Các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên - Đề xuất mô hình nghiên cứu cho Việt Nam
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
toán công bố trong BCTC đang ngày càng cao, bắt
kịp với các quốc gia phát triển.
lượt là 1.174 và 1.624 đã cho thấy không có hiện
tượng tự tương quan hay hiện tượng đa cộng tuyến
trong mô hình đa tuyến tính, do vậy kết quả phân
tích hồi quy hoàn toàn có ý nghĩa.
- Kiểm định Durbin - Watson và VIF trong mô
hình hồi quy đa tuyến tính ở trên có kết quả lần
Bảng so sánh giá trị thích hợp của thông tin kế toán (chất lượng của thông tin công bố trong BCTC) với một
số quốc gia
Quốc gia
Giai đoạn
Tác giả
R2 điều chỉnh
Hoa Kỳ
1953-1993
1982-1996
1982-1996
1982-1996
1976-1999
1987-1996
1987-1998
2001-2003
2005-2009
2011-2013
Collins và các cộng sự (1997)
King và Langli (1998)
King và Langli (1998)
King và Langli (1998)
Habib (2004)
54%
65%
66%
40%
65%
32,95%
35%
50%
56%
43%
Norway
Vương quốc Anh
Đức
Nhật Bản
Malaysia
Hàn Quốc
Úc
Malcolm Smith (2008)
Bae và Jeong (2007)
Habib và Azim (2008)
Chandrapala (2013)
Sri lanka
Italia
Camodeca và các cộng sự (2014)
(Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp)
kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình nghiên cứu
này phù hợp và các biến độc lập (các biến kế toán)
đều có ý nghĩa ở mức 1%. Với hệ số R2 = 0,567 cho
thấy chất lượng thông tin công bố trong BCTC của
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam ngày càng cao, tương đồng với nghiên cứu
tại Hoa Kỳ (54%) - một quốc gia có thị trường chứng
khoán rất phát triển. Kết quả nghiên cứu một lần
nữa nhằm khẳng định việc tác giả sử dụng mô hình
EBO để đo lường chất lượng của thông tin công bố
trong BCTC là hoàn toàn phù hợp.
4. Ewert, Ralf, and Alfred Wagenhofer, 2011.
Earning quality metrics and what they
measure. Available at SSRN 169042;
5. Francis, J., Lafond, R., Olsson, P., &Schipper, K.,
2004. Costs of equity and earnings attributes,
Accounting Review, 79: 967 - 1010;
6. Habib, A., 2004, Accounting – Based
Equity valuation techniques and the
value relevance of dividend information:
Empirical evidence from Japan, Pacific
Accounting Review, 16 (2): 23 – 44;
7. Habib, A., Istiaq Azim, 2008, Corporate
governance and the value – relevance of
accounting information: Evidence from Australia,
Accounting Research Journal 21.2: 167 - 194;
8. King R. and Langli J., 1998, Accounting
Diversity and Firm Valuation, International
Journal of Accounting, 33: 529 – 567;
9. Perotti, P., & Wagenhofer, A., 2014, Earnings
quality measures and excess returns, Journal of
Business Finance & Accounting, 41: 515 - 571.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Camodeca, R., Almici, A., Brivio, A, R.,
2014, e value relevance of accounting
information in the Italian and UK stock
markets, Problems and Perspectives in
management, 12 (4): 512 - 519;
2. Chandrapala, P., 2013, e value relevance
of earnings and book value: e importance
of ownership concentration and firm size,
Journal of Compretiveness, 5 (2): 98 - 107;
3. Collins D., Maydew E., and Weiss I., 1997,
Changes in the value – relevance of earnings and
book values over the past forty years, Journal of
Accounting and Economics, 24: 39 - 67;
Ngày nhận bài lần 1: 13/4/2018
Ngày duyệt đăng: 27/4/2018
10 Số 127 - tháng 5/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
CAÙC NHAÂN TOÁ AÛNH HÖÔÛNG ÑEÁN TÍNH ÑOÄC LAÄP
CUÛA KIEÅM TOAÙN VIEÂN - ÑEÀ XUAÁT MOÂ HÌNH
NGHIEÂN CÖÙU CHO VIEÄT NAM
NGUYỄN THị HẢI HÀ1
NGUYỄN THị THƯơNG2
TRầN MAI ANH2
ính độc lập là một nguyên tắc đạo đức quan trọng, quyết định chất lượng kiểm toán, đảm
bảo sự khách quan của ý kiến kiểm toán. Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển và hội nhập
mạnh mẽ với quốc tế, chất lượng kiểm toán đòi hỏi phải luôn được nâng cao và tính độc
T
lập của kiểm toán viên luôn được người sử dụng báo cáo tài chính quan tâm. Bằng phương
pháp tổng quan tài liệu, bài viết thực hiện đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tính độc lập
của kiểm toán viên. Trên cơ sở đó, bài viết cũng đánh giá khoảng trống nghiên cứu và đề xuất mô hình
nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên trên thị trường Việt Nam.
