Nghiên cứu chẩn đoán di truyền trước chuyển phôi gen PKD1 gây bệnh thận đa nang di truyền trội
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Nghiên cứu chẩn đoán di truyền trước chuyển phôi
gen PKD1 gây bệnh thận đa nang di truyền trội
Nguyễn Thị Việt Hà, Triệu Tiến Sang, Nguyễn Thị Thanh Nga
Ngô Trường Giang, Trần Văn Tuấn, Trần Văn Khoa
Bộ môn Sinh học và Di truyền Y học, Học viện Quân y
Từ khóa: Bệnh thận đa nang di truyền trội,
chẩn đoán di truyền chuyển phôi, ARMS-PCR,
Touchdown PCR.
TÓM TẮT
Bệnh thận đa nang di truyền trội (ADPKD) có
những triệu chứng chủ yếu là hình thành các nang
làm giãn nở các ống thận và các cơ quan khác như
gan, lách, tuyến tụy và là nguyên nhân dẫn đến suy
thận giai đoạn cuối. Việc phát hiện sớm ADPKD
có ý nghĩa lớn với các gia đình có người bị bệnh.
Nghiên cứu của chúng tôi nhằm xây dựng và áp
dụng quy trình phát hiện đột biến trên gen PKD1
trên mẫu máu ngoại vi và mẫu phôi ở từng gia đình
cụ thể có bệnh thận đa nang di truyền trội. Nghiên
cứu tiến hành trên một số mẫu máu ngoại vi và
mẫu phôi ngày 5 của gia đình tình nguyện tham
gia nghiên cứu. Tiến hành sàng lọc phát hiện đột
biến từ 1 thành viên bị bệnh bằng kỹ thuật giải
trình tự gen thế hệ mới- NGS (Next genezation
sequencing). Hoàn thiện quy trình ARMS-PCR
và Touchdown PCR để kiểm tra đột biến trên mẫu
máu và mẫu phôi. Quy trình sử dụng ARMS-PCR
và Touchdown PCR đã cho kết quả chính xác trong
việc xác định người mang gen đột biến gây bệnh, ít
tốn kém hơn so với NGS. Có thể áp dụng quy trình
này cho các gia đình mang đột biến tương tự.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh thận đa nang di truyền theo gen trội nằm
trên NST thường (Autosomal Dominant Polycystic
Kidney Disease = ADPKD) là rối loạn di truyền phổ
biến nhất của thận. Tỷ lệ ước tính khoảng 1/1000-
1/500 ở các nước phương tây [6]. eo đặc điểm
giải phẫu bệnh, thận đa nang thường có nang ở cả
hai bên. ận tăng kích thước dần, có nhiều nang
lớn nhỏ không đều nhau, đường kính từ 0,3- 0,5 cm
và dẫn đến hậu quả cuối cùng thường là suy thận.
Nguyên nhân gây ADPKD là do đột biến trên gen
PKD1, PKD2, trong đó 85% nguyên nhân là do đột
biến trên gen PKD1.
Đối với bệnh thận đa nang di truyền trội liên
quan tới đột biến trên gen PKD1, PKD2 có đặc
điểm của gen trội gây bệnh và bệnh thường khởi
phát muộn khi người mang gen khoảng 30 tuổi.
Đối với các bệnh nhân PKD1 (các bệnh nhân mang
đột biến trên gen PKD1) khi chuyển sang suy thận
Ngày nhận bài: 30/6/2020
Ngày phản biện: 12/8/2020
Ngày chấp nhận đăng: 17/8/2020
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 18/2020
70
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
giai đoạn cuối có độ tuổi trung bình 54 tuổi, sớm đột biến gen gây bệnh thận đa nang di truyền trội”.
hơn khoảng 20 năm và thường có biểu hiện nguy
Đề tài tiến hành với mục tiêu:
hiểm hơn so với các bệnh nhân PKD2 [2], [3]. Do
Mục tiêu 1: Xây dựng quy trình phát hiện đột
vậy, việc chẩn đoán sớm bệnh là hết sức cần thiết biến trên gen PKD1 ở người bị bệnh thận đa nang
nhất là đối với các gia đình có người bị bệnh thận di truyền trội.
