Nghiên cứu các giải pháp “Kinh tế tuần hoàn - CE” áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP “KINH TẾ TUẦN HOÀN - CE”
ÁP DỤNG CHO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở
VIỆT NAM
ái ị Minh Nghĩa 1,2
Nguyễn ị Ánh Tuyết 1*
Nguyễn Quốc Định 2
Prasanta Kumar Dey 3
TÓM TẮT
Kinh tế tuần hoàn (KTTH) là giải pháp tiềm năng để sử dụng tốt hơn các nguồn lực, giúp giải quyết bài
toán giữa lợi ích kinh tế và môi trường, trong khi mô hình kinh tế tuyến tính hiện nay là nguyên nhân cơ bản
dẫn đến tình trạng thiếu hụt các nguồn tài nguyên và gây ra ô nhiễm môi trường. Được xác định dựa trên
nền tảng công nghệ để tạo ra lợi ích về kinh tế trong khi giảm bớt áp lực lên môi trường, mô hình KTTH đã
nhận được sự đón nhận của các tổ chức trong khu vực công và khối tư nhân ngày càng gia tăng. Mục đích
của nghiên cứu này hướng đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) ở Việt Nam có thể tiếp cận được và
áp dụng hiệu quả mô hình KTTH. ông qua điều tra online và khảo sát thực tế tại 24 doanh nghiệp (DN),
nghiên cứu đã phân tích nguồn lực sẵn có cũng như các vấn đề thách thức trong việc thiết lập mô hình KTTH
dựa trên nội lực của DNVVN tại Việt Nam. Phát triển các mối quan hệ tập thể dựa trên mạng lưới kết hợp với
quản trị thể chế là một chiến lược cần thiết và hiệu quả để hướng tới một mô hình kinh tế bền vững với môi
trường và phúc lợi cho xã hội.
Từ khóa: Kinh tế tuần hoàn, DN vừa và nhỏ, Viêt Nam.
Nhận bài: 12/3/2021; Sưa chha: 1 /3/2021; Duyêt ̣tng: 1:/3/2021.
1. Mở đầu
kinh tế tuyến tính, trên nguyên lý khai thác tài nguyên
từ môi trường tự nhiên làm đầu vào cho hệ thống kinh
tế, thông qua quá trình sản xuất, tiêu dùng và cuối cùng
thải loại ra môi trường [5]. Do đó, tính bền vững của
các DN (sự phát triển đảm bảo về mặt kinh tế, xã hội và
môi trường) là vấn đề chính của các DN này vì họ chỉ
chú trọng đến việc phát triển kinh tế, tuân thủ các mục
tiêu môi trường và xã hội mong muốn theo quy định và
nhu cầu toàn cầu ngày càng trở nên khó khăn hơn. Bên
cạnh đó, sự liên kết giữa các DNVVN ở Việt Nam khá
yếu, có rất ít mối liên hệ giữa các DN nhỏ và DN có quy
mô lớn còn yếu hơn.
Nghiên cứu này hướng tới đánh giá nhận thức và
những lỗ hổng về kiến thức và kỹ năng của các DNVVN
ở Việt Nam đối với mô hình KTTH; phân tích các vấn đề
và thách thức đối với các DN trong quá trình chuyển đổi
toàn bộ mô hình kinh tế theo hướng trở nên bền vững
DNVVN là một bộ phận quan trọng trong mô hình
kinh tế tư nhân và chiếm tỷ lệ lớn trong cộng đồng
DN Việt Nam. Năm 2019, cả nước có khoảng 541.700
DNVVN đang hoạt động trong mô hình kinh tế, với
tổng số vốn đăng kí khoảng 130 tỷ USD [1]. Hàng năm,
các DNVVN đóng góp 40% GDP, đóng góp 33% giá trị
sản lượng công nghiệp, 30% giá trị hàng hóa xuất khẩu
và thu hút gần 60% lao động [2]. Tuy nhiên, do quy
mô nhỏ, nên hoạt động của các DN này gặp khá nhiều
khó khăn như thiếu nguồn vốn để đầu tư vào máy móc,
công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất, kinh doanh,
thiếu kinh nghiệm điều hành DN, khả năng cạnh tranh,
chiếm lĩnh thị trường ngay trên thị trường nội địa còn
hạn chế [3].
