Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính
193
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỆM KỲ KIỂM TOÁN ĐẾN TÍNH ĐỘC LẬP
CỦA KIỂM TOÁN VIÊN KHI THỰC HIỆN KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Nguyễn Thị Lan Anh*
Nguyễn Văn Đông**
TÓM TẮT: Bằng việc phân tích các nội dung điển hình liên quan đến việc hình thành năm nguy cơ đe dọa
tính độc lập của kiểm toán viên (KTV) (trong nhiệm kỳ ngắn và nhiệm kỳ mở rộng) khi đưa ra kết luận về
báo cáo tài chính (BCTC), nhóm Tác giả đã tìm thấy bằng chứng về ảnh hưởng giữa nhiệm kỳ kiểm toán
(Audit firm Tenure) mở rộng (kéo dài) và tính độc lập của KTV. Một bảng hỏi được thiết kế và gửi qua mạng
internet đến các KTV đang làm việc tại các công ty kiểm toán tại Việt Nam để thu thập thông tin và thu
về 121 phiếu trả lời hợp lệ. Phương pháp kiểm định giả thuyết về giá trị trung bình của 2 tổng thể (Paired
Samples T-test) được thực hiện nhằm so sánh các tình huống tương tự trong cả hai nhiệm kỳ kiểm toán
ngắn và dài để xem xét mối liên hệ giữa tính độc lập với nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng hay không. Kết quả
kiểm định cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa hai yếu tố này. Từ đó, nhóm Tác giả đã hình thành đề xuất
đối với KTV và cơ quan quản lý Nhà nước trong việc duy trì tính độc lập của kiểm toán viên khi kiểm toán
BCTC cho các đơn vị có lợi ích công chúng.
Từ khóa: kiểm toán viên, độc lập, kinh nghiệm, đơn vị có lợi ích công chúng, nhiệm kỳ kiểm
toán
ABSTRACT: By analyzing the typical situations related to the formation of five threats to the independence
of auditors (in short and extended audit tenures) when forming an opinion about financial statements, the
Authors reached the main purpose on the impact of the extended audit tenure on auditor independence.
Questionnaires was designed and sent to 300 auditors who are working at auditing companies in Vietnam
to collect primary data. However, only 121 usable responses were available for the study. Descriptive
statistics and the paired samples t-test were used for the analysis of the responses and testing the
hypothesis for statistical significance. The research results show that there is a relationship between
auditor independence and the extended audit tenures. Based on our findings, some key intuitive
recommendations were proposed for auditors and State agencies in order to maintain the independence
of auditors when they audit the financial statements of public interest entities.
Keywords: Auditor, independence, experience, public interest entities, audit tenure
1. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
Kiểm toán BCTC là một trong những dịch vụ chủ yếu được các công ty kiểm toán cung cấp
* Đại học Kinh tế quốc dân, Việt Nam. Tác giả nhận phản hồi: Email: nguyenlananh1182@gmail.com - Điện thoại: 0981829911
** Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam
194
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
hiện nay. Nguyện vọng thiết yếu của các nhà đầu tư, chủ sở hữu, nhà quản lý, khách hàng, nhà
cung cấp, thậm chí cả người lao động trong doanh nghiệp… là được sử dụng thông tin tài chính
đáng tin cậy nhằm đưa ra quyết định đúng đắn. Để có cuộc kiểm toán với chất lượng toàn diện thì
người nắm giữ vai trò kiểm toán (KTV) phải có phẩm hạnh tốt và trình độ chuyên môn vững vàng
(Nguyễn Quang Quynh và Nguyễn Thị Phương Hoa, 2016, tr 40). Trong đó, độc lập được coi là
nguyên tắc cơ bản hàng đầu về đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề kiểm toán (Trần Thị
Giang Tân và cộng sự, 2014, tr 255). Hơn nữa, cuộc kiểm toán được thực hiện vì lợi ích của công
chúng nên KTV được đòi hỏi độc lập về cả hình thức lẫn tư tưởng (Bộ Tài chính, 2015).
Đã có rất nhiều nghiên cứu về tính độc lập của KTV trong lịch sử phát triển của kiểm toán.
Ngay từ năm 1992, Miller (1992) đã khẳng định về sự cần thiết phải xem xét đến tư chất của KTV
tham gia vào cuộc kiểm toán. Các nhà quản lý có trách nhiệm thuê, chấm dứt hợp đồng kiểm
toán… trong thẩm quyền của họ, điều này khiến KTV có thể bị ảnh hưởng bởi vấn đề xung đột lợi
ích và nhiều nguy cơ phá vỡ nguyên tắc độc lập khi kiểm toán BCTC. Thêm vào đó, sự lệ thuộc
vào lợi ích kinh tế từ những dịch vụ phi kiểm toán mà công ty kiểm toán cung cấp cho khách hàng;
mối quan hệ giữa công ty kiểm toán với khách hàng, mối quan hệ cá nhân nảy sinh giữa KTV với
thành viên của khách thể kiểm toán do nhiệm kỳ kiểm toán kéo dài… có thể ảnh hưởng lớn đến
tính độc lập của KTV khi thực hiện kiểm toán. Ngoài ra, vấn đề đảm bảo tính độc lập ngày càng
trở nên khó khăn hơn khi đối tượng kiểm toán ngày càng phức tạp, số lượng các công ty kiểm toán
gia tăng, phí kiểm toán có khả năng giảm trong điều kiện cạnh tranh.
Một trong ba nguyên tắc cơ bản khi lựa chọn đội ngũ KTV cho cuộc kiểm toán là công ty
kiểm toán cần tránh thay đổi KTV cho một khách hàng trong nhiều năm. KTV có thể tích lũy kinh
nghiệm kiểm toán cũng như những hiểu biết sâu về khách hàng của mình từ đó tăng hiệu quả cho
cuộc kiểm toán (Nguyễn Quang Quynh và Ngô Trí Tuệ, 2014, trang 126). Tuy nhiên, KTV có xu
hướng dễ dàng lựa chọn ý kiến chấp nhận toàn phần cho cuộc kiểm toán BCTC nếu kéo dài thời
gian kiểm toán tại một khách hàng (Vanstraelen, 2000). Chính vì vậy, để hạn chế khả năng vi phạm
tính độc lập, các quốc gia trên thế giới đều có những qui định cụ thể về thời hạn luân chuyển KTV
của các công ty kiểm toán. Tại Việt Nam, thành viên Ban Giám đốc phụ trách tổng thể cuộc kiểm
toán và KTV hành nghề ký báo cáo kiểm toán không được phép ký báo cáo kiểm toán quá 3 năm
liên tục cho một khách hàng (Bộ Tài chính, 2015) và độ dài tối đa của nhiệm kỳ kiểm toán là 5 năm
nằm trong các qui định tại Mỹ và Brazil.