Từ khóa: kiểm toán, tính độc lập của kiểm toán viên, kiểm toán báo cáo tài chính.
Factors affecting auditor’s independence - proposed modeling of research for Vietnam
Independence is an important ethical principle that determines the quality of the audit, ensuring the
objectivity of the audit opinion. In the context of strong economic development and international integration,
the quality of auditing needs to always be improved and the independence of the auditors is always taken into
account by the users of the financial statements. By the method of document review, the article assesses the
impact of factors on the independence of the auditor. Based on that, the article also assesses the research gap
and recommends a model of factors affecting the independence of the auditors in the Vietnamese market.
key words: Auditing, independence of auditors, audit of financial statements.
1. Giới thiệu
lớn liên quan đến các gian lận trên BCTC đã được
kiểm toán gây ra tâm lý lo ngại của người sử dụng
BCTC về chất lượng kiểm toán và tính độc lập của
kiểm toán viên. Điển hình như vụ bê bối tài chính
liên quan đến tập đoàn năng lượng Enron dẫn đến
phá sản năm 2001 tại Mỹ và việc phá sản hãng kiểm
toán Arthur Andersen vào năm 2002 do mất uy tín.
Nhiều nguyên nhân được đưa ra, đáng chú ý là việc
Arthur Andersen đã kiểm toán cho Enron trong
một thời gian khá dài là 16 năm, đồng thời kiêm
thêm cả dịch vụ kiểm toán nội bộ và tư vấn quản lý.
Báo cáo tài chính (BCTC) trình bày các thông
tin quan trọng về tình hình tài chính, kết quả kinh
doanh và luồng lưu chuyển tiền tệ của công ty và
kiểm toán BCTC ngày càng trở thành một dịch
vụ đảm bảo phổ biến cho những chủ thể sử dụng
BCTC nói chung và các nhà đầu tư nói riêng về
chất lượng thông tin trên BCTC. Để đảm bảo chất
lượng cuộc kiểm toán, đảm bảo niểm tin của người
sử dụng BCTC, tính độc lập của kiểm toán viên
đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình kiểm
toán BCTC.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc các công ty
kiểm toán thực hiện kiểm toán BCTC cho một
khách hàng trong một thời gian dài và cung cấp
Tuy nhiên, trong giai đoạn từ các năm 2000 trở
lại đây, thế giới đã chứng kiến những vụ sai phạm
1GV Khoa Kế toán - Kiểm toán, Trường ĐHKT, ĐHQGHN; 2SV Khoa Kế toán - Kiểm toán, Trường ĐHKT, ĐHQGHN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 127 - tháng 5/2018 11
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
các dịch vụ phi kiểm toán khác làm đe dọa nghiêm
trọng đến tính độc lập của kiểm toán viên. Các
nghiên cứu trước đây tại nhiều quốc gia đã đề cập
đến những nhân tố khác nhau có ảnh hưởng tích
cực cũng như tiêu cực đến tính độc lập của kiểm
toán viên, có cả những công trình nghiên cứu chỉ
ra những nhân tố ảnh hưởng trái ngược đến tính
độc lập của kiểm toán.