Ở Việt Nam, hiểu biết của các bên liên quan về triết
lý KTTH và các lợi ích của nó vẫn còn hạn chế [4]. Các
DNVVN hiện nay chủ yếu sản xuất dựa trên mô hình hơn, thông qua sự tham gia của tất cả các bên liên quan.
1 Viên Khoa học và Công nghê Môi trường, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
2 Viên Khoa học Địa chất và Khoáng sản
3 Aston Business School, Aston University, Birmingham, UK
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 67
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Triết lý KTTH
KTTH (Circular Economy-CE) là một hệ thống
kinh tế có tính tái tạo và khôi phục thông qua các kế
hoạch và thiết kế có tính chủ động, nó thay thế khái
niệm “kết thúc vòng đời” của vật liệu bằng khái niệm
“khôi phục, chuyển dịch theo hướng sử dụng năng
lượng tái tạo, không dùng các hóa chất độc hại gây tổn
hại tới việc tái sử dụng và hướng tới giảm thiểu chất
thải thông qua việc thiết kế vật liệu, sản phẩm, hệ thống
kỹ thuật và cả mô hình kinh doanh trong phạm vi của
hệ thống đó [6]. KTTH là mô hình kinh tế trong đó các
hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm
giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời
sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác
động xấu đến môi trường [7]. Đây là một chiến lược
phát triển bền vững đang được đề xuất để giải quyết các
vấn đề cấp bách của suy thoái môi trường và khan hiếm
tài nguyên, trong đó tài nguyên đầu vào, chất thải, khí
thải và năng lượng được tối thiểu hóa ngay từ trong quy
trình sản xuất và tiêu dùng từ thiết kế, bảo trì, sửa chữa,
tái sử dụng, tái sản xuất, tân trang và tái chế lâu dài dựa
trên động lực kinh tế, hướng đến một mô hình kinh tế
không phát thải. KTTH dựa trên ba nguyên tắc chính
bao gồm: Bảo tồn, tăng cường vốn tự nhiên bằng cách
kiểm soát nguồn dự trữ hữu hạn và cân bằng các dòng
tài nguyên tái tạo; tối ưu hóa năng suất tài nguyên bằng
cách luân chuyển các sản phẩm, thành phần và vật liệu
ở mức độ cao nhất; tăng cường hiệu quả của hệ thống
▲Hình 1. Mối tương quan giha các lĩnh vực hoạt ̣ộng của
mô hình KTTH [9]
2.2. Phương pháp khảo sát và phân tích dữ liệu
Nghiên cứu đã áp dụng phương pháp thu thập dữ
liệu từ các DNVVN của Việt Nam, bao gồm 300 DN
đượckhảosáttrựctuyến(online)vàtừ24DNđượckhảo
sát trực tiếp. Kết quả khảo sát online những DNVVN
Việt Nam cùng các DNVVN của các nước trong khu
vực khác như Ấn Độ, Bangladesh, ái Lan… đã được
bằng cách giảm đến mức tối thiểu các ngoại ứng tiêu công bố trong nghiên cứu trước [3]. Nghiên cứu này
cực như ô nhiễm nước, không khí, đất và tiếng ồn, chất tập trung vào kết quả khảo sát và phỏng vấn trực tiếp
24 DNVVN trên địa bàn Hà Nội và Đà Nẵng. Mục tiêu
của khảo sát này hướng tới phân tích mối quan hệ giữa
các thành phần của mô hình KTTH (thiết kế, cung ứng,
sản xuất, phân phối, tiêu dùng và thu hồi sản phẩm) với
hiệu quả bền vững (kinh tế, môi trường và xã hội) của
các DNVVN ở Việt Nam theo mô hình cấu trúc như
Hình 1. Cấu trúc của khảo sát gồm 84 câu hỏi tập trung
trong 5 trường thông tin chính bao gồm:
độc hại… [8].