Để tăng cường hiệu quả kiểm toán, các công ty kiểm toán muốn thực hiện kiểm toán BCTC
trong nhiều năm với các khách hàng (kéo dài nhiệm kỳ kiểm toán), mặt khác, ngoài việc cung cấp
dịch vụ kiểm toán BCTC, các công ty kiểm toán còn cung cấp nhiều dịch vụ phi kiểm toán như
tư vấn thuế, tư vấn kế toán, soát xét BCTC, dịch vụ nâng cao hiệu quả hoạt động (tài chính, chuỗi
cung ứng, tư vấn quản trị rủi ro…)... Những vấn đề trên đã trở thành một trong những nguyên nhân
hình thành sự hoài nghi về việc khó xử của KTV khi tuân thủ tính độc lập trong quá trình kiểm toán
(Craswell, 1999; Quick and Warming-Rasmussen, 2005). Vì vậy, nghiên cứu quan điểm của người
được khảo sát về tác động của nhiệm kỳ kiểm toán đến tính độc lập của KTV khi thực hiện kiểm
toán BCTC có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ kết quả nghiên cứu, nhóm
Tác giả hình thành các giải pháp ngăn chặn hành vi vi phạm tính độc lập của KTV trong việc đưa
ra gợi ý về độ dài của một nhiệm kỳ kiểm toán.
195
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, nhóm tác giả đã trả lời hai câu hỏi nghiên cứu sau đây:
Câu hỏi 1: Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có làm ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV khi thực hiện
kiểm toán BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng không? và Câu hỏi 2: Thời gian của nhiệm
kỳ kiểm toán là bao lâu để không ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV trong quá trình kiểm toán
BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng?; Đối tượng nghiên cứu là nhiệm kỳ của KTV khi thực
hiện kiểm toán BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng.
Ngoài Phần 1 - Giới thiệu, bài viết gồm các nội dung cơ bản sau: Phần 2 - Tổng quan nghiên
cứu; Phần 3 - Cơ sở lý luận, Phần 4 - Phương pháp nghiên cứu, Phần 5 - Thảo luận kết quả nghiên
cứu và Phần 6 - Kết luận.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Các nghiên cứu trên thế giới
Nhiệm kỳ kiểm toán là khoảng thời gian mà một công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán liên
tục cho các khách hàng của mình. Trong lịch sử phát triển của kiểm toán, đã có nhiều nghiên cứu
thực nghiệm được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố này đến tính độc lập của KTV.
Thời gian kiểm toán cho một khách hàng kéo dài sẽ có nguy cơ tạo ra sự quen thuộc giữa hai bên,
điều này có thể làm ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV và chất lượng kiểm toán. Tổng hợp các
nghiên cứu đã thực hiện, nhóm nghiên cứu xác định, tồn tại hai nhóm quan điểm khác nhau về ảnh
hưởng của độ dài nhiệm kỳ kiểm toán đối với tính độc lập của KTV khi kiểm toán BCTC.
Theo quan điểm thứ nhất, độ dài của nhiệm kỳ kiểm toán không ảnh hưởng đến tính độc
lập của KTV. Việc duy trì cùng một công ty kiểm toán trong thời gian dài được coi là kinh tế hơn
đối với kiểm toán khách hàng có qui mô lớn do chi phí cho việc nghiên cứu ban đầu về khách thể
kiểm toán cao. Liên quan đến việc thu hút khách hàng, Geiger và Raghunandan (2002) cho rằng,
các công ty kiểm toán có xu hướng giảm giá phí kiểm toán trong năm đầu tham gia kiểm toán để
thu hút khách hàng, do đó, tất yếu công ty kiểm toán cần duy trì khách hàng càng lâu càng tốt để
có thể phục hồi lại khoản lỗ của mình từ năm đầu tiên; họ đã chứng minh, sự liên kết lâu dài giữa
công ty kiểm toán và khách hàng của công ty không thực sự làm giảm tính độc lập của KTV, tính
độc lập đó chỉ bị suy giảm trong năm đầu tham gia kiểm toán chứ không phải cho toàn bộ cam kết
kiểm toán lâu dài. Cũng đồng tình với quan điểm này, thông qua việc phân tích dữ liệu thu được
bằng kiểm định T do 1.250 KTV Thụy Điển cung cấp, Chia-Ah và Karlsson (2010) khẳng định
không có bất kỳ sự đe dọa nào đến tính độc lập của KTV khi nhiệm kỳ kiểm toán được kéo dài.
Cũng với kết quả nghiên cứu thực nghiệm Ouyang và Wan (2013) đã tìm thấy bằng chứng về sự
ảnh hưởng của việc kéo dài nhiệm kỳ kiểm toán đối với những khách hàng có qui mô nhỏ đến tính
độc lập từ đó ảnh hưởng đến chất lượng của cuộc kiểm toán. Các tác giả cũng cho rằng, nhiệm kỳ
kiểm toán trong thời gian 10 năm không còn phù hợp đến thời điểm hiện nay.
Theo quan điểm thứ hai, độ dài của nhiệm kỳ kiểm toán ảnh hưởng đến tính độc lập của
KTV. Mautz và Sharaf (1961) đã lưu ý rằng sự liên kết lâu dài với cùng một khách hàng có thể dẫn
đến hậu quả là sự trung thực của KTV không được đề cao, vì vậy, nếu giữ lại các KTV trong hơn
năm năm sẽ ảnh hưởng và làm giảm tính độc lập kiểm toán (Teoh và Lim, 1996). Do đó, một KTV
bắt buộc tuân thủ chế độ luân chuyển sẽ cải thiện chất lượng kiểm toán bằng cách giảm khả năng
các khách hàng có điều kiện gây ra ảnh hưởng xấu đến các đánh giá của KTV (Brody và Moscove,
196
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
1998) và giảm thiểu các mối đe dọa đến thái độ độc lập của họ. Trong một môi trường thử nghiệm,
Dopuch và cộng sự (2001) nhận thấy, các KTV ít có khả năng áp đặt một kết quả kiểm toán có lợi
cho khách hàng nếu nhiệm kì kiểm toán ngắn, tạo cơ sở để khách hàng cải thiện chất lượng BCTC.
