Giải pháp tối ưu Gaslift tại các giàn đầu giếng bể Cửu Long với hàm lượng nước cao

PETROVIETNAM  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 8 - 2019, trang 29 - 36  
ISSN-0866-854X  
GIẢI PHÁP TỐI ƯU GASLIFT TẠI CÁC GIÀN ĐẦU GIẾNG BỂ CỬU LONG  
VỚI HÀM LƯỢNG NƯỚC CAO  
Nguyễn Hải An  
Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí  
Email: annh1@pvep.com.vn  
Tóm tắt  
Khai thác thư cấp bằng gaslift đang được áp dụng rộng rãi ở các giếng dầu vào cuối thời kỳ khai thác, đăc biệt là khu vực có hàm  
lượng nước cao và lân tạp chất cơ học. Hàm lượng nước trong chất lưu khai thác càng tăng lên, lượng dầu khai thác được trên một đơn vị  
khí gaslift dùng để bơm ép cũng giảm đi đáng kể, đông thời cần thêm chi phí xử ly nước… ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh  
tế của mỏ.  
Để tối đa hóa hiệu quả kinh tế của mỏ cần tính đến chi phí bơm ép khí gaslift (gôm chi phí nén khí), giá bán dầu và khí, chi phí sản  
xuất khác, sự mất giá của tiền và tỷ lệ lạm phát... Trong bài báo này, chỉ tiêu kinh tế dòng tiền thuần (net cash flow) của mỏ được tính  
toán để đạt mưc tối đa, tư đó điều chỉnh các thông số quyết định trong suốt thời gian khai thác của mỏ bằng cách phân bổ lưu lượng khí  
bơm ép tới tưng giếng khai thác.  
Từ khóa: Gaslift, tối ưu hóa khai thác dầu khí, giàn đầu giếng, dòng tiền thuần, bể Cửu Long.  
mà vẫn đảm bảo được sản lượng khai thác dầu trong từng  
giai đoạn khai thác của mỏ.  
1. Giới thiệu  
Các mỏ dầu ở bể Cửu Long đã qua giai đoạn khai thác  
Từ thực trạng của các mỏ tại bể Cửu Long hiện nay  
(năng lượng vỉa giảm dần với hàm lượng nước trong sản  
phẩm khai thác ngày càng tăng, số lượng giếng có lưu  
lượng thấp chiếm tỷ trọng cao, chi phí khí nén để khai  
thác 1 đơn vị thể tích dầu tăng theo thời gian, hiệu quả  
khai thác thấp và tổn hại vỉa lớn…), tác giả nghiên cứu và  
đề xuất các giải pháp công nghệ - kỹ thuật nhằm tối ưu  
hóa chế độ khai thác gaslift.  
đỉnh và đang ở giai đoạn suy thoái sản lượng dầu khí với  
hàm lượng nước (WCT) trong dòng sản phẩm ở mức rất  
cao.  
Các giếng khai thác đã và đang áp dụng khai thác thứ  
cấp bằng gaslift trên cơ sở sử dụng khí đồng hành làm  
khí nâng, được nén cao áp và cấp từ các giàn xử lý hoặc  
FPSO. Theo thời gian, năng lượng vỉa giảm dẫn đến nhu  
cầu dùng khí gaslift để bơm ép cho các giàn đầu giếng  
tăng lên đáng kể trong khi khả năng nén và cung cấp khí  
gaslift có hạn nên có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt  
nguồn khí gaslift trong tương lai. Hàm lượng nước trong  
chất lưu khai thác ngày càng tăng lên, lượng dầu khai thác  
được trên một đơn vị khí gaslift cũng giảm đi đáng kể, cần  
thêm chi phí xử lý nước… ảnh hưởng lớn đến hiệu quả  
kinh tế của mỏ.  