Từ việc nhìn thấy những lợi ích của mô hình KTTH
như sử dụng hiệu quả chất thải đầu ra, tiết kiệm tài
nguyên đầu vào và tạo ra sản phẩm hàng hóa cạnh
tranh trên thị trường, giúp mang lại hiệu quả sản xuất
kinh doanh cho DN thì nhiều DN lớn cũng đã áp dụng
KTTH và gần đây đã bắt đầu khuyến khích chuỗi cung
ứng của họ cũng áp dụng KTTH. Tuy nhiên, việc tiếp
nhận KTTH ở các DNVVN rất chậm. Các hoạt động
liên quan đến KTTH mà các DNVVN có khả năng thực
- Phần A: Nhân khẩu học của DN;
- Phần B: Các hoạt động có tính chu kỳ trong mô
hiện như giảm thiểu chất thải, lập kế hoạch về việc sử hình KTTH: iết kế - Cung ứng - Sản xuất - Phân
dụng năng lượng, thiết kế các sản phẩm và dịch vụ, sử
dụng năng lượng tái tạo và sử dụng nước hợp lý.
phối - Sử dụng - u hồi;
- Phần C: Các cơ hội và rào cản cho việc áp dụng
KTTH tại DN;
- Phần D: Hiệu quả bền vững khi DNVVN áp dụng
mô hình KTTH: Hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường;
- Phần E: Những vấn đề về sức khỏe cộng đồng và
thách thức về sức khỏe tinh thần tại nơi làm việc của
các DNVVN hiện nay.
Đồng thời trong quá trình khảo sát, DN cũng được
giải thích về mô hình vận hành và những lợi ích của
Nghiên cứu này thông qua khảo sát mối tương quan
giữa các lĩnh vực hành động và hiệu quả bền vững đang
được áp dụng tại các DNVVN, đối chiếu với những
hành động và hiệu quả của mô hình cấu trúc KTTH
được trình bày trong Hình 1. Từ đó sẽ xác định rõ các
vấn đề và thách thức cần giải quyết để áp dụng phù hợp
KTTH vào các DNVVN thông qua việc xây dựng chiến
lược phù hợp nhất, xác định nguồn lực và phát triển
năng lực.
68 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
KTTH, nêu ý kiến về mức độ đánh giá của họ đối với
các hoạt động có tính tuần hoàn của mô hình kinh tế.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Kết quả khảo sát trực tiếp tại các DN về KTTH
Từ dữ liệu khảo sát, sử dụng một số kỹ thuật phân
tích và xử lý số liệu phổ biến để đánh giá nhận thức và
sự sẵn sàng của DN về các hoạt động liên quan đến các
lĩnh vực hành động trong mô hình KTTH. Kết quả điều
tra cũng tạo điều kiện giúp DN nhận thức sâu hơn tầm
ảnh hưởng của các cơ hội và rào cản, cho phép hiểu biết
vai trò của việc giải quyết các thách thức về sức khỏe
tinh thần cộng đồng và sức khỏe tinh thần của người
lao động tại nơi làm việc nhằm mục đích áp dụng cách
tiếp cận về KTTH tại Việt Nam.
Trong số các DNVVN tham gia khảo sát điền phiếu
online, có 24 DN được lựa chọn để khảo sát và phỏng
vấn trực tiếp. Tiêu chí lựa chọn DN để khảo sát trực
tiếp bao gồm: Tính đại diện cho ngành nghề sản xuất
kinh doanh, quy mô DN và sự tự nguyện tham gia
nghiên cứu. Kết quả nhân khẩu học của 24 DN trả lời
hữu dụng với đặc điểm của người trả lời được thể hiện
trong Bảng 1.