quả kiểm toán sẽ không có giá trị khi những người
sử dụng kết quả kiểm toán tin rằng cuộc kiểm toán
thiếu tính độc lập. Yêu cầu về tính độc lập đòi hỏi
sự trung thực và trách nhiệm của kiểm toán viên
đối với những người sử dụng kết quả kiểm toán,
đồng thời các kiểm toán viên không bị ràng buộc
trong việc tiếp xúc với các tài liệu và báo cáo của
doanh nghiệp. Trong quá trình kiểm toán, kiểm
toán viên phải thực sự không bị chi phối hoặc tác
động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào
làm ảnh hưởng đến sự trung thực khách quan và
độc lập nghề nghiệp của mình. Mọi vấn đề thắc
mắc về tình hình kinh doanh hoặc các xử lý kế
toán trong các giao dịch của doanh nghiệp cần
được trả lời đầy đủ và đảm bảo rằng kiểm toán
viên không bị hạn chế trong việc thu thập các bằng
chứng kiểm toán.
Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển,
ngành kiểm toán còn non trẻ và có đặc điểm kinh
tế, văn hóa, xã hội khác so với các nước trên thế
giới. Do đó, các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc
lập của kiểm toán viên tại Việt Nam cũng có những
đặc trưng khác với thế giới.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập
của kiểm toán viên - tổng hợp các nghiên cứu
có liên quan
Các nghiên cứu trước đây cho thấy nhiều nhân
tố khác nhau ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm
toán viên. Để thuận tiện cho việc so sánh và phân
tích, các nhân tố được đề cập theo từng nhóm liên
quan đến nhau.
Tính độc lập được quy định trong Chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán ban
hành theo ông tư số 70/2015/TT-BTC ngày
8/5/2015 của Bộ Tài chính. Tính độc lập là nguyên
tắc đầu tiên và quan trọng nhất đối với đạo đức
nghề nghiệp của kiểm toán viên. Tính độc lập đòi
hỏi kiểm toán viên khi đưa ra ý kiến phải độc lập
về mặt hình thức và độc lập về mặt tư tưởng. Yêu
cầu về tính độc lập được xem như là điều kiện cần
để đạt được mục tiêu của hoạt động kiểm toán. Kết
2.1. Cung cấp dịch vụ phi kiểm toán (non-audit
services)
Có nhiều nghiên cứu liên quan đến tác động
của dịch vụ phi kiểm toán đến tính độc lập của
kiểm toán viên tại nhiều thị trường khác nhau qua
12 Số 127 - tháng 5/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
các thời kỳ. Kết quả của sự tác động khá đa dạng ở
các nghiên cứu khác nhau.
phí dịch vụ phi kiểm toán và suy giảm tính độc lập
kiểm toán viên. Philip Beaulieu và Alan Reinstein
(2010) chỉ ra người hành nghề tại công ty lớn sẽ ít
tin rằng dịch vụ phi kiểm toán làm suy giảm tính
độc lập kiểm toán viên hơn so với kiểm toán viên ở
công ty nhỏ. Dựa trên mẫu của các công ty sản xuất
bị áp lực về tài chính trong giai đoạn 2005-2009,
Nicole Ratzinger-Sakel (2013) cho rằng, kiểm toán
viên nước Đức thì không giảm độc lập hơn khi
cung cấp dịch vụ phi kiểm toán.
