Các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên - Đề xuất mô hình nghiên cứu cho Việt Nam

NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
toán công bố trong BCTC đang ngày càng cao, bắt  
kịp với các quốc gia phát triển.  
lượt là 1.174 và 1.624 đã cho thấy không có hiện  
tượng tự tương quan hay hiện tượng đa cộng tuyến  
trong mô hình đa tuyến tính, do vậy kết quả phân  
tích hồi quy hoàn toàn có ý nghĩa.  
- Kiểm định Durbin - Watson và VIF trong mô  
hình hồi quy đa tuyến tính ở trên có kết quả lần  
Bảng so sánh giá trị thích hợp của thông tin kế toán (chất lượng của thông tin công bố trong BCTC) với một  
số quốc gia  
Quốc gia  
Giai đoạn  
Tác giả  
R2 điều chỉnh  
Hoa Kỳ  
1953-1993  
1982-1996  
1982-1996  
1982-1996  
1976-1999  
1987-1996  
1987-1998  
2001-2003  
2005-2009  
2011-2013  
Collins và các cộng sự (1997)  
King và Langli (1998)  
King và Langli (1998)  
King và Langli (1998)  
Habib (2004)  
54%  
65%  
66%  
40%  
65%  
32,95%  
35%  
50%  
56%  
43%  
Norway  
Vương quốc Anh  
Đức  
Nhật Bản  
Malaysia  
Hàn Quốc  
Úc  
Malcolm Smith (2008)  
Bae và Jeong (2007)  
Habib và Azim (2008)  
Chandrapala (2013)  
Sri lanka  
Italia  
Camodeca và các cộng sự (2014)  
(Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp)  
kết luận  
Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình nghiên cứu  
này phù hợp và các biến độc lập (các biến kế toán)  
đều có ý nghĩa ở mức 1%. Vi hệ số R2 = 0,567 cho  
thấy chất lượng thông tin công bố trong BCTC của  
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán  
Việt Nam ngày càng cao, tương đồng với nghiên cứu  
tại Hoa Kỳ (54%) - một quốc gia có thị trường chứng  
khoán rất phát triển. Kết quả nghiên cứu một lần  
nữa nhằm khẳng định việc tác giả sử dụng mô hình  
EBO để đo lường chất lượng của thông tin công bố  
trong BCTC là hoàn toàn phù hợp.  
4. Ewert, Ralf, and Alfred Wagenhofer, 2011.  
Earning quality metrics and what they  
measure. Available at SSRN 169042;  
5. Francis, J., Lafond, R., Olsson, P., &Schipper, K.,  
2004. Costs of equity and earnings attributes,  
Accounting Review, 79: 967 - 1010;  
6. Habib, A., 2004, Accounting – Based  
Equity valuation techniques and the  
value relevance of dividend information:  
Empirical evidence from Japan, Pacific  
Accounting Review, 16 (2): 23 – 44;  
7. Habib, A., Istiaq Azim, 2008, Corporate  
governance and the value – relevance of  
accounting information: Evidence from Australia,  
Accounting Research Journal 21.2: 167 - 194;  
8. King R. and Langli J., 1998, Accounting  
Diversity and Firm Valuation, International  
Journal of Accounting, 33: 529 – 567;  
9. Perotti, P., & Wagenhofer, A., 2014, Earnings  
quality measures and excess returns, Journal of  
Business Finance & Accounting, 41: 515 - 571.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Camodeca, R., Almici, A., Brivio, A, R.,  
2014, e value relevance of accounting  
information in the Italian and UK stock  
markets, Problems and Perspectives in  
management, 12 (4): 512 - 519;  
2. Chandrapala, P., 2013, e value relevance  
of earnings and book value: e importance  
of ownership concentration and firm size,  
Journal of Compretiveness, 5 (2): 98 - 107;  
3. Collins D., Maydew E., and Weiss I., 1997,  
Changes in the value – relevance of earnings and  
book values over the past forty years, Journal of  
Accounting and Economics, 24: 39 - 67;  
Ngày nhận bài lần 1: 13/4/2018  
Ngày duyệt đăng: 27/4/2018  
10 Số 127 - tháng 5/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
CAÙC NHAÂN TOÁ AÛNH HÖÔÛNG ÑEÁN TÍNH ÑOÄC LAÄP  
CUÛA KIEÅM TOAÙN VIEÂN - ÑEÀ XUAÁT MOÂ HÌNH  
NGHIEÂN CÖÙU CHO VIEÄT NAM  
NGUYỄN THHẢI HÀ1  
NGUYỄN THTHƯơNG2  
TRN MAI ANH2  
ính độc lập là một nguyên tắc đạo đức quan trọng, quyết định chất lượng kiểm toán, đảm  
bảo sự khách quan của ý kiến kiểm toán. Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển và hội nhập  
mạnh mẽ với quốc tế, chất lượng kiểm toán đòi hỏi phải luôn được nâng cao và tính độc  
T
lập của kiểm toán viên luôn được người sử dụng báo cáo tài chính quan tâm. Bằng phương  
pháp tổng quan tài liệu, bài viết thực hiện đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tính độc lập  
của kiểm toán viên. Trên cơ sở đó, bài viết cũng đánh giá khoảng trống nghiên cứu và đề xuất mô hình  
nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên trên thị trường Việt Nam.  