2. Cơ sở giải pháp tối ưu chế độ gaslift  
2.1. Chế độ gaslift khai thác tối ưu từng giếng  
Khi nghiên cứu động thái của các giếng đơn lẻ, khí  
nén bơm vào cột chất lỏng càng tăng thì lưu lượng dầu  
khai thác cũng tăng do tỷ trọng của chất lưu giảm. Tuy  
nhiên, lưu lượng chất lưu khai thác chỉ tăng đến một giá  
trị Qmax. Nếu tiếp tục tăng lưu lượng khí nén thì lưu lượng  
khai thác lại giảm. Mối quan hệ giữa lưu lượng giếng khai  
thác gaslift và khí nén được biểu diễn bởi phương trình  
[1]:  
Vì vậy, việc đảm bảo hiệu quả sử dụng khí gaslift cho  
các giàn đầu giếng ngày càng trở nên cấp thiết, đòi hỏi  
phải nghiên cứu, tối ưu hóa chế độ công nghệ cho từng  
loại giếng, lượng khí phân bổ cho các giếng trên toàn mỏ  
Q(V) = aV2 + bV + c  
(1)  
Trong đó:  
Q: Lưu lượng chất lưu khai thác;  
Ngày nhận bài: 12/6/2019. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 12 - 27/6/2019.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 12/8/2019.  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2019  
29  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
V: Lưu lượng khí nén;  
2.2. Tối ưu tổ hợp các giếng  
a, b, c: Các hệ số của hàm, được xác định trong quá trình  
tính toán và khảo sát giếng gaslift.  
Các giàn đầu giếng được thiết kế thiết bị công  
nghệ tối thiểu (tách tạm và đo lưu lượng chất lưu từ  
giếng, phân phối khí gaslift, bơm hóa phẩm…) và  
trang bị từ 4 - 8 vị trí để khoan giếng phát triển mỏ.  
Các giàn đầu giếng này chủ yếu là giếng khai thác  
dầu khí và được kết nối bằng đường ống thu gom sản  
phẩm dẫn tới trung tâm xử lý (giàn CPP hoặc FPSO).  
Vẽ đồ thị mối quan hệ của sản lượng khai thác Q1 = f(Vk),  
lưu lượng riêng của khí nén Ro = f(Vk) và áp suất khí nén Pk =  
f(Vk). Từ Hình 1 có thể xác định chế độ làm việc tối ưu hay tối  
đa lưu lượng chất lưu của giếng gaslift.  
Hệ đường cong trên đồ thị cho thấy khi tăng lượng khí  
nén Vk, lưu lượng khai thác giếng Ql ban đầu tăng dần lên.  
Điều này được giải thích là do giảm áp suất đáy Pđ (mật độ  
hỗn hợp chất lỏng trong ống nâng giảm), kéo theo áp suất khí  
nén (Pk) cũng giảm theo. Sự giảm của áp suất khí nén đến một  
giá trị nào đó và bắt đầu tăng trở lại (do lượng khí nén tăng  
mà tiết diện ống không thay đổi), do đó đường cong Pk = f(Vk)  
phải có giá trị cực tiểu (tại điểm 5). Tại thời điểm áp suất khí  
nén đạt giá trị cực tiểu, khi đó chênh lệch áp suất giữa vỉa và  
đáy có giá trị lớn nhất, nên đường cong Ql = f(Vk) có giá trị cực  
đại (tại điểm 3). Khi áp suất khí nén tăng dẫn đến sự gia tăng  
áp suất đáy, do đó lưu lượng khai thác giếng giảm theo.  
Trung tâm xử lý sẽ đảm trách công việc: tách dầu  
- khí - nước; xử lý và/hoặc ổn định sản phẩm dầu khí;  
nén khí cung cấp lại cho các giàn đầu giếng hoặc xuất  
về bờ; xử lý nước đạt chuẩn trước khi xả thải. Thực tế  
vận hành khai thác ở giai đoạn hiện nay cho thấy độ  
ngập nước của các giếng đều cao hoặc rất cao (giếng  
khai thác tầng đá móng có WCT lên tới 80 - 90%) dẫn  
tới thiếu hụt lưu lượng khí nén cho gaslift và quá tải  
năng lực của hệ thống đường ống vận chuyển chất  
lưu từ giàn đầu giếng về xử lý.  