Một nghiên cứu của Randolph A. Shockley
(1981) đã cho thấy dịch vụ phi kiểm toán có thể
ảnh hưởng tính độc lập kiểm toán. Bài nghiên cứu
thu thập thông tin khảo sát qua email từ bốn nhóm
đối tượng: (a) Các đối tác lớn của Big81, (2) các đối
tác từ các công ty CPA địa phương và khu vực, (3)
nhà cung cấp tín dụng và (4) các nhà phân tích, kết
quả là công ty kiểm toán có cung cấp dịch vụ tư vấn
quản lý sẽ làm giảm tính độc lập kiểm toán.
Bên cạnh đó, nhiều kết quả nghiên cứu cho rằng
dịch vụ phi kiểm toán tạo ra sự lan tỏa kiến thức,
từ đó mang lại nhiều lợi ích. Mohinder Parkash và
Carol F. Venable (1993) chỉ ra khách hàng có xu
hướng mua dịch vụ phi kiểm toán vì có sự lan tỏa
kiến thức khi có sử dụng đồng thời của dịch vụ
kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán từ một công
ty kiểm toán. Nghiên cứu của W. Robert Knechel
và Divesh S. Sharma (2012) cho thấy, dịch vụ phi
kiểm toán được cung cấp bởi kiểm toán viên mang
lại nhiều lợi ích cho khách hàng mà không dẫn đến
mất hiệu quả kiểm toán.
eo nghiên cứu của Beattie và cộng sự (1999)
tại Anh, Teoh & Lim (1996) tại Malaysia, Al-Ajmi
& Saudagaran tại Bahrain (2011), phí cung cấp dịch
vụ phi kiểm toán lớn hơn hoặc bằng 100% phí từ
dịch vụ kiểm toán được đánh giá là một trong các
nhân tố đe dọa tính độc lập. Khi mức phí này ở các
mức thấp hơn cũng được đánh giá là đe dọa tính
độc lập. Ferdinand A. Gul và cộng sự (2007) chỉ ra
mối quan hệ giữa phí phi kiểm toán và tính độc lập
kiểm toán sẽ phụ thuộc vào nhiệm kỳ kiểm toán, và
phí phi kiểm toán có tác động ngược chiều tới tính
độc lập kiểm toán khi nhiệm kỳ kiểm toán ngắn và
quy mô công ty khách hàng nhỏ.
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn ị
Phương Hồng và Hà Hoàng Nhân (2014) chỉ ra
rằng phí dịch vụ phi kiểm toán lớn hơn hoặc bằng
100% phí kiểm toán là nhân tố đe dọa lớn nhất
tính độc lập của kiểm toán viên theo quan điểm
của kiểm toán viên và người sử dụng BCTC (nhà
đầu tư, nhân viên tín dụng).
Dahlia Robinson (2008) bằng cách tập trung
vào ý kiến quan ngại của kiểm toán viên trong một
mẫu các công ty công bố phá sản, kết quả cho rằng
dịch vụ tư vấn thuế được cung cấp bởi kiểm toán
viên thì làm suy giảm tính độc lập kiểm toán. Allen
D. Blay và Marshall A. Geiger (2013) chứng minh
được mối quan hệ giữa sự suy giảm tính độc lập
và phí dịch vụ phi kiểm toán tại Mỹ. Một nghiên
cứu thực nghiệm của các giám đốc công ty Hoa Kỳ,
Kurt Pany and P. M. J. Reekers (1983), đã xem xét
tính hợp lý của việc cho phép kiểm toán viên trong
một công ty thực hiện các cam kết dịch vụ khác
nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy dịch vụ thiết kế
hệ thống kiểm soát nội bộ cũng làm giảm tính độc
lập kiểm toán.
Lê Đoàn Minh Đức (2017) dựa trên kết quả
phỏng vấn sâu các chuyên gia cho thấy trong các
dịch vụ phi kiểm toán thì dịch vụ ghi sổ kế toán
và tư vấn thuế sẽ làm suy giảm đáng kể tính độc
lập kiểm toán. Những dịch vụ phi kiểm toán khác
không những không làm suy giảm tính độc lập
kiểm toán mà còn làm tăng hiệu quả kiểm toán do
có được sự lan tỏa kiến thức.