Theo chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán của nhiều quốc gia, độc lập là khía cạnh
quan trọng nhất nhằm đảm bảo tính khách quan khi ban hành ý kiến kiểm toán. Đứng trên quan
điểm của người sử dụng kết quả kiểm toán, chất lượng kiểm toán sẽ được đảm bảo khi KTV giữ
được thái độ độc lập trong quá trình kiểm toán, do đó, các qui định luân chuyển kiểm toán được
hình thành. Tuy nhiên, theo Petty và Cuganesan (1996), việc bắt buộc luân chuyển kiểm toán sẽ
dẫn đến gia tăng chi phí kiểm toán cũng như làm giảm sự thu hút của công ty kiểm toán đối với
nhân lực kiểm toán chất lượng cao do thu nhập của họ có nguy cơ sụt giảm từ chi phí kiểm toán
lớn và khi đó, khách hàng có thể buộc phải chấp nhận chất lượng dịch vụ thấp hơn từ chủ thể kiểm
toán.
Nghiên cứu tại Việt Nam
Thông qua kết quả phân tích hồi qui (được thực hiện trên 660 quan sát), Nguyễn Anh Hiền
(2017) đã không tìm thấy bằng chứng về mối liên hệ giữa thời hạn luân chuyển KTV và chất lượng
kiểm toán. Ngoài ra, kết quả thống kê mô tả cho thấy, nếu cùng một KTV thực hiện kiểm toán
BCTC thì chất lượng kiểm toán sẽ tăng dần theo từng năm và đạt cao nhất ở năm thứ 5; từ năm
thứ 6 chất lượng kiểm toán bắt đầu giảm và giảm mạnh ở năm thứ 7 (Nguyễn Anh Hiền, 2017).
Khoảng trống nghiên cứu
Như vậy, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của nhiệm kì
kiểm toán đến tính độc lập của KTV khi thực hiện kiểm toán BCTC, tuy nhiên, theo hiểu biết của
nhóm Tác giả, chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam đề cập đến vấn đề này. Vì vậy, trong khuôn
khổ của bài viết, chúng tôi tập trung làm rõ ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán đến tính độc lập
của KTV khi thực hiện kiểm toán BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng tại Việt Nam.
3. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khung lý thuyết
Jensen & Meckling (1976) cho rằng xung đột sẽ phát sinh khi có thông tin không đầy đủ và
bất cân xứng giữa chủ sở hữu và người quản lý (những người được các chủ sở hữu ủy quyền để sử
dụng các loại tài sản của họ). Hơn nữa nhà quản lý không phải lúc nào cũng hành động vì lợi ích
lớn nhất của chủ sở hữu. Thực tế cho thấy, cả hai bên hướng đến những lợi ích khác nhau và vấn đề
này sẽ được giảm thiểu bằng cách sử dụng các cơ chế thích hợp để có thể hạn chế sự phân hóa lợi
ích giữa cổ đông và người quản lý công ty, vì vậy, KTV được coi là tác nhân để bảo vệ quyền lợi
của cả hai bên tham gia vào mối quan hệ này. Xuất phát từ phân tích trên, Nhóm Tác giả sử dụng
Lý thuyết đại diện để làm khung lý thuyết cho nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán
mở rộng đến tính độc lập của KTV khi thực hiện cung cấp dịch vụ đảm bảo.
Nhiệm kỳ kiểm toán
Khái niệm về nhiệm kỳ kiểm toán đối với hoạt động kiểm toán BCTC là điều cần thiết cho
mục đích kiểm soát chất lượng. Nguyên tắc công bố thông tin hướng vào việc đảm bảo cung cấp
thông tin phù hợp, đáng tin cậy và đầy đủ cho phép các chủ thể sử dụng thông tin tài chính đưa ra
197
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
quyết định hợp lý.
Nhiệm kỳ của KTV được định nghĩa là độ dài của mối quan hệ giữa KTV - khách hàng.
Một mối quan hệ kéo dài giữa KTV và khách hàng của họ có thể tạo thành sự đe dọa đến tính độc
lập vì quan hệ cá nhân và sự quen thuộc có thể phát triển giữa các bên, điều này có thể làm giảm
tính thận trọng nghề nghiệp của KTV trong quá trình kiểm toán. Ngoài mối đe dọa độc lập này,
việc tham gia kiểm toán có thể trở thành thói quen theo thời gian và nếu vậy, KTV sẽ dành ít nỗ
lực hơn để xác định các điểm yếu của kiểm soát nội bộ và các nguồn hình thành rủi ro kiểm toán.
Theo đánh giá của các thành viên Ủy ban kiểm toán Hoa Kỳ, năng lực phát hiện những yếu tố bất
thường của KTV tăng lên trong những năm kiểm toán đầu tiên, và sau đó giảm dần, đạt đến mức
yếu nhất sau 20 năm cung cấp dịch vụ đảm bảo. Do đó, có thể thấy rằng, một mối liên hệ tiêu cực
có thể xảy ra giữa nhiệm kỳ kiểm toán và chất lượng kiểm toán.
Tính độc lập của KTV
Trong lịch sử kiểm toán BCTC, đã có nhiều nhà khoa học nhấn mạnh tầm quan trọng về tính
độc lập của KTV nhằm xây dựng một nền tảng vững chắc để cho hoạt động này phát triển không
ngừng và đáp ứng niềm tin của các đối tượng sử dụng thông tin. Hơn nữa, việc đảm bảo tính độc
lập khi tiến hành kiểm toán có ý nghĩa quan trọng vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng kiểm
toán (Deangelo, 1981). Chất lượng báo cáo kiểm toán được lập bởi KTV là một thành phần cơ bản
để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, chủ sở hữu vốn, khách hàng, nhà cung cấp... Tuy nhiên, điều
này không thể đạt được nếu KTV không độc lập, đồng thời, KTV có khả năng phát hành báo cáo
kiểm toán với ý kiến có lợi cho khách hàng của mình (Shafie và cộng sự, 2009).
