưng  
lại cho hiệu quả thủy phân tương đương. Điều này  
giúp giảm chi phí gia nhiệt cho sản phẩm.  
sản phẩm tạo ra sẽ không phù hợp với người mắc  
bệnh rối loạn chuyển hóa.  
3.2 Ảnh hưởng của nhiệt độ tới quá trình dịch hóa  
bằng chế phẩm enzyme Spezyme Alpha  
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ  
dịch hóa tới quá trình dịch hóa bột gạo lứt được tiền  
hành ở 3 chế độ gia nhiệt khác nhau (70oC nhiệt độ  
dưới nhiệt độ hồ hóa tinh bột gạo, 83oC nhiệt độ hồ  
hóa và 90oC nhiệt độ hồ hóa hoàn toàn) (Hình 2). Kết  
quả nghiên cứu trên Hình 2 cho thấy nhiệt độ ảnh  
hưởng rất lớn tới hiệu quả dịch hóa thể hiện qua sự  
tạo thành đường khử, hàm lượng tinh bột sót, chỉ số  
DE và hiệu suất dịch hóa. Tốc độ phản ứng enzyme  
chỉ tăng đến một giới hạn nhiệt độ nhất định, vượt  
quá giới hạn đó tốc độ enzyme sẽ giảm và dẫn đến  
triệt tiêu [9]. Tại 70°C nhiệt độ thấp hơn nhiều so với  
nhiệt độ tối ưu của enzyme, chế phẩm Spezyme alpha  
hoạt động kém thể hiện ở hàm lượng tinh bột sót  
nhiều, hiệu suất dich hóa tinh bột kém, tuy nhiên hàm  
lượng đường khử và chỉ số DE cao nhất có thể là do  
Hình 1. Ảnh hưởng của nồng độ chất khô tới quá trình dịch hóa dịch gạo lứt đỏ (1a) Ảnh hưởng của nồng độ  
chất khô tới hàm lượng đường khử, (1b) hàm lượng tinh bột sót ở các nồng độ chất khô khác nhau ,(1c) ảnh  
hưởng của nồng độ chất khô đến chỉ số DE,(1d) ảnh hưởng của nồng độ chất khô đến hiệu suất dịch hóa ở nhiệt  
độ 83oC và nồng độ enzyme 0.024%w/w.  
108  
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 137 (2019) 106-110  
Hình 2. Ảnh hưởng của nhiệt độ dịch hóa tới quá trình dịch hóa dịch gạo lứt đỏ, (2a) ảnh hưởng của nhiệt độ dịch hóa đến  
hàm lượng đường khử, (2b) ảnh hưởng của nhiệt độ dịch hóa đến hàm lượng tinh bột sót, (2c) ảnh hưởng của nhiệt độ dịch  
hóa đến chỉ số DE, (2d) ảnh hưởng của nhiệt độ dịch hóa đến hiệu suất dịch hóa bột gạo lứt đỏ bằng chế phẩm Spezyme  
alpha ở nồng độ chất khô 80g/l và nồng độ enzyme 0.024% w/w  
Hình 3. Ảnh hưởng của nồng độ enzyme tới quá trình dịch hóa dịch gạo lứt (3a) Ảnh hưởng của nồng độ enzyme tới hàm  
lượng đường khử, (3b) ảnh hưởng của nồng độ enzyme đến hàm lượng tinh bột sót, (3c) ảnh hưởng của nồng độ enzyme đến  
chỉ số DE,(3d) ảnh hưởng của nồng độ enzyme đến hiệu suất quá trình dịch hóa ở nồng độ chất khô 80g/l và nhiệt độ thủy  
phân 83oC  
109  
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 137 (2019) 106-110  
3.3 Ảnh hưởng của nồng độ enzyme tới quá trình Tài liệu tham khảo  
dịch hóa bằng chế phẩm Spezyme alpha  
[1].  
Tian. S, K. Nakamura, and H. Kayahara, Analysis  
of phenolic compounds in white rice, brown rice,  
and germinated brown rice. Journal of Agricultural  
and Food Chemistry, (2004). 52(15): p. 4808-4813.  