Thực tế sản xuất cho thấy quá trình khai thác  
và vận hành thiết bị liên quan trực tiếp với nhau từ  
các giếng tới hệ thống thiết bị thu gom, tách pha và  
nén khí cao áp [2]. Bài toán trở thành việc tối đa hóa  
tổng lượng dầu khai thác Qo từ n giếng trên giàn với  
lưu lượng từng giếng qoi được lựa chọn tối ưu từ lưu  
lượng bơm ép khí qgi. Trên cơ sở tối ưu phân bổ lưu  
lượng khí nâng cho từng giếng qgi, Nishikiori [3] đưa  
ra phương trình tổng quát như sau:  
Xác định chế độ làm việc tối ưu của giếng: Từ gốc tọa độ  
kẻ đường thẳng tiếp tuyến với đường cong Q1 = f(Vk). Điểm  
tiếp tuyến thỏa mãn Q/V là lớn nhất (điểm 1), nghĩa là tại đây  
chi phí lượng khí nén để khai thác một đơn vị sản phẩm là nhỏ  
nhất và đường cong Ro = f(Vk) đạt giá trị cực tiểu tại điểm 2.  
Đây chính là chế độ tối ưu được xác định trên quan điểm về  
năng lượng.  
Đối với điểm 3 với giá trị sản lượng cực đại mà giếng có  
thể khai thác bằng gaslift (nếu không bị giới hạn lượng khí  
nén), lưu lượng riêng của khí nén khi sản lượng giếng đạt cực  
đại (điểm 4) sẽ lớn hơn khi khai thác giếng tại chế độ tối ưu  
(điểm 2). Trong thực tế sản xuất, chế độ làm việc của từng  
giếng được lựa chọn trong khoảng từ chế độ khai thác tối ưu  
đến chế độ khai thác cực đại (từ điểm 1 - 3).  
=
=
=
(
,
, … ,  
)
(2)  
Lượng khí nén cho cả cụm giếng biểu diễn bởi  
véc tơ cột với n chiều:  
Qg = (qg1, qg2,…,qgn)T  
(3)  
Công việc tối ưu khai thác dầu của cụm giếng  
thực chất là phân bổ hợp lý lượng khí nén tới các  
giếng để có lưu lượng khai thác dầu cao nhất theo  
công thức:  
(4)  
Max(Qo) = Maxf(Qg)  
Đồng thời thỏa mãn một số điều kiện biên: lưu  
lượng khí nén phân bổ tới từng giếng không âm và  
không lớn hơn tổng lưu lượng khí nén cấp cho giàn:  
(5)  
Ql ≤ Qlp lưu lượng chất lưu vận chuyển của đường  
ống;  
=
; qgi ≥ 0  
(6)  
Ql = Qo + Qw  
Hình 1. Tương quan giữa sản lượng chất lưu khai thác và lưu lượng khí nén  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2019  
30  
PETROVIETNAM  
Ql bị hạn chế bởi công suất vận chuyển của  
đường ống nên để đảm bảo max(Qo), bài toán  
cần bổ sung thêm việc giảm thiểu lưu lượng  
nước khai thác, tức là min(Qw) hay giảm thiểu  
độ ngập nước min (WTC).  
phí sản xuất liên quan đến quá trình khai thác và bảo trì của giếng.  
Chi phí trả thuế được ước tính dựa trên giá trị hiện tại của dòng  
doanh thu và luật thuế hiện hành. Tuy nhiên, để đơn giản hóa trong  
tính toán, coi thuế là giá trị không đổi và chỉ xét tối ưu về doanh thu  
và chi phí sản xuất. Trên cơ sở đó tác giả xem xét các trường hợp  
tương ứng với các mức lưu lượng khí nén khác nhau cung cấp cho  
hệ thống.  
2.3. Hàm mục tiêu  
Trong nội dung nghiên cứu này, mô hình lợi  
nhuận kinh tế chính là hàm mục tiêu của quá  
trình tối ưu hóa khai thác gaslift liên tục. Điều  
đó có nghĩa là các mô hình được xây dựng và  
tính toán sao cho hiệu quả kinh tế đạt lớn nhất.  
Dòng tiền thuần trong khoảng thời gian t được tổng quát như  
sau:  
(8)  
Ct = PV_(rev(t))- PV_(cost(t))  
Chi tiết:  
=
)
(7)  
o
(
( )  
( )  
( )  
,
=
( ) −  
,
,
,
Trong đó:  
t: Thời gian tính dòng tiền;  
n: Tổng thời gian dự án;  
r: Tỷ lệ chiết khấu;  
( )  
( )  
,
,
,
Trong đó: PV_(rev(t)) = [(Lượng dầu khai thác × Giá dầu)]t;  
Ct: Dòng tiền thuần tại thời gian t;  
Co: Chi phí đầu tư ban đầu của dự án.  