Bảng 1. Nhân khẩu học của DN
Đặc điểm của đối tượng được phỏng vấn
Loại hình DN
Số lượng
Tỷ lệ (%)
54.2
12.5
12.5
12.5
4.2
Cơ sở sản xuất và chế biến
Nhựa, in bao bì
Sản xuất hàng may mặc
Gỗ và giấy
Loại hình dịch vụ
Xử lý môi trường
13
3
3
3
1
1
4.2
Tổng
24
10
7
5
2
100.0
41.7
29.2
20.8
8.3
Vị trí/ Chức vụ người trả lời
Cấp giám đốc
Cấp quản lý
Hành chính
Nhân viên
Tổng
Số lượng nhân viên
24
3
7
8
6
24
2
3
14
4
1
100.0
12.5
29.2
33.3
25.0
100.0
8.3
12.5
58.3
16.7
4.2
<10
10-50
51-100
101-250
Tổng
% doanh thu tài chính tăng lên trong 5 năm vừa qua
Rất cao (>20%)
Cao (10-20%)
Trung bình (5-10%)
ấp (<5%)
Âm (<0%)
Tổng
24
6
18
24
4
20
24
2
100.0
25.0
75.0
100.0
16.7
83.3
100.0
8.3
Số DN có chứng nhận môi trường
Có
Không
Tổng
Số DN có khóa đào tạo phát triển kỹ năng về Quản lý môi Có
trường cho nhân viên trong công ty
Tổng
Không
Dự án quản lý môi trường đã thực hiện trong ba năm qua
Có
Không
22
24
7
17
24
91.7
100.0
29.2
70.8
100.0
Tổng
Dự án về phúc lợi xã hội tại công ty trong ba năm qua
Có
Không
Tổng
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 69
▲Hình 3. Mức ̣ộ ̣ánh giá về các hoạt ̣ộng có tính chu kì
của KTTH
▲Hình 2. Kết quả khảo sát DN
Hiện trạng hoạt động của các DNVVN được tìm hiểu
qua việc thiết lập mối tương quan giữa các lĩnh vực hành
động của KTTH với hiệu quả bền vững. Khảo sát được
thực hiện theo các mức đánh giá từ “Rất không đồng ý -
Không đồng ý - Trung lập - Đồng ý - Rất đồng ý” tương
ứng với thang điểm từ 1-2-3-4-5 được tổng hợp dưới dạng
biểu đồ. Kết quả được thế hiện trên hình 2.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy những DN này đã có
nhận thức ban đầu về những khái niệm liên quan đến mô
hình KTTH, tuy nhiên mối quan tâm chưa thực sự được
chú trọng khi điểm đánh giá trung bình của các hoạt động
này chỉ ở mức 3,57. Các DN được khảo sát đều hiểu những
thách thức gây ra bởi sự khan hiếm tài nguyên thiên nhiên
và biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng tới doanh thu và tăng
trưởng kinh doanh của mình. Tuy nhiên, chưa có DN nào
trong số này nói rằng họ có những kế hoạch để nâng cao
nhận thức và áp dụng thực hành sản xuất thân thiện với
môi trường hay những dự án liên quan đến việc quản lý
môi trường hoặc phúc lợi xã hội trong công ty của mình.
Điều này giải thích tại sao các công ty này vẫn chưa có
những kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện các giải
pháp KTTH, hướng tới xây dựng một DN bền vững trong
dài hạn. Trong đó, những đánh giá cụ thể của DN về từng
hoạt động có tính chu kì trong mô hình KTTH được thể
hiện trên Hình 3.
Mặc dù thấy được những cơ hội của việc áp dụng
KTTH nhưng song hành với đó thì DN cũng gặp phải
những thách thức đáng kể của việc thay đổi mô hình kinh
doanh hiện tại (mức đánh giá 3.7). Những cơ hội mà DN
nhìn thấy cũng chính là lợi ích khi họ áp dụng KTTH vào
trong sản xuất, kinh doanh của mình. Điều đó không chỉ
đem lại hiệu quả về kinh tế, nâng cao hình ảnh của DN,
đồng thời mang lại những ảnh hưởng tích cực tới môi
trường và xã hội hiện nay, là động lực chính thúc đẩy các
DN thay đổi mô hình sản xuất kinh doanh. Trong đó, mức
độ đánh giá cụ thể của DN về những tác động của KTTH
được thể hiện trên Hình 4.