Kết quả đa dạng về mối quan hệ giữa dịch vụ
phi kiểm toán và tính độc lập có thể được lý giải là
do các nghiên cứu được thực hiện tại các đất nước
khác nhau về thể chế, văn hóa, kinh tế, chính trị
và xã hội. Do đó, dịch vụ phi kiểm toán là nhân
tố đáng nghiên cứu trong mối quan hệ với tính
Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu cho rằng,
dịch vụ phi kiểm toán không làm giảm tính độc
lập của kiểm toán viên. Mark L. Defond và cộng sự
(2002) không tìm thấy sự liên quan đáng kể giữa các
1 Big8: Arthur Andersen, Arthur Young, Coopers and Lybrand, Ernst & Whinney, Deloite Haskins & Sells, Peat Marwick Mitchell, Price Waterhouse và Touche Ross.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 127 - tháng 5/2018 13
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
độc lập của kiểm toán viên. Nếu nghiên cứu tiếp
tục được thực hiện tại Việt Nam – một thị trường
kinh tế mới nổi có nhiều đặc điểm kinh tế, xã hội,
văn hóa khác biệt với các nước trên thế giới - thì
cần phải xác định từng loại hình dịch vụ phi kiểm
toán tác động tính độc lập của kiểm toán viên và
mở rộng khảo sát quan điểm của nhiều nhóm đối
tượng hơn nữa.
Callaghan và cộng sự (2009) lại cho thấy không có
bằng chứng về mối liên quan giữa nguồn thu từ phí
kiểm toán và việc đưa ra ý kiến của kiểm toán viên.
Do vậy, phí kiểm toán sẽ đe dọa đến tính độc
lập hay tác động đến chất lượng kiểm toán là ý kiến
được nhiều nhà kinh tế ủng hộ hơn ý kiến không
có mối liên hệ giữa phí kiểm toán và tính độc lập
kiểm toán.
2.2. Mức độ phụ thuộc vào phí kiểm toán
2.3. Nhiệm kỳ của kiểm toán viên, sự luân
chuyển kiểm toán viên
DeAngelo (1981) đã thiết lập mô hình phí
kiểm toán năm đầu tiên (chi phí khởi động kiểm
toán - startup cost) với chi phí phát sinh liên quan
đến việc thay đổi công ty kiểm toán của doanh
nghiệp được kiểm toán. DeAngelo đã chỉ ra sự
liên hệ giữa chi phí kiểm toán và quan hệ kinh tế
với khách hàng có thể làm giảm tính độc lập của
kiểm toán viên.
Do sự kiện Enron/Arthur Andersen, nhiều kiến
nghị liên quan đến giới hạn nhiệm kỳ kiểm toán
viên và thực hiện việc luân phiên thay đổi kiểm
toán viên để bảo vệ nhà đầu tư, từ đó xuất hiện
các quy định giới hạn nhiệm kỳ kiểm toán viên.
Ví dụ như trong Đạo luật SOX 2002 (PCAOB2),
kiểm toán viên sẽ không được xem là độc lập nếu
họ thực hiện kiểm toán cho cùng một khách hàng
trong 5 năm.
Để giảm nguy cơ mất phí từ một hợp đồng, kiểm
toán viên có thể thực hiện các yêu cầu của khách
hàng và thậm chí hợp tác trong các hoạt động gian
lận (Gavious, 2007). Douglas (2010) cho rằng, một
số công ty kiểm toán thực hiện cắt giảm giá phí kiểm
toán để giữ chân khách hàng, duy trì tăng trưởng
doanh thu hoặc mở rộng thị phần và điều này có thể
làm suy giảm tính độc lập của kiểm toán viên.
eo Mautz và Sharaf (1961), nhiệm kỳ kiểm
toán viên càng dài thì chất lượng kiểm toán càng
giảm bởi lẽ nó làm gia tăng sự phụ thuộc của kiểm
toán viên vào Ban giám đốc của khách hàng, giảm
tính độc lập. Ngoài ra, cũng theo Arel và các cộng
sự (2005), kiểm toán viên có thể cảm thấy nhàm
chán và xem việc kiểm toán như là một sự bắt chước
đơn giản của các hợp đồng kiểm toán trước nên
kiểm toán viên sẽ ít chú tâm đến cuộc kiểm toán.