PV_(cost(t)) = [Lượng khí × Chi phí nén]t + [Lượng nước khai thác  
× Chi phí xử lý nước]t.  
Ở giai đoạn đầu khai thác mỏ, giếng có  
thể khai thác tự phun và hàm lượng nước của  
giếng thấp, lượng dầu khai thác tỷ lệ thuận với  
lợi nhuận. Tuy nhiên, sau thời gian dài khai thác,  
năng lượng vỉa suy giảm đáng kể nên giếng  
không còn khả năng tự phun. Thông thường,  
khi khả năng tự phun kém hiệu quả, giếng sẽ  
được chuyển sang dùng phương pháp khai  
thác nâng cơ học, dẫn đến làm tăng chi phí. Mặt  
khác, độ ngập nước của giếng cao, đồng nghĩa  
với lượng dầu thu được trên một đơn vị chất lưu  
khai thác được sẽ giảm, kèm theo đó là chi phí  
tăng lên do sự tăng chi phí của việc tách và xử  
lý nước đủ điều kiện xả thải.  
Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, tác giả tính giá trị Ct cho  
khoảng thời gian 30 ngày.  
{Ct}30 = PV_(rev(30)) - PV_(cost(30))  
Trong đó: PV_(rev(30)) = [Lượng dầu khai thác trong 30 ngày ×  
Giá dầu]t  
PV_(cost(30)) = [Lượng khí nén trong 30 ngày × Chi phí nén] +  
[Lượng nước khai thác trong 30 ngày × Chi phí xử lý nước].  
Mô hình lợi nhuận kinh tế giúp ước lượng  
lợi nhuận trong một khoảng thời gian cho  
trước, gồm cả doanh thu và chi phí. Những mô  
hình này tính toán dòng tiền thuần (Ct) bằng  
giá trị hiện tại của dòng doanh thu PV_rev trừ  
đi giá trị hiện tại của chi phí sản xuất PV_cost,  
trong đó doanh thu PV_rev phản ánh giá trị  
thương mại của dầu khí.  
PV_cost được tính như giá trị hiện tại của  
tổng lượng chi phí cần có để duy trì sự khai thác  
của giàn trong khoảng thời gian cho trước. Chi  
phí này bằng tổng chi phí sản xuất và thuế. Chi  
Hình 2. Sơ đồ hệ thống cho tính toán chi phí khí nén  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2019  
31  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
3. Kết quả ứng dụng và thảo luận  
Trong thực tế sản xuất, các giếng được định kỳ khảo  
sát lưu lượng - áp suất chế độ khai thác ổn định thông qua  
xem xét hệ số khí/lỏng (gas liquid ratio - GLR). Bản chất  
của phương pháp khảo sát này là dựa vào việc thay đổi  
lưu lượng khai thác bằng cách thay đổi lượng khí nén và  
các thông số làm việc liên quan khác như: áp suất của khí  
nén, áp suất đáy và áp suất miệng giếng.  
Giàn đầu giếng (giàn nhẹ) đã và đang được sử dụng  
rất hiệu quả trong sơ đồ thiết bị khai thác dầu khí tại các  
công trình ngoài khơi bể Cửu Long. Các giàn đầu giếng  
được kết nối tới trung tâm xử lý (giàn xử lý trung tâm hoặc  
FPSO) bằng các đường ống ngầm dưới đáy biển để vận  
chuyển dầu khí cũng như cung cấp khí nén, nước bơm ép.  
Trên cơ sở tài liệu khảo sát giếng, phân tích mối tương  
quan dòng chảy chất lưu từ vỉa vào giếng và lên tới miệng  
giếng trước khi vào hệ thống thiết bị bề mặt. Biểu đồ  
tương quan áp suất đáy giếng và lưu lượng khai thác được  
xây dựng cho từng giếng như trên các Hình 3 - 12. Trong  
đó, tại mỗi thời điểm khảo sát sẽ xây dựng được biểu đồ  
mối quan hệ giữa lưu lượng chất lỏng khai thác và lưu  
lượng khí nén (còn gọi là đường cong đặc tính nâng của  
giếng). Với nghiên cứu này, mỗi giếng đều được xây dựng  
họ đường cong đặc tính nâng trong 3 trường hợp: theo  
kết quả thử vỉa, theo chế độ khai thác ban đầu và theo chế  
độ khai thác hiện tại.  