▲Hình 4. Mức ̣ộ ̣ánh giá về tác ̣ộng của mô hình KTTH
3.2. Phân tích các thách thức cho việc áp dụng
KTTH tại các DNVVN Việt Nam
Các DNVVN được khảo sát hiện nay đều đang vận
hành theo mô hình kinh tế tuyến tính, dựa trên nguyên
lý Khai thác - Sử dụng - ải bỏ. Các DN này ít quan
tâm đến các vấn đề về lượng khí thải cacbon trong quá
trình sản xuất đối với môi trường và thường không chịu
trách nhiệm về các sản phẩm của họ sau khi chúng được
chuyển sang giai đoạn phân phối, sử dụng, thậm chí
không có ý định thu hồi những sản phẩm đó sau quá
trình sử dụng của khách hàng. Đây là một trong những
nguyên nhân gây lãng phí nguồn tài nguyên tại các DN
này khi rác thải không được quay vòng trở lại thành tài
nguyên, đồng thời, khiến cho các ngành sản xuất tạo ra
nhiều khí thải cácbon hơn và góp phần vào quá trình
biến đổi khí hậu.
Các DN được phỏng vấn cho biết rằng họ chỉ đủ khả
năng thực hiện thiết kế sinh thái nếu nó có khả thi về
mặt kinh tế, bởi sự cạnh tranh gay gắt trong quá trình
70 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
kinh doanh. Do đó, quá trình sản xuất hiện tại của các
DN hầu hết chưa hướng đến mô hình phát triển bền
vững. Các DN này có rất ít sự lựa chọn vật liệu vì các
thiết kế và đặc điểm kỹ thuật cho sản phẩm được thực
hiện bởi khách hàng mà không có bất cứ sự tham vấn
nào của nhà cung cấp. Hạn chế về nguồn vốn cũng làm
ảnh hưởng đến việc ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất hoặc sử dụng nguồn lao động có trình tay nghề
độ cao. Các DN cũng cho biết rằng sản phẩm tái chế gặp
rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh về giá và tâm
lý người tiêu dùng còn nhiều e dè khi sử dụng những
sản phẩm này.
Vì quy mô sản xuất nhỏ, phần lớn được phát triển
từ quy mô hộ gia đình nên các DN trên gặp khó khăn
về mô hình quản trị, không thể tự mình vận hành được
đầy đủ các hoạt động có tính chu kì của mô hình KTTH
mà cần có sự hợp tác của nhiều DN lại với nhau để tạo
thành một mô hình KTTH có hiệu quả. Tuy nhiên, hiện
nay sự liên kết của các DN này rất yếu kém, có rất ít
mối liên kết giữa những DNVVN với nhau hoặc giữa
DNVVN với những DN có quy mô lớn khác. Bên cạnh
đó, các DNVVN nói rằng họ thiếu thông tin về mạng
lưới KTTH, chưa có kênh liên kết nào giúp họ có những
nhận thức và kết nối về hoạt động theo mô hình KTTH
hiện nay.
Ở Việt Nam, đã xuất hiện những chính sách để
khuyến khích việc áp dụng KTTH vào các quá trình
sản xuất trong DN. Luật BVMT năm 2020 đã có Điều
khoản số 142 đề cập đến nội hàm mô hình KTTH, tuy
nhiên chưa có những hướng dẫn chi tiết hay quy định
cụ thể để thực hiện, chẳng hạn như sử dụng vật liệu tái
chế để có thêm định hướng cho các bên liên quan trong
việc áp dụng khiến các DN này gặp khó khăn khi sử
dụng những nguồn nguyên liệu tái chế cho việc quay
vòng sản xuất. Ngoài ra, việc tiếp cận các nguồn lực xã
hội, vốn tín dụng, nguồn vốn về các quỹ, về tiếp cận đất
đai để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh còn gặp nhiều
khó khăn, nhất là đối với các DNVVN, dẫn đến các vấn
đề về phúc lợi xã hội của nhân viên cũng bị hạn chế do
thiếu sự hỗ trợ từ các tổ chức công.
- Có các biện pháp liên quan đến dán nhãn sản phẩm,
tiêu chuẩn hóa, chứng nhận cho những sản phẩm xanh
giúp người tiêu dùng dễ dàng có những lựa chọn hợp lý.