đa nang di truyền trội. Việc chẩn đoán sớm bệnh có
Mục tiêu 2: Áp dụng quy trình đã hoàn thiện
ý nghĩa trong việc thực hiện tốt công tác tư vấn di để sàng lọc và phát hiện sớm bệnh thận đa nang di
truyền đối với những người mang gen bệnh nhưng truyền trội trên phôi.
chưa có triệu chứng biểu hiện bệnh, giúp chuẩn bị
tâm lý cũng như có các biện pháp điều trị sớm hoặc ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ngăn các biến chứng có thể xảy ra, giúp trì hoãn việc
Đối tượng nghiên cứu để hoàn thiện quy trình
khởi phát suy thận giai đoạn cuối. Bện cạnh đó, là mẫu máu ngoại vi của bệnh nhân Đoàn V. T. đã
việc chẩn đoán sớm là không thể thiếu đối với các được chẩn đoán bị bệnh thận đa nang di truyền trội
cá nhân tham gia thực hiện hiến thận để cấy ghép, đã được xác định có đột biến c.9859-9861delCTC
tránh trường hợp những người tham gia hiến thận là bằng giải trình tự gen thế hệ mới và mẫu máu ngoại
những người mang gen gây bệnh làm cho thận ghép vi của các đối tượng có quan hệ huyết thống với
sớm bị suy. Ngoài ra, việc thực hiện chẩn đoán sớm bệnh nhân.
trước khi chuyển phôi giúp cho các cặp vợ chồng
Đối tượng áp dụng quy trình là các mẫu phôi
mang gen bệnh tiến hành thụ tinh nhân tạo có cơ của gia đình người bệnh và các mẫu máu của những
hội sinh được những em bé không mang gen trội người cần chẩn đoán bệnh.
gây bệnh. Từ đó, giúp giảm việc phát tán và lưu hành
gen đột biến gây bệnh PKD1, PKD2 trong quần thể,
giảm áp lực lên xã hội.
Với sự phát triển của nhiều kỹ thuật nhằm xác
định các đột biến trên gen PKD1 và PKD2, kết quả
các nghiên cứu đã cho thấy có nhiều đột biến trên
cả hai gen, đặc biệt trên gen PKD1 có tới 970 đột
Hình 1. Phả hệ gia đình bệnh nhân Đoàn V. T. (III-5)
biến gây bệnh [5] với nhiều dạng đột biến khác
Do trong dòng họ có nhiều người đã được
nhau. Tuy nhiên, cùng trên nhiễm sắc thể 16, có chẩn đoán mắc bệnh thận đa nang và mất ở độ
6 vùng gen giả của PKD1 có độ tương đồng cao tuổi khá sớm, bản thân III-5 cũng là người bị
(97,7%) với trình tự từ 5’UTR cho đến exon 32 bệnh. Gia đình III-5 với III-6 mong muốn sinh
[1], [4]. Do sự tương đồng cao này nên việc xác được những người con khỏe mạnh không mang
định đột biến của gen PKD1 gặp nhiều khó khăn. bệnh giống III-5. Gia đình đã thực hiện IVF và có
Hiện nay ở Việt Nam các nghiên cứu di truyền về được 4 phôi và muốn kiểm tra để có phôi tốt nhất
bệnh thận đa nang di truyền trội do đột biến trên để thực hiện chuyển phôi.
gen PKD1 và PKD2 và đặc biệt nghiên cứu trên các
Đối với trường hợp gia đình bệnh nhân Đoàn
mẫu phôi chưa được thực hiện. Vì vậy, chúng tôi V.T., do đột biến nằm trên exon 29 của PKD1 nên
tiến hành đề tài: “Nghiên cứu phát hiện sớm người nhóm nghiên cứu đã tiến hành thiết kế mồi nhân
mang gen và chẩn đoán di truyền trước chuyển phôi exon 29 và tiến hành giải trình tự theo phương pháp
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 18/2020
0
71
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Sanger, tuy nhiên phương pháp này không phát Bảng 2. Trình tự mồi Touchdown PCR
hiện được được đột biến trên mẫu máu của bệnh
Fw
Fm GTTGGCGCCCAGGAAGAGGAAGA
Ro CGTGGCTTCTTTCGAAG
AGGAAGAGGCAGATAATG
nhân. Chúng tôi cũng đã sử dụng kỹ thuật Long
range PCR nhân đoạn gen dài từ exon 1 đến exon
34 và kết hợp với Nested PCR và giải trình tự đã
phát hiện được đột biến trên mẫu máu III-5. Tuy
nhiên quy trình này không thể áp dụng trên các mẫu
phôi do đặc điểm của sản phẩm nhân toàn bộ hệ
gen. Do vậy, nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu
với trường hợp gia đình Đoàn V. T. như sau:
Với trình tự mồi trên, sản phẩm sau khi nhân lên
sẽ gồm 1 sản phẩm cho alen bình thường (116bp)
và 1 sản phẩm cho alen đột biến (123bp).