Theo kết quả nghiên cứu của Okolie (2014), tính độc lập của KTV bị suy giảm dẫn đến chất
lượng kiểm toán bị giảm sút và có thể mang lại thu nhập cao hơn cho nhà quản lý doanh nghiệp.
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Tepalagul & Lin (2015) cho thấy, tầm quan trọng của khách
hàng; nhiệm kỳ kiểm toán; dịch vụ phi kiểm toán và sự liên kết của khách hàng với các công ty
kiểm toán được coi là bốn mối nguy hiểm hàng đầu đối với tính độc lập của KTV.
Độc lập được coi là phức tạp và gây tranh cãi nhất, nhưng đây là khía cạnh nền tảng của
nghề kiểm toán vì nó củng cố cam kết nghề nghiệp đối với người sử dụng thông tin. Lý do cho
sự phức tạp và tính chất gây tranh cãi của nó là kết quả của nhiều quy tắc và quy định được thiết
lập theo thời gian bởi các cơ quan chuyên môn (Eilifsen và cộng sự, 2006, tr.577). Xem xét các
lợi ích của việc bảo vệ sự độc lập của KTV, Ủy ban Châu Âu đã ban hành các tiêu chuẩn được áp
dụng trên toàn Liên minh Châu Âu. Hoa Kỳ ban hành Đạo luật Sarbanes Oxley (SOX) năm 2002,
trong đó mô tả các yêu cầu độc lập của KTV Hoa Kỳ (Hayes và cộng sự, 2004, tr.83). Độc lập về
tư tưởng và độc lập về hình thức là cần thiết để KTV hành nghề đưa ra kết luận hoặc được coi là
đưa ra kết luận một cách không thiên vị, không mâu thuẫn về lợi ích hoặc không bị ảnh hưởng một
cách bất hợp lý từ người khác (Bộ Tài chính, 2015). Độc lập về mặt tư tưởng giúp KTV đưa ra ý
kiến khách quan về đơn vị được kiểm toán; độc lập về mặt hình thức khiến những người sử dụng
kết quả kiểm toán tin rằng, KTV duy trì được thái độ khách quan trong quá trình kiểm toán. Do đó,
KTV phải chịu trách nhiệm thực hiện đánh giá chính mình trên cả hai phương diện để xác minh
xem rủi ro về việc duy trì tính độc lập có thể được chấp nhận hay không. Các mối đe dọa đối với
tính độc lập thường rất đáng kể và do đó làm giảm hiệu quả của KTV trong việc cung cấp dịch vụ
kiểm toán. Vì vậy, KTV cần thiết xem xét đảm bảo các yêu cầu về tính độc lập, các nguy cơ có thể
198
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
làm phương hại đến việc duy trì tính độc lập và xác định các biện pháp bảo vệ phù hợp.
Trong quá trình thực hiện kiểm toán, tính độc lập của KTV có thể bị đe dọa bởi các nguy cơ
sau đây:
Thứ nhất, nguy cơ do tư lợi. Nguy cơ này xảy ra khi KTV có lợi ích vật chất hoặc phi vật chất
với khách hàng. Chúng bao gồm những lợi ích của gia đình KTV với khách hàng, sự phụ thuộc
vào phí thu được một khách hàng, nỗi lo mất khách hàng, cho vay hoặc nhận khoản vay từ khách
hàng, và các khoản phí khác (Makademh, 2006). KTV cần cân đối lợi ích và các mối đe dọa khi
cung cấp dịch vụ phi kiểm toán cho khách hàng (Schmidt, 2012).
Thứ hai, nguy cơ tự kiểm tra. Nguy cơ khi một KTV chuyên nghiệp không đánh giá được một
cách hợp lý kết quả xét đoán chuyên môn hay kết quả dịch vụ do chính họ hoặc do một cá nhân
khác trong doanh nghiệp kiểm toán nơi họ làm việc thực hiện trước đó, mà KTV chuyên nghiệp
sẽ dựa vào đó để hình thành xét đoán khi thực hiện các hoạt động hiện tại hoặc cung cấp dịch vụ
hiện tại của mình;
Thứ ba, nguy cơ về sự bào chữa: Nguy cơ khi một KTV chuyên nghiệp tìm cách bênh vực
khách hàng hoặc doanh nghiệp, tổ chức nơi mình làm việc tới mức làm ảnh hưởng tới tính khách
quan của bản thân;
Thứ tư, nguy cơ từ sự quen thuộc: Nguy cơ gây ra do quan hệ lâu dài hoặc thân thiết với
khách hàng hoặc doanh nghiệp, tổ chức nơi mình làm việc, khiến KTV chuyên nghiệp dễ thông
cảm cho quyền lợi hoặc dễ dàng chấp nhận cho việc làm của họ;
Thứ năm, nguy cơ bị đe dọa: Nguy cơ KTV chuyên nghiệp bị ngăn cản hành xử một cách
khách quan do các đe dọa có thực hoặc do cảm nhận thấy, bao gồm sức ép gây ảnh hưởng không
hợp lý đến KTV chuyên nghiệp.