Từ khóa: kiểm toán, tính độc lập của kiểm toán viên, kiểm toán báo cáo tài chính.  
Factors affecting auditor’s independence - proposed modeling of research for Vietnam  
Independence is an important ethical principle that determines the quality of the audit, ensuring the  
objectivity of the audit opinion. In the context of strong economic development and international integration,  
the quality of auditing needs to always be improved and the independence of the auditors is always taken into  
account by the users of the financial statements. By the method of document review, the article assesses the  
impact of factors on the independence of the auditor. Based on that, the article also assesses the research gap  
and recommends a model of factors affecting the independence of the auditors in the Vietnamese market.  
key words: Auditing, independence of auditors, audit of financial statements.  
1. Giới thiệu  
lớn liên quan đến các gian lận trên BCTC đã được  
kiểm toán gây ra tâm lý lo ngại của người sử dụng  
BCTC về chất lượng kiểm toán và tính độc lập của  
kiểm toán viên. Điển hình như vụ bê bối tài chính  
liên quan đến tập đoàn năng lượng Enron dẫn đến  
phá sản năm 2001 tại Mỹ và việc phá sản hãng kiểm  
toán Arthur Andersen vào năm 2002 do mất uy tín.  
Nhiều nguyên nhân được đưa ra, đáng chú ý là việc  
Arthur Andersen đã kiểm toán cho Enron trong  
một thời gian khá dài là 16 năm, đồng thời kiêm  
thêm cả dịch vụ kiểm toán nội bộ và tư vấn quản lý.  
Báo cáo tài chính (BCTC) trình bày các thông  
tin quan trọng về tình hình tài chính, kết quả kinh  
doanh và luồng lưu chuyển tiền tệ của công ty và  
kiểm toán BCTC ngày càng trở thành một dịch  
vụ đảm bảo phổ biến cho những chủ thể sử dụng  
BCTC nói chung và các nhà đầu tư nói riêng về  
chất lượng thông tin trên BCTC. Để đảm bảo chất  
lượng cuộc kiểm toán, đảm bảo niểm tin của người  
sử dụng BCTC, tính độc lập của kiểm toán viên  
đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình kiểm  
toán BCTC.  
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc các công ty  
kiểm toán thực hiện kiểm toán BCTC cho một  
khách hàng trong một thời gian dài và cung cấp  
Tuy nhiên, trong giai đoạn từ các năm 2000 trở  
lại đây, thế giới đã chứng kiến những vụ sai phạm  
1GV Khoa Kế toán - Kiểm toán, Trường ĐHKT, ĐHQGHN; 2SV Khoa Kế toán - Kiểm toán, Trường ĐHKT, ĐHQGHN  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 127 - tháng 5/2018 11  
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
các dịch vụ phi kiểm toán khác làm đe dọa nghiêm  
trọng đến tính độc lập của kiểm toán viên. Các  
nghiên cứu trước đây tại nhiều quốc gia đã đề cập  
đến những nhân tố khác nhau có ảnh hưởng tích  
cực cũng như tiêu cực đến tính độc lập của kiểm  
toán viên, có cả những công trình nghiên cứu chỉ  
ra những nhân tố ảnh hưởng trái ngược đến tính  
độc lập của kiểm toán.  