Shockley (1981), trường hợp công ty kiểm toán có
một “sự tin tưởng” khách hàng do có mối quan hệ
lâu dài và “sự tin tưởng” này có thể khiến cho kiểm
toán viên sử dụng các thủ tục kiểm toán kém hữu
hiệu và không sáng tạo. Do vậy, kiểm toán viên có
thể trở nên kém khách quan và kém nỗ lực trong
việc phát hiện các sai sót trọng yếu và có khuynh
hướng đồng ý với Ban giám đốc của khách hàng về
các quyết định quan trọng.
eo kết quả các ngiên cứu của Beattie và cộng
sự (1999), Alleyne và cộng sự (2006), sự phụ thuộc
kinh tế được coi là một trong các nhân tố đe dọa
tính độc lập mạnh nhất, cụ thể là khi phí từ một
khách hàng chiếm đến 10% tổng doanh thu của
công ty kiểm toán.
Tại Việt Nam, Nguyễn ị Phương Hồng, Hà
Hoàng Nhân (2014) thông qua bảng câu hỏi khảo
sát quan điểm của kiểm toán viên và người sử dụng
BCTC, kết quả cho thấy thu nhập của chủ phần
hùn (partner) phụ thuộc vào việc duy trì một khách
hàng cụ thể và doanh thu đến từ một khách hàng
lớn hơn hoặc bằng 10% tổng doanh thu của công ty
kiểm toán thì tính độc lập của kiểm toán viên bị đe
dọa, tuy nhiên có sự khác nhau về mức độ đối với
quan điểm của từng nhóm đối tượng.
Nghiên cứu của Teoh & Lim (1996) và Beattie
và cộng sự (1999) kết luận sự luân chuyển của các
chủ phần hùn kiểm toán (partner) được đánh giá
là một trong những nhân tố làm tăng tính độc lập
của kiểm toán viên. eo Gate và cộng sự (2007),
có một sự tin tưởng lớn trong các báo cáo tài chính
Tuy nhiên, các nghiên cứu của Craswell và
cộng sự (2002) tại Úc, DeFond và cộng sự (2002),
2 PCAOB: Puclic Company Accounting Oversight Board
14 Số 127 - tháng 5/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
của các công ty có luân chuyển công ty kiểm toán
so với các công ty chỉ luân chuyển partner hoặc
không có sự luân chuyển nào cả. Tuy nhiên, theo
Dart (2011), phần lớn các nhà đầu tư Vương quốc
Anh không đồng ý rằng nhiệm kỳ kiểm toán dài
hạn là mối đe dọa đến tính độc lập.
thống quản lý rủi ro và chức năng kiểm toán nội
bộ và bên ngoài. Vai trò của nó là cung cấp lời
khuyên và kiến nghị cho hội đồng trong phạm vi
điều lệ công ty quy định. Điều khoản tham chiếu
và yêu cầu của một Ủy ban kiểm toán khác nhau
giữa các quốc gia, nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi
các hiệp hội kinh tế và chính trị có khả năng thông
qua luật pháp.
Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Nguyễn
ị Phương Hồng cho rằng nhiệm kỳ của kiểm
toán viên, chủ phần hùn kiểm toán (partner) kéo
dài hơn 03 năm đối với một khách hàng là một
trong các nhân tố đe dọa nhất tính độc lập theo
quan điểm của kế toán viên.
Và sự tồn tại của một Ủy ban kiểm toán là một
nhân tố làm tăng tính độc lập trong kiểm toán theo
kết quả nghiên cứu của Baettie và cộng sự (1999),
Teoh & Lim (1996), Alleyne và cộng sự (2006),
Al-Ajmi & Saudagaran (2011).