- Tạo ra một hệ thống trách nhiệm của các DN với
các sản phẩm của họ, đẩy mạnh áp lực của các DN bằng
nhóm tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm và môi trường.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có những cơ chế, chính
sách về tài khóa và tiền tệ nhằm huy động các nguồn
lực xã hội tham gia vào khâu sản xuất nguyên liệu, phát
triển ngành công nghiệp phụ trợ hỗ trợ các ngành cùng
phát triển. Có chính sách rõ ràng để hỗ trợ DN đầu tư
vào công nghệ sạch, đặc biệt là chính sách thuế, khuyến
khích tài trợ hoặc giảm lãi suất ngân hàng.
Từ nguyên tắc vận hành của các DNVVN hiện
nay có thể thấy cơ hội rất lớn để nâng cao năng suất
kinh doanh cũng như hiệu quả hoạt động xã hội và
môi trường tại các DN này. Các chiến lược để áp dụng
KTTH vào các DN là cách tiếp cận tích hợp thông qua
các hoạt động xuyên suốt chuỗi cung ứng và dựa trên
những nguồn lực sẵn có tại các DNVVN hiện nay như:
Nguồn nguyên liệu tái sinh, cơ sở hạ tầng truyền thông,
phương tiện và công nghệ cho việc thu hồi, từ đó hướng
đến các mục tiêu như:
- iết kế và thiết kế lại sản phẩm với sự cộng tác
của khách hàng để tối ưu hóa nguồn tài nguyên, giảm
tiêu thụ năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo, khuyến
khích sử dụng nhiên liệu sinh học thông qua các hoạt
động phân phối và thu hồi;
- Giảm đóng gói hoặc sử dụng các vật liệu đóng gói
có thể phân hủy sinh học;
- Sử dụng 100% vật liệu có thể tái chế;
- Áp dụng công nghệ 4.0 để quản lý dữ liệu trên toàn
bộ chuỗi cung ứng, thành lập các mạng lưới trong mỗi
lĩnh vực ngành nghề;
- Đào tạo nhân lực đáp ứng nhận thức về khoa học
kỹ thuật và ban quản lý cam kết vận hành mô hình;
- Áp dụng nhãn sinh thái đối với sản phẩm và hệ
thống dịch vụ nhấn mạnh vào việc sửa chữa nếu có thể.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, việc thúc
đẩy mô hình KTTH cần dựa trên các DNVVN nội sinh.
Các DN này cần có sự liên kết tạo ra một mạng lưới để
có thể kết nối, chia sẻ thông tin với nhau trong việc áp
dụng mô hình KTTH một cách hiệu quả. Mỗi DN có
thể đóng vai trò thực hiện một hoạt động trong chuỗi
“iết kế - Cung ứng - Sản xuất - Phân phối - Sử dụng
- u hồi” giúp hình thành nên các cụm công nghiệp
sinh thái.
3.3. Các cơ hội và giải pháp để áp dụng KTTH tại
các DNVVN ở Việt Nam
Để hướng tới chuyển đổi sang mô hình KTTH với
các DNVVN ở Việt Nam, Chính phủ cần có những
chính sách về:
- Sử dụng các sản phẩm tái chế hoặc những vật liệu
thân thiện với môi trường, hướng tới xây dựng và phát
triển tiêu chuẩn cho các sản phẩm tái chế và vật liệu
sinh học;
4. Kết luận
- Xem xét áp thuế đối với các sản phẩm tái chế hoặc
ông qua khảo sát thực tế và phân tích nguồn lực
hiện có của các DNVVN Việt Nam, nghiên cứu đã chỉ
các sản phẩm từ nguyên liệu sinh học ít hơn đối với những
sản phẩm được làm từ nguyên liệu nguyên sinh, thúc đẩy rõ các thách thức trong việc chuyển đổi từ cách thức
cho thị trường của các sản phẩm tái chế phát triển;
kinh doanh truyền thống sang mô hình KTTH. Nhìn
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 71
chung, sẽ không có công cụ chính sách đơn lẻ nào có phát triển tri thức và đổi mới công nghệ. Kết quả này
thể kích hoạt, định hướng lại toàn diện về KTTH cho có thể mở rộng nghiên cứu ứng dụng cho từng nhóm
các DNVVN ở Việt Nam hiện nay mà cần phải triển ngành cụ thể, làm cơ sở đề xuất chính sách phát triển
khai các gói chính sách tổng thể trong đó có các công cụ các ngành trong sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với
chiến lược. Hơn nữa, cần có phạm vi cho các chính sách BVMT■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