quả kiểm toán sẽ không có giá trị khi những người  
sử dụng kết quả kiểm toán tin rằng cuộc kiểm toán  
thiếu tính độc lập. Yêu cầu về tính độc lập đòi hỏi  
sự trung thực và trách nhiệm của kiểm toán viên  
đối với những người sử dụng kết quả kiểm toán,  
đồng thời các kiểm toán viên không bị ràng buộc  
trong việc tiếp xúc với các tài liệu và báo cáo của  
doanh nghiệp. Trong quá trình kiểm toán, kiểm  
toán viên phải thực sự không bị chi phối hoặc tác  
động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào  
làm ảnh hưởng đến sự trung thực khách quan và  
độc lập nghề nghiệp của mình. Mọi vấn đề thắc  
mắc về tình hình kinh doanh hoặc các xử lý kế  
toán trong các giao dịch của doanh nghiệp cần  
được trả lời đầy đủ và đảm bảo rằng kiểm toán  
viên không bị hạn chế trong việc thu thập các bằng  
chứng kiểm toán.  
Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển,  
ngành kiểm toán còn non trẻ và có đặc điểm kinh  
tế, văn hóa, xã hội khác so với các nước trên thế  
giới. Do đó, các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc  
lập của kiểm toán viên tại Việt Nam cũng có những  
đặc trưng khác với thế giới.  
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập  
của kiểm toán viên - tổng hợp các nghiên cứu  
có liên quan  
Các nghiên cứu trước đây cho thấy nhiều nhân  
tố khác nhau ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm  
toán viên. Để thuận tiện cho việc so sánh và phân  
tích, các nhân tố được đề cập theo từng nhóm liên  
quan đến nhau.  
Tính độc lập được quy định trong Chuẩn mực  
đạo đức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán ban  
hành theo ông tư số 70/2015/TT-BTC ngày  
8/5/2015 của Bộ Tài chính. Tính độc lập là nguyên  
tắc đầu tiên và quan trọng nhất đối với đạo đức  
nghề nghiệp của kiểm toán viên. Tính độc lập đòi  
hỏi kiểm toán viên khi đưa ra ý kiến phải độc lập  
về mặt hình thức và độc lập về mặt tư tưởng. Yêu  
cầu về tính độc lập được xem như là điều kiện cần  
để đạt được mục tiêu của hoạt động kiểm toán. Kết  
2.1. Cung cấp dịch vụ phi kiểm toán (non-audit  
services)  
Có nhiều nghiên cứu liên quan đến tác động  
của dịch vụ phi kiểm toán đến tính độc lập của  
kiểm toán viên tại nhiều thị trường khác nhau qua  
12 Số 127 - tháng 5/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
các thời kỳ. Kết quả của sự tác động khá đa dạng ở  
các nghiên cứu khác nhau.  
phí dịch vụ phi kiểm toán và suy giảm tính độc lập  
kiểm toán viên. Philip Beaulieu và Alan Reinstein  
(2010) chỉ ra người hành nghề tại công ty lớn sẽ ít  
tin rằng dịch vụ phi kiểm toán làm suy giảm tính  
độc lập kiểm toán viên hơn so với kiểm toán viên ở  
công ty nhỏ. Dựa trên mẫu của các công ty sản xuất  
bị áp lực về tài chính trong giai đoạn 2005-2009,  
Nicole Ratzinger-Sakel (2013) cho rằng, kiểm toán  
viên nước Đức thì không giảm độc lập hơn khi  
cung cấp dịch vụ phi kiểm toán.  
Một nghiên cứu của Randolph A. Shockley  
(1981) đã cho thấy dịch vụ phi kiểm toán có thể  
ảnh hưởng tính độc lập kiểm toán. Bài nghiên cứu  
thu thập thông tin khảo sát qua email từ bốn nhóm  
đối tượng: (a) Các đối tác lớn của Big81, (2) các đối  
tác từ các công ty CPA địa phương và khu vực, (3)  
nhà cung cấp tín dụng và (4) các nhà phân tích, kết  
quả là công ty kiểm toán có cung cấp dịch vụ tư vấn  
quản lý sẽ làm giảm tính độc lập kiểm toán.  