Như vậy, phần lớn các nhà nghiên cứu trên thế
giới cho rằng nhiệm kỳ kiểm toán dài hạn đối với
một khách hàng thì tính độc lập bị đe dọa. Nhiệm
kỳ của kiểm toán viên, sự luân chuyển kiểm toán
viên là nhân tố cần được nghiên cứu kỹ hơn ở môi
trường Việt Nam, có sự khác biệt về đặc điểm kinh
tế, xã hội, văn hóa với các nước trên thế giới.
Trong nghiên cứu của Nguyễn ị Phương
Hồng (2014) thì kế toán viên đề cao vai trò của
Ủy ban kiểm toán (bao gồm các giám đốc không
điều hành) bổ nhiệm kiểm toán viên cho kiểm toán
BCTC là một trong những nhân tố làm tăng mạnh
nhất tính độc lập.
2.4. Ủy ban kiểm toán bổ nhiệm kiểm toán viên
Tuy nhiên, Ủy ban kiểm toán là một điều khá
mới mẻ ở Việt Nam hiện nay nhưng thực tế nó đã
tồn tại rất lâu trên thế giới và trở thành một phần
không thể thiếu trong quản trị công ty, đặc biệt là
những doanh nghiệp niêm yết. Vì vậy, các nghiên
cứu sau này ở Việt Nam có thể tập trung vào nhân
tố này để làm rõ ảnh hưởng của nó đến tính độc lập
của kiểm toán viên cũng như chất lượng thông tin
được công bố.
eo định nghĩa của IFAC3, Ủy ban kiểm toán
là Ủy ban của hội đồng quản trị chịu trách nhiệm
giám sát quá trình lập báo cáo tài chính, lựa chọn
kiểm toán viên độc lập, và nhận kết quả kiểm toán
từ kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập. Ủy ban
giúp Hội đồng quản trị thực hiện quản trị doanh
nghiệp và giám sát các trách nhiệm liên quan đến
báo cáo tài chính, hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ
3 IFAC: International Federation of Accountants
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 127 - tháng 5/2018 15
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
2.5. Cạnh tranh của thị trường kiểm toán và
quy mô công ty kiểm toán
Al-Ajmi & Saudagaran (2011) đánh giá các nhân
tố rủi ro xảy ra với các kiểm toán viên khi không
đảm bảo được tính độc lập mà ảnh hưởng đến chất
lượng kiểm toán sẽ làm tăng tính độc lập. Những
nhân tố này là: rủi ro xảy ra kiện tụng chống lại
kiểm toán viên, rủi ro có các hình thức kỷ luật đối
với kiểm toán viên từ các tổ chức nghề nghiệp hay
cơ quan pháp luật, rủi ro làm tổn hại uy tín của
kiểm toán viên trong công chúng, rủi ro mất chứng
chỉ hành nghề kiểm toán viên.
eo nghiên cứu của Bettie và cộng sự (1999),
sự cạnh tranh cao trong thị trường kiểm toán và
quy mô công ty kiểm toán nhỏ theo quan điểm
của cả kiểm toán viên và người sử dụng BCTC là
các nhân tố tiềm ẩn đe dọa tính độc lập của kiểm
toán viên.
Các công ty kiểm toán lớn, thành viên các hãng
quốc tế thường được đánh giá là độc lập hơn so với
các công ty kiểm toán nhỏ hay các hãng địa phương
(Alleyne và cộng sự, 2006; Al-Ajmi & Saudagaran,
2010). eo kết luận của Canning & Gwilliam
(1999) quy mô công ty kiểm toán nhỏ và sự gần gũi
của thị trường kiểm toán Ailen lại làm tăng cường
tính độc lập.