Để hạn chế các nguy cơ có thể xảy ra hoặc sẵn sàng phương án để đối phó với chúng thì
công ty kiểm toán và KTV cần xác định các biện pháp bảo vệ. Các biện pháp này bao gồm các biện
pháp được xây dựng trong môi trường làm việc của KTV và những qui định của nhà nước, doanh
nghiệp. Trước hết, KTV hành nghề phải sử dụng xét đoán chuyên môn để xác định phương pháp
hợp lý nhất nhằm xử lý với các nguy cơ cao hơn mức có thể chấp nhận được, bằng cách áp dụng
biện pháp bảo vệ để loại trừ hay làm giảm các nguy cơ đó xuống mức có thể chấp nhận được bằng
việc từ chối thực hiện hoặc rút khỏi hợp đồng cung cấp dịch vụ. Khi thực hiện các xét đoán của
mình, kế toán viên, KTV hành nghề phải xem xét liệu một bên thứ ba phù hợp và có đầy đủ thông
tin, sau khi xem xét các sự kiện và tình huống có sẵn cho kế toán viên, KTV hành nghề tại thời
điểm đó, có thể kết luận một cách tương đối chắc chắn rằng, sau khi áp dụng các biện pháp bảo vệ,
các nguy cơ đó sẽ bị loại trừ hoặc làm giảm xuống mức có thể chấp nhận được và các nguyên tắc
đạo đức cơ bản không bị vi phạm hay không. Khi xem xét vấn đề này, cần phải xem xét đến các
yếu tố như mức độ nghiêm trọng của nguy cơ, tính chất của hợp đồng cung cấp dịch vụ và cơ cấu
tổ chức của doanh nghiệp kiểm toán. Các biện pháp bảo vệ được xây dựng trong môi trường làm
việc sẽ khác nhau tùy thuộc vào từng trường hợp, bao gồm các biện pháp bảo vệ ở cấp độ doanh
nghiệp kế toán, kiểm toán và cho từng hợp đồng cụ thể; Sau cùng, các biện pháp bảo vệ do tổ chức
nghề nghiệp quy định, do pháp luật và các quy định có liên quan điều chỉnh, gồm: Các yêu cầu về
học vấn, đào tạo và kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán; Các yêu cầu về cập
199
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
nhật kiến thức chuyên môn; Các quy định về quản trị doanh nghiệp; Các chuẩn mực nghề nghiệp;
Sự giám sát của tổ chức nghề nghiệp hoặc cơ quan quản lý và các hình thức kỷ luật; và Soát xét
độc lập do bên thứ ba được trao quyền hợp pháp thực hiện đối với các báo cáo, tờ khai, thông báo
hay thông tin do kế toán viên, KTV chuyên nghiệp cung cấp.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu và xây dựng giả thuyết nghiên cứu
Trong nghiên cứu của mình, Nhóm Tác giả sử dụng kết hợp phương pháp thống kê mô tả và
kiểm định t. Thứ nhất, phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để thống kê các quan sát, xác
định tỷ lệ phần trăm và tính giá trị trung bình của các chỉ tiêu; Thứ hai, phương pháp kiểm định
giả thuyết về giá trị trung bình của 2 tổng thể (Paired Samples T-test) được thực hiện nhằm so sánh
các tình huống tương tự trong cả hai nhiệm kỳ kiểm toán ngắn và dài để xem xét mối liên hệ giữa
nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng với tính độc lập của KTV khi kiểm toán BCTC cho các đơn vị có
lợi ích công chúng. Mặc dù mẫu nghiên cứu có thể không thỏa mãn điều kiện phân phối chuẩn,
nhưng do cỡ mẫu của mỗi nhóm đều lớn hơn 30 nên thỏa mãn điều kiện để thực hiện kiểm định
t (Weiss, 2012, trang 375; Anderson, Sweney và William, 2011, trang 362; Berenson và cộng sự,
2012, trang 366).
Như đã trình bày ở trên, có 5 nguy cơ có thể phá cỡ tính độc lập của KTV trong quá trình
kiểm toán BCTC: nguy cơ do tư lợi; nguy cơ tự kiểm tra; nguy cơ về sự bào chữa; nguy cơ từ sự
quen thuộc và nguy cơ bị đe dọa. Xuất phát từ nội dung này, 5 cặp giả thuyết được hình thành như
sau (Bảng 1).
Bảng 1: Các cặp giả thuyết
Giả thuyết Ho
Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có ảnh hưởng
hưởng đến nguy cơ do tư lợi đến nguy cơ do tư lợi
Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có ảnh hưởng
hưởng đến nguy cơ tự kiểm tra đến nguy cơ tự kiểm tra
Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có ảnh hưởng
hưởng đến nguy cơ về sự bào chữa đến nguy cơ về sự bào chữa
Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có ảnh hưởng
hưởng đến nguy cơ từ sự quen thuộc đến nguy cơ từ sự quen thuộc
Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có ảnh hưởng
hưởng đến nguy cơ bị đe dọa đến nguy cơ bị đe dọa
Nguồn: Tác giả tự xây dựng
Giả thuyết H1
STT
1
2
3
4
5
Thu thập dữ liệu
Để thu thập được dữ liệu từ các đối tượng khảo sát, nhóm Tác giả tiến hành khảo sát qua
Phiếu điều tra. Trước tiên, nhóm Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu các cá nhân có hiểu biết chuyên
sâu và nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực kiểm toán các đơn vị có lợi ích công chúng. Mục đích của
200
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
việc phỏng vấn chuyên gia là nhằm xin ý kiến về độ phù hợp của Bảng hỏi được sử dụng trong quá
trình điều tra. Sau khi có những điều chỉnh cần thiết, Phiếu điều tra được gửi đến các KTV.
Cuộc khảo sát được xây dựng nhằm nghiên cứu về nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng có tác động
đến các nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập của KTV khi kiểm toán BCTC cho các đơn vị có lợi
ích công chúng.
Bảng hỏi được kế thừa có điều chỉnh từ nghiên cứu của Chia-Ah và Karlsson (2010) theo các
nội dung sau đây:
Phần 1: giới thiệu về mục đích, ý nghĩa của nghiên cứu, cách thức trả lời và lời cảm ơn của
Tác giả với những người tham gia trả lời Phiếu;
Phần 2: trình bày các tình huống được đưa vào nghiên cứu, Tác giả liệt kê 11 nội dung (đã
được đề cập trong nghiên cứu của Chia-Ah và Karlsson (2010)): TL1 (TL1.3- Thời gian kiểm toán
liên tục cho khách hàng dưới 3 năm; TL1.5- Thời gian kiểm toán liên tục cho khách hàng từ 5 năm
trở lên), TL2 TL1 (TL2.3- Thời gian kiểm toán liên tục cho khách hàng dưới 3 năm; TL2.5- Thời
gian kiểm toán liên tục cho khách hàng từ 5 năm trở lên) được sử dụng để đo lường nguy cơ do tư
lợi; tương tự như vậy, KT3 (KT3.3; KT3.5), KT4 (KT4.3; KT4.5) được sử dụng để đo lường nguy
cơ tự kiểm tra; BC5 (BC5.3; BC5.5), BC6 (BC6.3; BC6.5) được sử dụng để đo lường nguy cơ về
sự bào chữa; ĐD7 (ĐD7.3; ĐD7.5), ĐD 8 (ĐD8.3; ĐD8.5), ĐD 9 (ĐD 9.3; ĐD 9.5) được sử dụng
để đo lường nguy cơ bị đe dọa và QT10 (QT10.3; QT10.5), QT11 (QT11.3; QT11.5) được sử dụng
để đo lường nguy cơ từ sự quen thuộc. Người tham gia khảo sát được yêu cầu lựa chọn mức ảnh
hưởng của vấn đề được nêu ra đến các nguy cơ đe dọa tính độc lập của KTV theo thang đo Likert
- 5 điểm (từ Ảnh hưởng nghiêm trọng đến Hoàn toàn không ảnh hưởng);
Phần 3: gồm các câu hỏi về thông tin của người tham gia trả lời phiếu: họ và tên, tuổi, chức
vụ công tác, nơi làm việc (Tác giả chia công ty kiểm toán thành Big 4 và Non Big 4), giới tính
(gồm Nam và Nữ), số năm kinh nghiệm làm kiểm toán (dựa vào kết quả phỏng vấn sâu, Tác giả
chia kinh nghiệm của KTV thành 2 mức kinh nghiệm là ≤ 5 năm và > 5 năm).