Bên cạnh đó, nhiều kết quả nghiên cứu cho rằng  
dịch vụ phi kiểm toán tạo ra sự lan tỏa kiến thức,  
từ đó mang lại nhiều lợi ích. Mohinder Parkash và  
Carol F. Venable (1993) chỉ ra khách hàng có xu  
hướng mua dịch vụ phi kiểm toán vì có sự lan tỏa  
kiến thức khi có sử dụng đồng thời của dịch vụ  
kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán từ một công  
ty kiểm toán. Nghiên cứu của W. Robert Knechel  
và Divesh S. Sharma (2012) cho thấy, dịch vụ phi  
kiểm toán được cung cấp bởi kiểm toán viên mang  
lại nhiều lợi ích cho khách hàng mà không dẫn đến  
mất hiệu quả kiểm toán.  
eo nghiên cứu của Beattie và cộng sự (1999)  
tại Anh, Teoh & Lim (1996) tại Malaysia, Al-Ajmi  
& Saudagaran tại Bahrain (2011), phí cung cấp dịch  
vụ phi kiểm toán lớn hơn hoặc bằng 100% phí từ  
dịch vụ kiểm toán được đánh giá là một trong các  
nhân tố đe dọa tính độc lập. Khi mức phí này ở các  
mức thấp hơn cũng được đánh giá là đe dọa tính  
độc lập. Ferdinand A. Gul và cộng sự (2007) chỉ ra  
mối quan hệ giữa phí phi kiểm toán và tính độc lập  
kiểm toán sẽ phụ thuộc vào nhiệm kỳ kiểm toán, và  
phí phi kiểm toán có tác động ngược chiều tới tính  
độc lập kiểm toán khi nhiệm kỳ kiểm toán ngắn và  
quy mô công ty khách hàng nhỏ.  
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn ị  
Phương Hồng và Hà Hoàng Nhân (2014) chỉ ra  
rằng phí dịch vụ phi kiểm toán lớn hơn hoặc bằng  
100% phí kiểm toán là nhân tố đe dọa lớn nhất  
tính độc lập của kiểm toán viên theo quan điểm  
của kiểm toán viên và người sử dụng BCTC (nhà  
đầu tư, nhân viên tín dụng).  
Dahlia Robinson (2008) bằng cách tập trung  
vào ý kiến quan ngại của kiểm toán viên trong một  
mẫu các công ty công bố phá sản, kết quả cho rằng  
dịch vụ tư vấn thuế được cung cấp bởi kiểm toán  
viên thì làm suy giảm tính độc lập kiểm toán. Allen  
D. Blay và Marshall A. Geiger (2013) chứng minh  
được mối quan hệ giữa sự suy giảm tính độc lập  
và phí dịch vụ phi kiểm toán tại Mỹ. Một nghiên  
cứu thực nghiệm của các giám đốc công ty Hoa Kỳ,  
Kurt Pany and P. M. J. Reekers (1983), đã xem xét  
tính hợp lý của việc cho phép kiểm toán viên trong  
một công ty thực hiện các cam kết dịch vụ khác  
nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy dịch vụ thiết kế  
hệ thống kiểm soát nội bộ cũng làm giảm tính độc  
lập kiểm toán.  
Lê Đoàn Minh Đức (2017) dựa trên kết quả  
phỏng vấn sâu các chuyên gia cho thấy trong các  
dịch vụ phi kiểm toán thì dịch vụ ghi sổ kế toán  
và tư vấn thuế sẽ làm suy giảm đáng kể tính độc  
lập kiểm toán. Những dịch vụ phi kiểm toán khác  
không những không làm suy giảm tính độc lập  
kiểm toán mà còn làm tăng hiệu quả kiểm toán do  
có được sự lan tỏa kiến thức.  
Kết quả đa dạng về mối quan hệ giữa dịch vụ  
phi kiểm toán và tính độc lập có thể được lý giải là  
do các nghiên cứu được thực hiện tại các đất nước  
khác nhau về thể chế, văn hóa, kinh tế, chính trị  
và xã hội. Do đó, dịch vụ phi kiểm toán là nhân  
tố đáng nghiên cứu trong mối quan hệ với tính  
Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu cho rằng,  
dịch vụ phi kiểm toán không làm giảm tính độc  
lập của kiểm toán viên. Mark L. Defond và cộng sự  
(2002) không tìm thấy sự liên quan đáng kể giữa các  
1 Big8: Arthur Andersen, Arthur Young, Coopers and Lybrand, Ernst & Whinney, Deloite Haskins & Sells, Peat Marwick Mitchell, Price Waterhouse và Touche Ross.  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 127 - tháng 5/2018 13  
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
độc lập của kiểm toán viên. Nếu nghiên cứu tiếp  
tục được thực hiện tại Việt Nam – một thị trường  
kinh tế mới nổi có nhiều đặc điểm kinh tế, xã hội,  
văn hóa khác biệt với các nước trên thế giới - thì  
cần phải xác định từng loại hình dịch vụ phi kiểm  
toán tác động tính độc lập của kiểm toán viên và  
mở rộng khảo sát quan điểm của nhiều nhóm đối  
tượng hơn nữa.  