Nghiên cứu của Beattie và cộng sự (1999) đánh
giá các nhân tố rủi ro xảy ra kiện tụng chống lại
kiểm toán viên, rủi ro ảnh hưởng uy tín của kiểm
toán viên và việc công khai phí các dịch vụ phi
kiểm toán với khách hàng được xem là các nhân tố
làm tăng tính độc lập thấp nhất trong danh sách.
eo kết quả nghiên cứu của Nguyễn ị
Phương Hồng và Hà Hoàng Nhân (2014) có sự
đồng thuận của kiểm toán viên, kế toán viên và
người sử dụng BCTC trong việc cho rằng các nhân
tố: rủi ro bị mất chứng chỉ hành nghề kiểm toán
viên, rủi ro có các hình thức kỷ luật đối với kiểm
toán viên từ các tổ chức nghề nghiệp hay cơ quan
pháp luật, rủi ro các vụ kiện tụng chống lại kiểm
toán viên và rủi ro tổn hại uy tín của kiểm toán viên
trong công chúng là các nhân tố làm tăng mạnh
nhất tính độc lập của kiểm toán viên.
Ở Việt Nam, Nguyễn ị Phương Hồng đánh
giá áp lực cạnh tranh về phí kiểm toán và áp lực về
ngân sách mà các công ty kiểm toán áp đặt lên kiểm
toán viên được xem là nhân tố đe dọa nhất tính
độc lập. Người sử dụng tin rằng công ty kiểm toán
là một trong các Big44, các công ty quy mô vừa và
lớn khác, thành viên hãng kiểm toán quốc tế khác
thì lại là một trong các nhân tố làm tăng tính độc
lập mạnh nhất.
ực trạng các công ty kiểm toán độc lập cạnh
tranh bằng cách hạ thấp giá phí đã diễn ra nhiều
năm nay ở thị trường Việt Nam. Các công ty trong
top đầu thị trường kiểm toán nhờ những lợi thế về
quy mô, thương hiệu thường dễ dàng nhận được
những hợp đồng lớn từ những tập đoàn kinh tế có
địa bàn hoạt động khắp cả nước hay những công
ty xuyên quốc gia. Ngược lại, các công ty quy mô
nhỏ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn nhằm cung
cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp quy mô vừa và
nhỏ trong nước. Do vậy, cạnh tranh của thị trường
kiểm toán và quy mô công ty kiểm toán là nhân tố
cần được nghiên cứu kỹ hơn trong mối liên hệ với
tính độc lập kiểm toán ở Việt Nam.
2.7. Công khai các quan hệ tài chính
Khikhảosátquanđiểmcủakiểmtoánviên, nhân
viên cho vay tại ngân hàng, chuyên gia phân tích tài
chính, nghiên cứu của Beattie và cộng sự (1999)
tại Anh, Alleyne và cộng sự (2006) tại Barbados,
Al-Ajmi & Saudagaran (2011) tại Bahrain cho thấy,
việc công khai các thông tin về các dịch vụ cung
cấp cho khách hàng và các khoản phí nâng cao tính
độc lập của kiểm toán viên.
Ở nhóm các nhân tố ít làm tăng tính độc lập
nhất, theo tất cả người được khảo sát của nghiên
cứu Nguyễn ị Phương Hồng, đó là 3 nhân tố
thuộc nhóm công khai các quan hệ giữa công ty
kiểm toán và khách hàng: công khai phí dịch vụ
kiểm toán, công khai các dịch vụ phi kiểm toán và
công khai phí dịch vụ phi kiểm toán.
2.6. Rủi ro đối với kiểm toán viên
Nghiên cứu của Beattie và cộng sự (1999), Teoh
& Lim (1996), Alleyne và cộng sự (2006) và của
4 Big4: Deloite, Ernst & Young, PriceWaterhouse Coopers, KPMG.
16 Số 127 - tháng 5/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên - Đề xuất mô hình nghiên cứu cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- cac_nhan_to_anh_huong_den_tinh_doc_lap_cua_kiem_toan_vien_de.pdf