Nồng độ enzyme đóng vai trò quan trọng ảnh  
hưởng tới hiệu suất quá trình dịch hóa. Kết quả  
nghiên cứu trên Hình 4 cho thấy. Trong điều kiện  
thừa cơ chất, vận tốc phản ứng phụ thuộc tuyến tính  
vào nồng độ enzyme. Nồng độ enzyme càng lớn thì  
lượng cơ chất biến đổi càng nhiều [9]. Ở nồng độ  
enzyme thấp hơn 0.024% w/w hiệu suất dịch hóa thấp  
do trong điều kiện thừa cơ chất khả năng tiếp xúc  
giữa cơ chất và enzyme giảm nên lượng tinh bột bị  
thủy phân ít. Khi tăng nồng độ enzyme tới nồng đô  
0.024 %w/w hàm lượng tinh bột sót giảm mạnh và  
hiểu suất dịch hóa tặng mạnh. Càng tăng nồng độ  
enzyme hiệu suất thủy phân càng tăng, tuy nhiên khi  
nâng nồng độ enzyme lên cao hơn 0,024% w/w hiệu  
suất dịch hóa tăng chênh lệch nhau không đáng kế.  
Từ kết quả nghiên cứu trên hình 4 cho thấy, nồng độ  
enzyme 0.048%w/w là phù hợp cho quá trình thủy  
phân dịch gạo lứt đỏ. Các sản phẩm của dịch sau  
chuyển hóa là các dextrin mạch ngắn hòa tan có thể  
được sử dụng cho nhiều đối tượng kể cả những người  
rối loạn chuyển hóa đường huyết.  
[2].  
Sun. Q, Spiegelman, D. van Dam, R. M. Holmes,  
M. D. Malik, V. S. Willett, W. C. Hu, F. B, White  
rice, brown rice, and risk of type 2 diabetes in US  
men and women. Archives of internal medicine,  
(2010). 170(11): p. 961-969.  
[3].  
Frei, M., P. Siddhuraju, and K. Becker, Studies on  
the in vitro starch digestibility and the glycemic  
index of six different indigenous rice cultivars from  
the Philippines. Food Chemistry, 2003. 83(3): p.  
395-402.  
[4].  
[5].  
Trang, V.T, C.K. Sơn, and H.T. Khang, Nghiên cứu  
một số yếu tố ảnh hưởng tới quá trình thủy phân  
ngô ngọt bằng chế phẩm Spezyme alpha. Tạp chí  
Khoa học và Công nghệ, (2014).  
Storz, E.and K. J. S, Feasibility Study for  
Determination of the Dextrose Equivalent (DE) of  
Starch Hydrolysis Products with NearInfrared  
Spectroscopy (NIRS). StarchStärke 56(2): 58-62.  
(2004).  
4. Kết Luận  
[6].  
[7].  
[8].  
Genenor, Spezym Alpha- Alpha-Amylase for Dry  
Grind Ethanol Production. 2007.  
Sau khi tiến hành khảo sát các yếu tố ảnh hưởng  
tới quá trình dịch hóa dịch gạo lứt cho thấy điều kiện  
thích hợp cho quá trình dịch hóa là: Nồng độ chất  
khô: 80 g/L,thời gian: 60 phút, nhiệt độ dịch hóa:  
83°C, nồng độ enzyme: 0.048 %w/w, chỉ số DE: 7.28  
và hiệu suất thủy phân đạt 73.02%. Kết quả nghiên  
cứu sẽ đóng vai trò trọng trong nâng cao hiệu suất thu  
hồi dịch gạo lứt đỏ, giảm thiểu lắng cặn tinh bột ứng  
dụng cho hoàn thiện quy trình sản xuất các sản phẩm  
thức uống từ gạo lứt đỏ.  
Mai, L.T, Các phương pháp phân tích ngành công  
nghệ lên men,. NXB Khoa học và Kỹ thuật. (2009).  
Bùi Cẩm Tú, T.T.T.N, Lê Nguyễn Đoan Duy và  
Nguyễn Công Hà, Nghiên cứu chế biến sản phẩm  
sữa gạo mầm đóng chai. Can Tho University  
Journal of Science, 2016. Nông nghiệp (2016): p. 1.  
[9].  
Lượng, N.Đ, Cường. C, Tuyết. N. A, Tiên. L. T. T,  
Hằng. T. T, Oanh. H. N, Tuyền. P. T, Công nghệ  
enzyme. 2004.  
[10]. Hanh, D.T.N. and N.M. Thủy, Sử dụng enzyme  
alpha amylase trong thủy phân tinh bột từ gạo huyết  
rồng. Tạp chí Khoa học Trường Đại Học Cần Thơ,  
(2014).  
110  
pdf 5 trang yennguyen 16/04/2022 5060
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thủy phân bột gạo lứt đỏ (Oryza punctate) bằng chế phẩm Spezyme alpha", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_mot_so_yeu_to_anh_huong_den_qua_trinh_thuy_phan_b.pdf