Xác định chế độ công nghệ gaslift cho các giếng khai  
thác giàn WHP-A: Giàn đầu giếng WHP-A đang hoạt động  
với 5 giếng khai thác dầu khí, trong đó: 3 giếng khai thác từ  
tầng móng và 2 giếng từ tầng cát kết lục nguyên. Sau thời  
gian dài khai thác, năng lượng tự nhiên các vỉa đã suy kiệt.  
Số liệu khảo sát thông số khai thác các giếng cho thấy áp  
suất các vỉa sản phẩm dầu khí các mỏ ở bể Cửu Long đều  
suy giảm hoặc hàm lượng nước trong giếng tăng cao, các  
giếng không tự phun và chủ yếu được chuyển sang chế độ  
khai thác thứ cấp bằng gaslift sử dụng khí đồng hành. Lưu  
lượng cung cấp khí gaslift trung bình từng giếng từ 0,5 tới  
2 triệu ft3 chuẩn/ngày qua van điều tiết vào khoảng không  
vành xuyến và các van gaslift được lắp đặt đúng vị trí tối ưu.  
Nhận xét chung: Qua xây dựng mô hình trên cho  
Lưu lượng khí nén (nghìn ft3/ngày)  
Lưu lượng chất lỏng khai thác (thùng/ngày)  
Hình 4. Mối quan hệ giữa lưu lượng chất lỏng khai thác và lưu lượng khí nén  
Hình 3. Áp suất đáy giếng theo lưu lượng chất lỏng khai thác - giếng LM-Prod  
khi thực hiện thử vỉa, ở chế độ khai thác ban đầu và hiện tại - giếng LM-Prod  
Lưu lượng chất lỏng khai thác (thùng/ngày)  
Lưu lượng khí nén (nghìn ft3/ngày)  
Hình 5. Áp suất đáy giếng theo lưu lượng chất lỏng khai thác - giếng LO-Prod  
Hình 6. Mối quan hệ giữa lưu lượng chất lỏng khai thác và lưu lượng khí nén  
khi thực hiện thử vỉa, ở chế độ khai thác ban đầu và hiện tại - giếng LO-Prod  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2019  
32  
PETROVIETNAM  
Lưu lượng khí nén (nghìn ft3/ngày)  
Lưu lượng chất lỏng khai thác (thùng/ngày)  
Hình 8. Mối quan hệ giữa lưu lượng chất lỏng khai thác và lưu lượng khí nén  
Hình 7. Áp suất đáy giếng theo lưu lượng chất lỏng khai thác - giếng B-01Prod  
khi thực hiện thử vỉa, ở chế độ khai thác ban đầu và hiện tại - giếng B-01Prod  
Lưu lượng khí nén (nghìn ft3/ngày)  
Lưu lượng chất lỏng khai thác (thùng/ngày)  
Hình 10. Mối quan hệ giữa lưu lượng chất lỏng khai thác và lưu lượng khí nén  
khi thực hiện thử vỉa, ở chế độ khai thác ban đầu và hiện tại - giếng B-02Prod  
Hình 9. Áp suất đáy giếng theo lưu lượng chất lỏng khai thác - giếng B-02Prod  
Lưu lượng khí nén (nghìn ft3/ngày)  
Lưu lượng khai thác (thùng/ngày)  
Hình 12. Mối quan hệ giữa lưu lượng chất lỏng khai thác và lưu lượng khí nén  
khi thực hiện thử vỉa, ở chế độ khai thác ban đầu và hiện tại - giếng B-03Prod  
Hình 11. Áp suất đáy giếng theo lưu lượng chất lỏng khai thác - giếng B-03Prod  
thấy tầng Oligocene dưới có năng lượng còn tương đối  
cao, vì thế giếng LO-Prod vẫn còn khả năng khai thác tự  
phun, chưa nhất thiết phải khai thác bằng gaslift. Vì vậy,  
chỉ cần xét với 4 giếng còn lại. Những giếng ở tầng móng  
có hàm lượng nước cao (WCT từ 70 - 90%) đòi hỏi phải có  
phương pháp tối ưu khai thác giúp đạt hiệu quả cao nhất  
mà không quá làm tổn hại đến vỉa khi phải khai thác lên  
quá nhiều nước.  