6. Ellen MacArthur Foundation (2012), Towards the circular
economy:Economicandbusinessrationaleforanaccelerated
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), “Sách trắng DN Viêt Nam
transition,
năm 2019”, Nxb ống kê, Hà Nội
org/assets/downloads/publications/Ellen-MacArthur-
Foundation-Towards-the-Circular-Economy-vol.1.pdf
7. Luật BVMT (2020), Luật số 72/2021/QH14, Điều 142,
2020-qh14-32703
2. Chu anh Hải (2020), “Phát triển DN nhỏ và vừa ở Viêt
Nam hiên nay”, Tạp chí Khoa học Xã hội Viêt Nam, Viên
vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/phat-trien-
doanh-nghiep-nho-va-vua-o-viet-nam-hien-nay-96
3. Prasanta Kumar Dey, Chrisovaladis Malesios, Debashree
De, Pawan Budhwar, Soumyadeb Chowdhury, Walid
Cheffi (2020), “Circular economy to enhance sustainability
of small and medium-sized enterprises”
4. Isponre Viet Nam and UNDP (2020), “Analytical report:
Case Studies and Best Practices Applying circular economy
principles to the Vietnamese context”
5. Nguyễn ế Chinh (2019), “Cơ hội và thách thức cho phát
triển kinh tế tuần hoàn ở Viêt Nam”, Viên Chiến lược,
vn/home/dien-dan/1804-co-hoi-va-thach-thuc-cho-phat-
trien-kinh-te-tuan-hoan-o-viet-nam
8. Ellen MacArthur Foundation (2015), Delivering
the circular economy
a toolkit for policymakers,
downloads/publications/EllenMacArthurFoundation_
PolicymakerToolkit.pdf
9. Nguyễn ị Ánh Tuyết và cộng sự (2021), Báo cáo tổng kết
dự án “Trung tâm tri thức về Kinh tế tuần hoàn: úc ̣ẩy
Nghiên cứu ̣a ngành, nâng cao năng lực và khả năng lãnh
̣ạo do Newton Fund tài trợ”, Viên Khoa học và Công nghê
Môi trường, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
RESEARCH ON “CIRCULAR ECONOMY - CE” SOLUTIONS APPLIED
TO SMALL AND MEDIUM - SIZED ENTERPRISES IN VIETNAM
ai i Minh Nghia, Nguyen i Anh Tuyet
School of Environmental Science and Technology, Hanoi University of Science and Technology
Nguyen Quoc Dinh
Vietnam Institute of Geoscience and Mineral Resources, e Ministry of Natural Resources and Environment
Prasanta Kumar Dey
Aston Business School, Aston University, Birmingham, UK
ABSTRACT
Circular economy is a potential solution for better use of resources, helping to solve the problem between
economic benefits and the environment issues, while the current linear economic model is the basic cause
that leads to a shortage of natural resources and serious environmental pollution. Defined as a technological
concept to generate economic benefits while minimizing pressure on the environment, the circular economic
model has received a delightful reception from public institutions and private sectors. Multiplication is
increasing. e purpose of this study is to target small and medium enterprises in Vietnam to be able to
effectively access and apply the circular economic model. rough online surveys and field surveys in 24
enterprises, the research analyzed available resources as well as challenges in establishing a circular economic
model based on internal resources of medium and small enterprises in Vietnam. Development of network-
based collective relationships combined with institutional governance is a necessary and effective strategy
towards a sustainable economic model with environmental and social well-being.
Key words: Circular economy, small and medium enterprises, Vietnam.
72 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu các giải pháp “Kinh tế tuần hoàn - CE” áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghien_cuu_cac_giai_phap_kinh_te_tuan_hoan_ce_ap_dung_cho_ca.pdf