Kích thước mẫu cho cuộc khảo sát này được xác định bằng công thức của Slovin (Trần Thị
Kim Thu, 2012, trang 34), với kích thước tổng thể là 793 KTV đủ điều kiện kiểm toán cho các đơn
vị có lợi ích công chúng (số lượng KTV tính đến 15/10/2019), Bộ Tài chính (2019) và phạm vi sai
số là 10% (kết quả thu được có thể giải thích được 90% hiện tượng nghiên cứu), cỡ mẫu được xác
định là 89.
Kết quả khảo sát
Căn cứ vào danh sách các KTV đủ điều kiện kiểm toán các đơn vị có lợi ích công chúng tính
đến 10/2019 (Bộ Tài chính, 2019), Tác giả tiến hành gửi 300 phiếu đến các KTV theo hình thức
chọn mẫu thuận tiện thông qua mối quan hệ của nhóm Tác giả và đồng nghiệp. Bảng hỏi được phát
đi bằng công cụ Google Drive và thu về trong thời gian một tháng. Sau khi loại bỏ những phiếu
không có giá trị nghiên cứu, Tác giả tiến hành đánh số thứ tự các phiếu thu thập được để tránh
nhầm lẫn trong quá trình xử lý dữ liệu và thống kê các câu trả lời của KTV nhằm phục vụ cho mục
đích phân tích. Có 135 KTV tham gia trả lời Phiếu, số phiếu hợp lệ phục vụ cho mục đích nghiên
cứu là 121 phiếu, với số phiếu thu được này, kết quả phân tích có thể giải thích được trên 90% hiện
tượng nghiên cứu, trong đó 36 KTV nam (29,75%) và 85 KTV nữ (70,25%); 81 KTV (66,94%) có
201
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
từ 5 năm kinh nghiệm kiểm toán trở xuống đối với các đơn vị có lợi ích công chúng và 40 KTV
(33,06%) có trên 5 năm kinh nghiệm kiểm toán đối với các đơn vị có lợi ích công chúng; 35 KTV
(28,93%) đang làm việc tại các công ty kiểm toán Big 4 và 86 KTV (71,07%) làm ở những công
ty kiểm toán khác.
5. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đánh giá độ tin cậy của thang đo
Theo kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo, chỉ số Cronbach’s Alpha có giá trị là 0,912.
Điều này khẳng định rằng, tất cả các dữ liệu đã thu thập được đều đáng tin cậy.
Kết quả kiểm định ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng đến các nguy cơ
Bảng 2: Thống kê mô tả và Kết quả kiểm định giả thuyết về giá trị trung bình của 2 tổng thể
Giá trị
Ý nghĩa
trung
bình
(Mean)
3,02
2,40
2,92
2,63
2,67
2,42
3,00
2,75
2,20
1,95
2,32
2,20
2,33
2,20
2,16
2,07
2,54
2,29
2,00
1,88
1,92
1,83
Giá trị t
(t value)
Tên biến
thống kê
(Sig.)
Các nguy cơ
TL1.3
Cặp thứ nhất
7,525
5,902
5,236
5,236
5,236
3,105
4,276
3,288
6,290
4,121
3,288
0,000
0,000
0,000
0,000
0,000
0,002
0,000
0,001
0,000
0,000
0,001
TL1.5
TL2.3
Nguy cơ do tư lợi
Cặp thứ hai
Cặp thứ ba
Cặp thứ tư
TL2.5
KT3.3
KT3.5
KT4.3
KT4.5
BC5.3
BC5.5
BC6.3
BC6.5
ĐD7.3
ĐD7.5
ĐD8.3
ĐD8.5
ĐD9.3
ĐD9.5
QT10.3
QT10.5
QT11.3
QT11.5
Nguy cơ tự kiểm tra
Cặp thứ năm
Cặp thứ sáu
Cặp thứ bảy
Nguy cơ về sự bào
chữa
Nguy cơ về sự đe dọa Cặp thứ tám
Cặp thứ chín
Cặp thứ mười
Nguy cơ về sự quen
thuộc
Cặp thứ mười
một
202
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
Nguồn: Kết quả thống kê mô tả và kiểm định t (thông qua phần mềm SPSS 20
Kết quả kiểm định cho thấy, tất cả các cặp tình huống được kiểm định đều có ý nghĩa thống
kê (t>1,96 và sig.<0,05) (Bảng 2). Như vậy, giả thuyết “Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh
hưởng đến 5 nguy cơ đe dọa tính độc lập của KTV khi thực hiện kiểm toán BCTC” bị bác bỏ. Từ
kết quả này, có thể khẳng định rằng khi nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng thì những người tham gia
khảo sát cho rằng:
Tính độc lập của KTV bị ảnh hưởng nhiều hơn từ nguy cơ do tư lợi so với nhiệm kỳ kiểm
toán ngắn (giá trị trung bình của tổng thể giảm từ 3,02 xuống 2,40 với tình huống TL1 và giảm từ
2,92 xuống 2,63 ở tình huống TL2) nếu: Tổng mức phí dịch vụ thu được từ khách hàng này và các
đơn vị có liên quan của khách hàng trong hai năm liên tiếp chiếm hơn mức 15% tổng doanh thu
của doanh nghiệp kiểm toán và Khách hàng có phí kiểm toán chưa thanh toán;
Tính độc lập của KTV bị ảnh hưởng nhiều hơn từ nguy cơ tự kiểm tra so với nhiệm kỳ kiểm
toán ngắn (giá trị trung bình của tổng thể giảm từ 2,67 xuống 2,42 với tình huống KT3 và giảm
từ 3,00 xuống 2,75 ở tình huống KT4) nếu: Một KTV tham gia cung cấp cả dịch vụ kiểm toán và
phi kiểm toán. Giá trị của phí phi kiểm toán bằng hoặc lớn hơn 100% phí kiểm toán và Một KTV
tham gia cung cấp cả dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán. Giá trị của phí phi kiểm toán bằng hoặc
lớn hơn 25% phí kiểm toán;
Tính độc lập của KTV bị ảnh hưởng nhiều hơn từ nguy cơ về sự bào chữa so với nhiệm kỳ