Tổng hợp các đường đặc tính nâng của tất cả các  
giếng ở thời điểm nghiên cứu (Hình 13), qua đó lưu lượng  
chất lưu khai thác của từng giếng được xác định bởi lưu  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2019  
33  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Lưu lượng khí nén (nghìn ft3/ngày)  
Lưu lượng khí nén (nghìn ft3/ngày)  
Hình 14. Lưu lượng khai thác theo lưu lượng khí nén ở các giếng trong trường hợp B  
Hình 13. Lưu lượng khai thác theo lưu lượng khí nén ở các giếng khi không giới hạn  
lưu lượng khí nén - Trường hợp A  
Lưu lượng khí nén (nghìn ft3/ngày)  
Hình 16. Lưu lượng khai thác theo lưu lượng khí nén ở các giếng trong trường hợp  
Lưu lượng khí nén (nghìn ft3/ngày)  
tối ưu D  
Hình 15. Lưu lượng khai thác theo lưu lượng khí nén ở các giếng trong trường hợp  
tối ưu C  
Hình 18. So sánh lượng khí nén cung cấp và lưu lượng khai thác chất lưu  
Lưu lượng khí nén (nghìn ft3/ngày)  
cho từng trường hợp  
Hình 17. Lưu lượng khai thác theo lưu lượng khí nén ở các giếng trong trường hợp  
chất lưu tới FPSO.  
tối ưu E  
lượng khí nén được phân bổ. Trong trường hợp không bị  
giới hạn lưu lượng khí nén, điểm cực đại thường được sử  
dụng để khai thác dầu tối đa. Thực tế cho thấy khi hàm  
lượng nước cao dẫn tới lượng nước khai thác lớn đáng kể,  
có thể vượt công suất của hệ thống thu gom, vận chuyển  
Hình 14 - 17 biểu diễn các trường hợp đánh giá tối ưu  
chế độ khai thác trên cơ sở thay đổi hướng tiếp cận của  
tiếp tuyến của đường cong đặc tính nâng để xác định lưu  
lượng khí nén được phân bổ và lưu lượng chất lưu khai  
thác. Kết quả đánh giá thông số làm việc của giếng và  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2019  
34  
PETROVIETNAM  
chỉ tiêu kinh tế tương ứng theo các trường hợp được thể hiện  
trong Bảng 1.  
này được chọn dựa trên động thái khai thác của cụm  
giếng khai thác trong tầng móng;  
+ Trường hợp A: Lưu lượng khai thác cực đại;  
+ Trường hợp D: Các tiếp tuyến của đường lưu  
lượng khai thác của các giếng song song với nhau và  
được chọn dựa trên động thái khai thác của giếng  
LM-01Prod tầng Miocene dưới;  
+ Trường hợp B: Các tiếp tuyến của đường lưu lượng khai  
thác được vẽ đi qua gốc tọa độ;  
+ Trường hợp C: Các tiếp tuyến của đường lưu lượng  
khai thác của các giếng song song với nhau, các tiếp tuyến  
+ Trường hợp E: Các giếng tầng móng được giữ  
nguyên chế độ khai thác đã được chọn ở trường hợp  
chế độ khai thác tối ưu C, chỉ điều chỉnh lưu lượng khí  
nén cấp cho giếng LM-01Prod ở tầng Miocene nên để  
giếng làm việc ở chế độ khai thác cực đại.  
Lưu lượng dầu của trường hợp A (cơ sở) cao hơn  
không đáng kể so với các trường hợp khác, nhưng  
nước khai thác rất lớn và lượng khí nén cần cung cấp  
rất cao, tương đương trên 3 nghìn ft3 để nâng được 1  
thùng dầu. Trường hợp D và C có hiệu quả khai thác  
rất cao và phù hợp với điều kiện giới hạn lượng khí  
nén cung cấp cho giàn WHP-A. Trường hợp B thể hiện  
kết quả trung gian tối ưu theo truyền thống cho từng  
giếng, tức là chế độ cân bằng lượng khí nâng và chất  
lỏng khai thác.  