KẾT QUẢ
Kết quả hoàn thiện quy trình phát hiện bệnh
trên mẫu máu ngoại vi với gia đình bệnh nhân
Đoàn V. T
Xây dựng phản ứng ARMS-PCR với gen PKD1
Qua quá trình thiết kế mồi và kiểm tra hoàn
thiện quy trình nhóm nghiên cứu đưa ra trình tự
mồi của phản ứng ARMS-PCR PCR nhằm phát
hiện trường hợp đột biến mất 3 nucleotid của bệnh
nhân Đoàn V. T. như sau:
Sau khi tiến hành chạy gradient với dải nhiệt độ
gắn mồi khác nhau chúng tôi đã tối ưu được nhiệt
độ phản ứng ARMS-PCR: 95oC trong 5 phút;
(95oC trong 45 giây, 60oC trong 45 giây, 72oC trong
1 phút) 30 chu kỳ; 72oC trong 5 phút.
ể tích thành phần phản ứng PCR bao gồm 3µl
ADN tổng số; 0,5µl mồi Fm; 0,25µl mồi Rw; 0,25µl
mồi Fo; 0,5µl mồi Ro; 12,5µl Mastermix trong tổng
thể tích 1 phản ứng là 25µl. Sản phẩm nhân gen
bằng ARMS-PCR sau khi được thực hiện xong sẽ
được kiểm tra bằng điện di trên gel agarose 3%.
Hình 2. Sơ đồ tiến hành nghiên cứu trường hợp gia
đình Đoàn V. T.
Với trường hợp bệnh nhân Đoàn V. T. Chúng tôi
thiết kế mồi phản ứng ARMS-PCR để nhân các sản
phẩm: 1 sản phẩm cho alen control (371bp); 1 sản
phẩm cho alen bình thường (227bp); 1 sản phẩm
cho gen đột biến (200bp).
Bảng 1. Trình tự mồi của kỹ thuật ARMS-PCR
Fm GTGGCGCCCAGGAAGAGGCAGATACGA
Rw TCGCATCCAGAGGGCCACCTGCTGATC
Fo CTGTGTCGACGCTCAGCGGGCTCAACCT
Ro CCTGCAGTGCGGCCCTCCCTGCCTACTA
Hình 3. Kết quả điện di
sản phẩm của phản ứng
ARMS-PCR.
Giếng 1: Chứng âm,
Giếng 2: Mẫu III-5,
Giếng 3: Mẫu II-6,
Giếng 5: Mẫu II-5,
Giếng 4: Marker 100bp
Hình 3: Kích thước các sản phẩm ARMS-PCR
của trường hợp Đoàn V. T.
Song song với kỹ thuật ARMS-PCR nghiên cứu
còn hoàn hiện thêm kỹ thuật Touchdown PCR.
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 18/2020
72
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
eo như kết quả phản ứng ARMS-PCR cho độ gắn mồi khác nhau chúng tôi đã tối ưu được
thấy, mẫu III-5 và II-5 đều lên 3 băng với kích thước nhiệt độ phản ứng Touchdown PCR: 95oC trong
lần lượt là 200bp, 227bp và 371bp. Mẫu II-6 chỉ thấy 5 phút; (95oC trong 10 giây, 66oC trong 45 giây,
xuất hiện 2 băng với kích thước 227bp và 371bp. 72oC trong 30 giây) 10 chu kỳ với mỗi chu kỳ
eo đặc điểm thiết kế mồi của chúng tôi đã đưa ra giảm 1oC ở giai đoạn gắn mồi; (95oC trong 10
ở trên chứng tỏ cả 2 mẫu II-5 và III-5 đều mang gen giây, 56oC trong 45 giây, 72oC trong 30 giây) 25
đột biến gây bệnh và mẫu II-6 không mang gen gây chu kỳ; 72oC trong 5 phút.
bệnh. Đối chiếu với thông tin thực tế thu thập được
từ bệnh nhân, nhận thấy kết quả chẩn đoán nhờ bao gồm 3µl ADN tổng số; 0,25µl mồi Fm hoặc
ARMS-PCR đúng với thực tế biểu hiện của bệnh. 0,25µl mồi Fm; 0,25µl mồi Ro; 12,5µl Mastermix
Xây dựng phản ứng Touchdown PCR với gen trong tổng thể tích 1 phản ứng là 25µl. Kiểm tra sản
PKD1 phẩm phản ứng chạy Touchdown PCR bằng điện di
Sau khi tiến hành chạy gradient với dải nhiệt trên gel agarose 2%.