kiểm toán ngắn (giá trị trung bình của tổng thể giảm từ 2,20 xuống 1,95 với tình huống BC5 và
giảm từ 2,32 xuống 2,20 ở tình huống BC6) nếu: KTV hành nghề là người bào chữa bí mật, đại
diện cho khách hàng kiểm toán trong các vụ kiện hoặc khi giải quyết các tranh chấp với bên thứ
ba và KTV giới thiệu người bạn thân của mình tham gia giao dịch cổ phiếu hoặc chứng khoán tài
chính của một khách hàng;
Tính độc lập của KTV bị ảnh hưởng nhiều hơn từ nguy cơ về sự đe dọa so với nhiệm kỳ kiểm
toán ngắn (giá trị trung bình của tổng thể giảm từ 2,33 xuống 2,20 với tình huống ĐD7; giảm từ
2,16 xuống 2,07 ở tình huống ĐD8 và giảm từ 2,54 xuống 2,29 ở tình huống ĐD9) nếu: KTV bị đe
dọa bởi những biện pháp của bộ máy quản lý của khách hàng mà họ đã kiểm toán; KTV bị khách
hàng đe dọa khởi tố và Một khách hàng đe dọa sẽ thay thế KTV bằng một KTV khác do có sự bất
đồng giữa hai bên;
Tính độc lập của KTV bị ảnh hưởng nhiều hơn từ nguy cơ về sự quen thuộc so với nhiệm
kỳ kiểm toán ngắn (giá trị trung bình của tổng thể giảm từ 2,00 xuống 1,88 với tình huống QT10
và giảm từ 1,92 xuống 1,83 ở tình huống QT11) nếu: KTV thực hiện hợp đồng dịch vụ có quan
hệ gia đình với nhân sự cấp cao của khách hàng và KTV nhận quà biếu (có giá trị đáng kể) từ một
khách hàng.
Có 2/5 loại nguy cơ có kết quả kiểm định trong nghiên cứu này khác so với kết quả nghiên
cứu của Chia-Ah và Karlsson (2010). Chia-Ah và Karlsson (2010) đã tìm ra bằng chứng chứng tỏ
không có sự ảnh hưởng nào rõ rệt của nhiệm kỳ kiểm toán được mở rộng đến nguy cơ bị đe dọa (t
= - 0,541 và sig. = 0,589) và nguy cơ từ sự quen thuộc (t = - 0,518 và sig. = 0,605). Hơn nữa, giá trị
trung bình của tổng thể tăng từ 1,617 đến 1,631 với tình huống đánh giá nguy cơ bị đe dọa; giá trị
203
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
trung bình của tổng thể tăng từ 1,557 đến 1,568 với tình huống đánh giá nguy cơ từ sự quen thuộc.
Mặc dù mức tăng của các giá trị trung bình không đáng kể nhưng đây là dấu hiệu thể hiện sự khác
biệt so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.
6. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng đến tính độc
lập của KTV thông qua kết quả kiểm định các cặp giả thuyết liên quan đến 5 mối nguy cơ không
tuân thủ tính độc lập (nguy cơ do tư lợi, nguy cơ tự kiểm tra, nguy cơ về sự bào chữa, nguy cơ từ sự
quen thuộc, nguy cơ bị đe dọa) khi kiểm toán BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng. Ngoài
ra, kết quả kiểm định t một mẫu được áp dụng cho nhiệm kỳ kiểm toán dưới 3 năm và nhiệm kỳ
kiểm toán từ 5 năm trở lên xác nhận rằng bất kỳ độ dài của nhiệm kỳ nào cũng có thể là nguồn gốc
tạo ra mối đe dọa đến sự độc lập của KTV.
Trên thực tế, đối với công ty kiểm toán, nhiệm kỳ kiểm toán kéo dài có thể giúp cho cuộc
kiểm toán được tổ chức hiệu quả hơn, tuy nhiên, theo qui định trong Chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp kế toán và kiểm toán, Kiểm toán viên hành nghề không được tham gia thực hiện kiểm toán
cho một đơn vị có lợi ích công chúng trong 5 năm tài chính liên tục (Bộ Tài chính, 2015). Kết
hợp với kết quả nghiên cứu trên, nhóm Tác giả cho rằng tính độc lập là một khái niệm tương đối,
nó phụ thuộc nhiều vào bản thân KTV khi hành nghề. Trước khi nhận nhiệm vụ kiểm toán từ cấp
trên, các KTV cần phải tự phân tích sự độc lập của họ về mặt hình thức, tư tưởng và xác nhận rằng
họ có đủ xứng đáng để thực hiện cuộc kiểm toán với tính chính trực và khách quan cao nhất hay
không. Nếu kết quả của các phân tích khẳng định tính độc lập có thể bị suy giảm thì họ cần xem
xét các biện pháp bảo vệ phù hợp hoặc xem xét lại quyết định có nên tham gia vào cuộc kiểm toán.
Kết quả kiểm định cho thấy, tính độc lập bị suy giảm khi nhiệm kỳ kiểm toán kéo dài, tuy
nhiên, sự suy giảm này là không đáng kể. Kết hợp kết quả nghiên cứu của chúng tôi với phát hiện
của Nguyễn Anh Hiền (2017): nếu cùng một KTV thực hiện kiểm toán BCTC thì chất lượng kiểm
toán sẽ tăng dần theo từng năm và đạt cao nhất ở năm thứ 5, nhóm nghiên cứu khuyến nghị cơ
quan quản lý Nhà nước nên cân nhắc về nhiệm kỳ kiểm toán trong thời hạn 5 năm thay bằng thời
hạn đang áp dụng hiện nay, đồng thời có hình phạt xử lý mạnh và kịp thời đối với trường hợp vi
phạm về tính độc lập.
Mặc dù nghiên cứu đã có được kết quả cụ thể, tuy nhiên do giới hạn về thời gian và nguồn
lực nên Tác giả chưa thực hiện nghiên cứu với toàn bộ các công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam.