Lưu lượng khí nén cao áp (nghìn ft3/ngày)  
Hình 19. Phụ thuộc của lưu lượng chất lưu khai thác và dòng tiền thuần theo lưu lượng khí nén  
Bảng 1. Đánh giá hiệu quả kinh tế các trường hợp  
Các  
trường  
hợp  
Dòng tiền thuần  
trong 30 ngày  
(USD)  
Giếng  
B-01Prod B- 02Prod LM-Prod B-03Prod OP-Prod  
WHP-A  
Qgl (nghìn ft3/ngày)  
Ql (thùng/ngày)  
Qgcomp (nghìn ft3/ngày)  
Qo (thùng/ngày)  
Qw (thùng/ngày)  
Qgl (nghìn ft3/ngày)  
Ql (thùng/ngày)  
Qgcomp (nghìn ft3/ngày)  
Qo (thùng/ngày)  
Qw (thùng/ngày)  
Qgl (nghìn ft3/ngày)  
Ql (thùng/ngày)  
Qgcomp (nghìn ft3/ngày)  
Qo (thùng/ngày)  
Qw (thùng/ngày)  
Qgl (nghìn ft3/ngày)  
Ql (thùng/ngày)  
Qgcomp (nghìn ft3/ngày)  
Qo (thùng/ngày)  
2.000  
1.090  
1.886  
153  
937  
920  
1.000  
2.025  
544  
608  
1.418  
450  
1.650  
78,75  
495  
1.155  
600  
1.500  
500  
1.427  
350  
150  
280  
550  
199,15  
385  
165  
400  
2.000  
1.990  
1.851  
199  
1.791  
1.400  
500  
1.362,5  
50  
450  
0
600  
0
540  
60  
0
600  
0
540  
60  
0
6.500  
6.205  
5.707  
1.849  
4.356  
3.050  
4.260  
2.459,6  
1.604,4  
2.655,6  
2.630  
A
B
C
D
E
2.553.380  
2.507.220  
2.415.085  
2.275.470  
2.711.483  
960  
819,2  
134,4  
825,6  
930  
700  
950  
830,25  
133  
817  
910  
1.980  
154,5  
594  
1.386  
500  
185  
1700  
572,5  
170  
1.530  
650  
600  
5.415  
372,81  
129,5  
55,5  
330  
1.930,06  
1.566,5  
3.848,5  
2.390  
540  
60  
0
920  
1.910  
70,25  
573  
1.337  
600  
1980  
154,5  
594  
100  
315,3  
70  
30  
1500  
500  
1426,5  
350  
150  
1.610  
529,25  
161  
1.449  
700  
1700  
572,5  
170  
600  
0
540  
60  
0
600  
0
540  
60  
5.140  
813,4  
128,8  
791,2  
930  
950  
830,25  
133  
1.728,2  
1.472,8  
3.667,2  
3730  
5730  
2983,75  
1787  
Qw (thùng/ngày)  
Qgl (nghìn ft3/ngày)  
Ql (thùng/ngày)  
Qgcomp (nghìn ft3/ngày)  
Qo (thùng/ngày)  
Qw (thùng/ngày)  
817  
1386  
1530  
3943  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2019  
35  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Kết quả đánh giá còn cho thấy mức độ ảnh hưởng của  
lượng khí cung cấp cho giàn, có thể làm giảm tới 20% lưu  
lượng dầu (1473 thùng/ngày so với 1849 thùng/ngày) nếu  
lượng khí bị hạn chế dưới 2 triệu ft3/ngày.  
và chịu ảnh hưởng lớn, đòi hỏi phải có giải pháp điều  
chỉnh chế độ công nghệ phù hợp theo thời gian. Giải pháp  
đề xuất sử dụng phương pháp đồ thị biểu diễn mối quan  
hệ giếng - vỉa cho cụm 5 giếng làm cơ sở phân bổ hợp lý  
lượng khí nén nhằm tối ưu chế độ công nghệ cho các cụm  
giếng khai thác ngoài khơi để mang lại giá trị lợi nhuận  
cao nhất.  