ể tích thành phần phản ứng PCR đơn mồi
Hình 4. Kết quả điện di sản phẩm phản ứng Touchdown PCR. Giếng 1, 6: chứng âm; Giếng 2, 7 mẫu III-5; giếng 3,
8: mẫu II-6; giếng 4, 9: mẫu II-5; giếng 5: Marker 100bp
eo kết quả điện di có thể nhận thấy với mẫu III-12. Kết quả thu được cho thấy rằng kết quả chẩn
III-5 và II-5 đều lên cả 2 đoạn có kích thước 116bp đoán của cả 2 phương pháp là trùng khớp với nhau
và 123bp chứng tỏ 2 mẫu này có mang gen đột biến và đúng với thông tin thực tế về biểu hiện bệnh mà
gây bệnh. Với mẫu II-6 chỉ lên 1 băng có kích thước chúng tôi thu thập được. Như vậy, cả 2 phương pháp
116bp chứng tỏ mẫu không mang gen bệnh. Đối đều đã đưa ra được kết quả đáng tin cậy trong việc
chiếu với thông tin thực tế thu thập được từ bệnh chẩn đoán đột biến mất 3 nucleotid CTC trên gen
nhân, nhận thấy kết quả chẩn đoán nhờ ARMS- PKD1 từ vị trí 9859 đến 9861. Kết quả cho thấy có
PCR đúng với thực tế biểu hiện của bệnh.
Kết quả chạy kiểm chứng ARMS-PCR và với mẫu phôi của gia đình III-5 với III-6 trên cơ sở đã
Touchdown PCR trên các mẫu máu người thân
phát hiện đột biến gen gây ADPKD ở III-5. Đối với
thể áp dụng 2 phương pháp này để chẩn đoán đối
Sau khi hoàn thiện quy trình phát hiện đột biến các gia đình khác mang đột biến giống III-5, có thể
bằng cả hai phương pháp ARMS-PCR và Touchdown sử dụng luôn hai quy trình đã hoàn thiện trên.
PCR trên mẫu II-5, II-6 và III-5, chúng tôi tiến hành Áp dụng quy trình đã hoàn thiện trên 4 mẫu
chạy trên các mẫu máu thu thập được trong phả hệ phôi của gia đình III-5 với III-6
bao gồm: II-11; III-1; III-2; III-3; III-4; III-9; III-11; Kết quả phát hiện đột biến trên 4 mẫu phôi
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 18/2020
0
73
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Hình 5. Kết quả điện di sản phẩm của phản ứng ARMS-PCR. Giếng 1: Chứng âm; Giếng 2: Chứng dương (III-
5); Giếng 3: Mẫu P1; Giếng 4: Mẫu P2; Giếng 6: Mẫu P3; Giếng 7: Mẫu P4
Giếng 5: Marker 100bp
eo kết quả của ARMS-PCR cho thấy chỉ có mẫu P1 xuất hiện cả 3 băng trong đó có 1 băng của gen
đột biến (kích thước 200bp), còn lại 3 mẫu phôi P2, P3, P4 xuất hiện 2 băng (không có băng của gen đột
biến). Như vậy, mẫu phôi P1 mang gen đột biến gây bệnh thận đa nang di truyền trội giống ở III-5.