Ngoài ra, kết quả khảo sát chỉ đại diện được trên 90% hiện tượng nghiên cứu; các phần tử được
chọn vào mẫu kiểm toán bằng phương pháp thuận tiện dựa trên mối quan hệ của nhóm Tác giả và
các đồng nghiệp. Do đó, trong tương lai, nhóm Tác giả sẽ tiếp tục phát triển nghiên cứu này và
khắc phục các nhược điểm trên để kết quả nghiên cứu có ý nghĩa tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Anderson, D., Sweney, D. & William, T. (2011), Essentials of Statistics for Business and
Economics, 6th edition, South-Western, USA.
2.Berenson, M., Levine, D. & Krehbiel, T. (2012), Basis Business Statistics: Concepts ans
204
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
Applications, 12th edition, Prentice Hall, USA.
3.Bộ Tài chính (2015), Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, Ban hành kèm
theo Thông tư số 70/2015/TT-BTC ngày 08 tháng 05 năm 2012 của Bộ Tài chính.
4.Bộ Tài chính (2019), Danh sách kiểm toán viên được chấp thuận thực hiện kiểm toán
cho đơn vị có lợi ích công chúng năm 2019 (cập nhật đến ngày 15/10/2019), truy cập tại
chitiet?dDocName=MOFUCM165018&_afrLoop=50082942076494697#!%40%40%3F_
afrLoop%3D50082942076494697%26dDocName%3DMOFUCM165018%26_adf.ctrl-
state%3Deb41oeed3_50 ngày 30/10/2019.
5.Brody, R. G. & Moscove, S. A. (1998), Mandatory auditor rotation, National Public
Accountant (May), 32-36.
6.Chia-Ah, E. và Karlsson, J. (2010), The impact of extended audit tenure on auditor
independence, Master thesis.
7.Craswell, A. T. (1999), ‘Does the provision of non-audit services impair auditor
independence’, International Journal of Auditing, vol. 3, pp. 29-40.
8.Deangelo, L. E. (1981), Auditor independence, ‘low balling’, and disclosure regulation,
Journal of accounting and economics, 3, 113-127.
9.Dopuch, N., King, R. R. & Schwartz, R. (2001), An experimental investigation of retention
and rotation requirements, Journal of Accounting Research, 39(1), 93-117.
10. Eilifsen, A., Messier Jr., W. F., Glover, S. M., & Prawitt, D. F. (2006), Auditing and
Assurance Services, International Edition. Glasgow: McGraw Hill Education.
11. Hayes R., Dassen R., SchilderA., Wallage P. (2004), Principle of auditing:An Introduction
to International Standards on Auditing, Second Edition, Prentice Hall.
12. Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976), Theory of the firm: Management behaviour,
agency costs and ownership structure, Journal of Financial Economics, 3(October), 305-360.
13. Geiger, M. A., & Raghunandan, K. (2002), Auditor tenure and audit reporting failures.
Auditing: A Journal of Practice and Theory, 21(1): 67-78.
14. Makadmh, A. (2006), Factors influencing the auditor’s response to the desire of the
customer accounting services, Journal of Accounting and Management and Insurance.
15. Miller, T. (1992), ‘Do we need to consider the individual auditor when discussing auditor
independence?’, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 5, No. 2, p.74
16. Nguyễn Anh Hiền (2017), Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng
moi-quan-he-giua-luan-chuyen-kiem-toan-vien-va-chat-luong-kiem-toan-132530.html
02/12/2018
ngày
17. Nguyễn Quang Quynh và Ngô Trí Tuệ (2014), Giáo trình kiểm toán tài chính, Nhà xuất
bản Đại học Kinh tế quốc dân.
205
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA
18. Nguyễn Quang Quynh và Nguyễn Thị Phương Hoa (2016), Giáo trình Lý thuyết kiểm
toán, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
19. Okolie, A. O. (2014), Accrual - Based earnings Management, Corporate Policies
and Managerial Decisions of Quoted Companies in Nigeria, Research Journal of Finance and
Accounting, 5 (2), 1-14.
20. Ouyang, B., Wan, H. (2013), “Does Audit Tenure Impair Auditor Independence? Evidence
from Option Backdating Scandals”, International Journal of Business and Social Science, Vol 4
(14), pages 23-33.
21. Petty, R. & Cuganesan, S. (1996), Auditor rotation: Framing the debate, Australian
Accountant, 66(4), 40-41.
22. Quick, R. and Ben-Rasmussen, W. (2005), ‘The impact of MAS on perceived auditor
independence - some evidence from Denmark’, Accounting Forum, vol. 29, pp. 137-168.
23. Schmidt, J. J. (2012), Perceived Auditor Independence and Audit Litigation: The Role of
Nonaudit Services Fees, The Accounting Review: May 2012, Vol. 87, No. 3, pp. 1033-1065.
24. Shafie, R., Hussin, W. N. W., Yusof, M. A., Hussain, M. H. M (2009), Audit Firm Tenure
and Auditor Reporting Quality: Evidence in Malaysia, Vol.2, No. 2, 99-109.
25. Swanger, S.L.; Chewning, E. G. (2001), The effect of internal audit outsourcing on
financial analysts’ perceptions of external auditor independence, Auditing: a Journal of Practice
& Theory, Vol. 20(2): 115-129.
26. Teoh, H. Y. & Lim C. C. (1996), An empirical study of the effects of audit committees,
disclosure of non-audit fees, and other issues on audit independence: Malaysian evidence, Journal
of International Accounting, Auditing & Taxation, 5(2), 231-248.
27. Tepalagul, N., & Lin, L. (2015), Auditor independence and audit quality: a literature
review, Journal of accounting, auditing & finance, 30(i), 101-121.
28. Trần Thị Kim Thu (2012), Điều tra xã hội học, NXB Đại học kinh tế quốc dân
29. Trần Thị Giang Tân và cộng sự (2014), Giáo trình kiểm toán, NXB Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh.
30. Vanstraelen, A. (2000), Impact of renewable long - term audit mandates on audit quality,
The European Accounting Review, 9 (3)
31. Weiss, N. (2012), Elementary Statistics, 8th edition, Pearson Education, USA.
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghien_cuu_anh_huong_cua_nhiem_ky_kiem_toan_den_tinh_doc_lap.pdf