Chỉ tiêu kinh tế (tổng dòng tiền thuần trong khoảng  
thời gian 30 ngày) đã được tính toán cùng với các thông  
số kỹ thuật tương ứng với từng trường hợp đánh giá (các  
chỉ số giá dầu và chi phí đều được lấy bằng nhau trong  
mọi trường hợp; do không ảnh hưởng đến xu hướng kết  
quả nghiên cứu nên tác giả không đưa ra cụ thể). Số liệu  
trên Hình 19 cho thấy trường hợp E có giá trị dòng tiền  
thuần cao nhất mặc dù lưu lượng khai thác dầu thấp hơn  
62 thùng/ngày (tương đối) so với trường hợp cơ sở. Trường  
hợp A và B có tổng dòng tiền thuần tương đồng nhau  
trong khi trường hợp A cần sử dụng gấp 2,3 lần lượng khí  
nén. Nén khí và xử lý nước khai thác là các khoản chi phí  
có ảnh hưởng lớn đến dòng tiền thuần của trường hợp  
A - khai thác cực đại cũng như trường hợp B.  
Kết quả phân tích cho thấy các thông số chế độ của  
giếng có thể điều chỉnh và lựa chọn thông qua việc phân  
bổ lượng khí nén cung cấp cho từng giếng. Thông số khảo  
sát của giếng khai thác như hàm lượng nước, hệ số khí -  
dầu, áp suất miệng giếng... liên tục được cập nhật sẽ cho  
phép xây dựng các đường cong đặc tính nâng và dự báo  
sản lượng khai thác dầu, tính toán hiệu quả kinh tế do  
cụm giếng mang lại.  
Tài liệu tham khảo  
1. Cao Ngọc Lâm. Công nghệ khai thác dầu khí. Đại  
học Mỏ - Địa chất. 2002.  
4. Kết luận  
2. Lê Xuân Lân, Ngô Hữu Hải, Nguyễn Hải An, Nguyễn  
Thế Vinh, Lê Huy Hoàng. Công nghệ mỏ dầu khí. Nhà xuất  
bản Khoa học Kỹ thuật. 2017.  
Công nghệ gaslift được sử dụng có hiệu quả tại các  
mỏ dầu bể Cửu Long trong giai đoạn sản lượng khai thác  
suy giảm. Hiệu quả khai thác giảm mạnh do yêu cầu tăng  
lượng khí nén cao áp (đôi khi vượt quá công suất vận  
chuyển của đường ống hoặc lượng khí có thể cấp cho  
giàn) và chi phí xử lý nước tăng cao, dẫn đến lợi nhuận của  
dự án cũng bị ảnh hưởng đáng kể.  
3. N.Nishikiori, R.A.Redner, D.R.Doty, Z.Schmidt. An  
improved method for gas lift allocation optimization. SPE  
Annual Technical Conference and Exhibition, San Antonio,  
Texas. 8 - 11 October, 1989.  
Đặc tính vỉa và chất lưu vỉa thay đổi theo điều kiện  
khai thác, động thái làm việc của các giếng không ổn định  
SOLUTIONS TO GAS LIFT OPTIMISATION OF OIL WELLS WITH HIGH  
WATER-CUT IN CUU LONG BASIN  
Nguyen Hai An  
Petrovietnam Exploration Production Corporation  
Email: annh1@pvep.com.vn  
Summary  
Artificial gas lift is frequently used in secondary recovery to boost the production rate of mature oil fields, especially in areas with  
high water-cut and suspended solids. The high water-cut of production stream may require large amount of gas for lifting a unit volume  
of crude. In addition, the production operation is costly because the ratios of water/oil become higher and oil production rates decline  
dramatically.  
To maximise the economic return of oil production, it is important to into account the cost of lift gas injection (including re-  
compression costs), the sale price of oil and gas, other production costs, the money discount rate and the rate of inflation. In this paper,  
the net cash flow of the field is maximised, then decisive parameters will be adjusted over the production life of the field by allocating the  
flow rate of injected gas to each production well. .  
Key words: Gas lift, gas lift optimisation, wellhead platform, net cash flow, Cuu Long basin.  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2019  
36  
pdf 8 trang yennguyen 16/04/2022 4740
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp tối ưu Gaslift tại các giàn đầu giếng bể Cửu Long với hàm lượng nước cao", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_toi_uu_gaslift_tai_cac_gian_dau_gieng_be_cuu_long.pdf