Hình 6. Kết quả điện di sản phẩm phản ứng Touchdown PCR. Giếng 1, 8: chứng âm; Giếng 2, 9: chứng dương;
Giếng 3, 10: mẫu P1; Giếng 4, 11: mẫu P2; Giếng 5, 12: Mẫu P3; Giếng 6,13: Mẫu P4; Giếng 7: Marker 100bp
Kết quả của Touchdown PCR chỉ có mẫu P1 mang gen đột biến gây bệnh giống III-5 và 3 phôi
mới xuất hiện 2 băng có kích thước 116bp của gen P2, P3, P4 không mang gen đột biến này.
bình thường và 123bp của gen đột biến, còn lại 3
mẫu P2, P3, P4 chỉ xuất hiện 1 băng 116bp của gen BÀN LUẬN
bình thường. Vì vậy, có thể chẩn đoán mẫu P1 mang Kết quả hoàn thiện quy trình phát hiện bệnh
gen PKD1 đột biến giống ở III-5. trên mẫu máu ngoại vi với gia đình bệnh nhân
Bằng việc áp dụng 2 quy trình đã hoàn thiện trên Đoàn V. T
mẫu máu ngoại vi, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra
Kết quả phát hiện đột biến ở bệnh nhân Đoàn
di truyền trên 4 mẫu phôi của gia đình III-5 với III- V. T. mất 3 nucleotid CTC trên gen PKD1 từ vị trí
6 và đưa ra chẩn đoán cho 4 phôi gồm 1 phôi P1 9859 đến 986. Đây là đột biến đã được xác định gây
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 18/2020
74
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
bệnh. Các tác giả trước sử dụng các phương pháp dẫn tới chỉ sử dụng được một kĩ thuật chẩn đoán.
như Long range PCR hoặc giải trình tự gen thế Để giải quyết vấn đề này, một trong những giải pháp
hệ mới để phát hiện đột biến, nhưng các phương chúng tôi đưa ra là nhân toàn bộ gen của các mẫu
pháp này không áp dụng được trên mẫu phôi. Với phôi sinh thiết bằng kĩ thuật khuếch đại toàn bộ hệ
phương pháp ARMS-PCR và Touchdown PCR gen (Whole genome amplification - WGA).
trong nghiên cứu của chúng tôi có thể áp dụng để
Ta thấy rằng từ nguồn vật liệu di truyền nhiều
chẩn đoán trên cả mẫu máu ngoại vi và trên cả mẫu sau nhân toàn bộ gen nên khác với các tác giả trên
phôi. Toàn bộ mồi của cả hai phương pháp ARMS- thế giới, chúng tôi có thể thực hiện đồng thời nhiều
PCR và Touchdown PCR đều được nhóm nghiên kĩ thuật khác nhau nhằm kiểm tra kết quả. Bên cạnh
cứu tìm hiểu và tự thiết kế. Sau khi chạy song song đó, do đã sàng lọc được dạng đột biến nhờ giải trình
cả hai phương pháp trên mẫu máu ngoại vi, chúng tự gen ngay từ đầu nên việc xác định trực tiếp đột
tôi thấy rằng các sản phẩm tạo ra không có sản biến gen trở nên rõ ràng hơn.
phẩm phụ, chạy điện di băng sáng, rõ nét và đúng
Chúng tôi đã áp dụng thành công quy trình chẩn
kích thước đoạn cần nhân lên. Điều quan trọng là đoán trước chuyển phôi cho 4 phôi của gia đình II-5
kết quả chẩn đoán của cả hai phương pháp là trùng với III-6, trong đó phát hiện thấy 1 phôi mang đột
khớp nhau. Dùng hai phương pháp này phù hợp với biến mất đoạn giống bố, còn lại 3 phôi không mang
dữ liệu lâm sàng thực tế về người mang gen bệnh và gen bệnh. Với cách thức tương tự hoàn toàn có thể
người không mang gen bệnh. Như vậy kết quả chẩn áp dụng cho các đột biến điểm khác trên gen PKD1.
đoán của hai phương pháp là hoàn toàn đáng tin cậy.
Với hai phương pháp được sử dụng trên chúng KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
ta hoàn toàn có thể sàng lọc cho các bệnh nhân bị Kết luận
bệnh thận đa nang di truyền trội mang đột biến
Qua nghiên cứu xây dựng quy trình trên mẫu
mất 3 nucleotid CTC trên gen PKD1 từ vị trí 9859 máu ngoại vi và ứng dụng quy trình trên 4 phôi của
đến 9861 giống như trường hợp Đoàn V. T. Với các gia đình tự nguyện tham gia nghiên cứu chúng tôi
thành viên còn lại trong gia hệ sẽ phát hiện được rút ra một số kết luận như sau:
sớm bệnh thận đa nang di truyền trội nếu mang gen
bệnh. Điều này góp phần to lớn vào việc phát hiện mất 3 nucleotid CTC ở exon 29 trên gen PKD1 ở
và hạn chế sự phát triển của bệnh.
gia đình Đoàn V. T. bằng phương pháp ARMS-PCR
Áp dụng quy trình đã hoàn thiện trên mẫu phôi và Touchdown PCR.
- Đã xây dựng được quy trình phát hiện đột biến
của gia đình Đoàn V. T.
- Ứng dụng thành công quy trình phát hiện đột
Vấn đề làm chẩn đoán di truyền trước chuyển biến trên các thành viên và các mẫu phôi của gia
phôi trở thành một lĩnh vực rất khó đó là vật liệu đình bệnh nhân giúp chọn lọc trước chuyển phôi.
di truyền dùng để chẩn đoán rất ít, chỉ từ vài tế bào Kiến nghị
ngoại bì lá nuôi phôi.Vật liệu di truyền ít làm khả
- Tiếp tục áp dụng quy trình xây dựng được trên
năng thất bại trong nhân gen chẩn đoán rất cao. Hơn các gia đình bệnh thận đa nang khác.
nữa, các kĩ thuật chỉ được thực hiện một lần duy
- Tiến hành sàng lọc phát hiện đột biến gen gây
nhất không đánh giá được sự ổn định và không kết bệnh thận đa nang đối với người hiến thận và chẩn
hợp được nhiều phương pháp chẩn đoán làm giảm đoán di truyền trước chuyển phôi cho các cặp vợ
độ chính xác. Nếu nhân gen trực tiếp từ một tế bào chồng có nguyện vọng.
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 18/2020
0
75
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
SUMMARY
Study on pre-implantation genetic diagnosis of autosomal-dominant polycystic kidney disease
Autosomal dominant polycystic kidney disease (APKD) is mainly characterized by progressive cystic
dilatation of the renal tubules and other organs like liver, spleen, pancreas, and accounting for the end-
stage renal disease population. Early detection and pre-implantation genetic diagnosis (PGD) of ADPKD
have a great meaning for members in families of patient. Our research aims to develop and apply a mutant
detection process on PKD1 gene in peripheral blood samples and embryos in each specific family with
polycystic kidney disease. e research was conducted on a number of peripheral blood samples and
embryos on the 5th day of voluntarily family. One patient in this family was screened to detect exact
mutations by using NGS. e process of ARMS-PCR and Touchdown PCR were completed to check
mutations in peripheral blood samples and embryos. e process of using ARMS-PCR and Touchdown
PCR has resulted in accurate identification of the carriers having the mutant gene. is process is less
expensive than NGS and we can be used for other ADPKD families with the same mutation.
Keywords: Autosomal-dominant polycystic kidney disease, pre-implantation genetic diagnosis,
ARMS-PCR, Touchdown PCR.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lofus, Brendan J., et al. (1999), “Genome duplications and other features in 12 Mb of DNA sequence
from human chromosome 16p and 16q”, Genomics. 60(3), pp. 295-308.
2. Ravine, David, et al. (1992), “Phenotype and genotype heterogeneity in autosomal dominant polycystic
kidney disease”, e Lancet. 340(8831), pp. 1330-1333.
3. Rosseti, Sandro, et al. (2012), “Identification of gene mutations in autosomal dominant polycystic kidney
disease through targeted resequencing”, Journal of the American Society of Nephrology, p. ASN. 2011101032.
4. Symmons, Orsolya, Váradi, András, and Arányi, Tamás (2008), “How segmental duplications shape
our genome: recent evolution of ABCC6 and PKD1 Mendelian disease genes”, Molecular biology and
evolution. 25(12), pp. 2601-2613.
5. Tafi, Fatemeh Hajizadeh, et al. (2017), “Linkage Analysis of Autosomal Dominant Polycystic
Kidney Disease in Iranian Families through PKD1 and PKD2 DNA Microsatellite Markers”, Nephro-Urology
Monthly. 9(4).
6. Torres, Vicente E., Harris, Peter C., and Pirson, Yves (2007), “Autosomal dominant polycystic
kidney disease”, e Lancet. 369(9569), pp. 1287-1301.
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 18/2020
76
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu chẩn đoán di truyền trước chuyển phôi gen PKD1 gây bệnh thận đa nang di truyền trội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghien_cuu_chan_doan_di_truyen_truoc_chuyen_phoi_gen_pkd1_ga.pdf