Callaghan và cộng sự (2009) lại cho thấy không có  
bằng chứng về mối liên quan giữa nguồn thu từ phí  
kiểm toán và việc đưa ra ý kiến của kiểm toán viên.  
Do vậy, phí kiểm toán sẽ đe dọa đến tính độc  
lập hay tác động đến chất lượng kiểm toán là ý kiến  
được nhiều nhà kinh tế ủng hộ hơn ý kiến không  
có mối liên hệ giữa phí kiểm toán và tính độc lập  
kiểm toán.  
2.2. Mức độ phụ thuộc vào phí kiểm toán  
2.3. Nhiệm kỳ của kiểm toán viên, sự luân  
chuyển kiểm toán viên  
DeAngelo (1981) đã thiết lập mô hình phí  
kiểm toán năm đầu tiên (chi phí khởi động kiểm  
toán - startup cost) với chi phí phát sinh liên quan  
đến việc thay đổi công ty kiểm toán của doanh  
nghiệp được kiểm toán. DeAngelo đã chỉ ra sự  
liên hệ giữa chi phí kiểm toán và quan hệ kinh tế  
với khách hàng có thể làm giảm tính độc lập của  
kiểm toán viên.  
Do sự kiện Enron/Arthur Andersen, nhiều kiến  
nghị liên quan đến giới hạn nhiệm kỳ kiểm toán  
viên và thực hiện việc luân phiên thay đổi kiểm  
toán viên để bảo vệ nhà đầu tư, từ đó xuất hiện  
các quy định giới hạn nhiệm kỳ kiểm toán viên.  
Ví dụ như trong Đạo luật SOX 2002 (PCAOB2),  
kiểm toán viên sẽ không được xem là độc lập nếu  
họ thực hiện kiểm toán cho cùng một khách hàng  
trong 5 năm.  
Để giảm nguy cơ mất phí từ một hợp đồng, kiểm  
toán viên có thể thực hiện các yêu cầu của khách  
hàng và thậm chí hợp tác trong các hoạt động gian  
lận (Gavious, 2007). Douglas (2010) cho rằng, một  
số công ty kiểm toán thực hiện cắt giảm giá phí kiểm  
toán để giữ chân khách hàng, duy trì tăng trưởng  
doanh thu hoặc mở rộng thị phần và điều này có thể  
làm suy giảm tính độc lập của kiểm toán viên.  
eo Mautz và Sharaf (1961), nhiệm kỳ kiểm  
toán viên càng dài thì chất lượng kiểm toán càng  
giảm bởi lẽ nó làm gia tăng sự phụ thuộc của kiểm  
toán viên vào Ban giám đốc của khách hàng, giảm  
tính độc lập. Ngoài ra, cũng theo Arel và các cộng  
sự (2005), kiểm toán viên có thể cảm thấy nhàm  
chán và xem việc kiểm toán như là một sự bắt chước  
đơn giản của các hợp đồng kiểm toán trước nên  
kiểm toán viên sẽ ít chú tâm đến cuộc kiểm toán.  
Shockley (1981), trường hợp công ty kiểm toán có  
một “sự tin tưởng” khách hàng do có mối quan hệ  
lâu dài và “sự tin tưởng” này có thể khiến cho kiểm  
toán viên sử dụng các thủ tục kiểm toán kém hữu  
hiệu và không sáng tạo. Do vậy, kiểm toán viên có  
thể trở nên kém khách quan và kém nỗ lực trong  
việc phát hiện các sai sót trọng yếu và có khuynh  
hướng đồng ý với Ban giám đốc của khách hàng về  
các quyết định quan trọng.  
eo kết quả các ngiên cứu của Beattie và cộng  
sự (1999), Alleyne và cộng sự (2006), sự phụ thuộc  
kinh tế được coi là một trong các nhân tố đe dọa  
tính độc lập mạnh nhất, cụ thể là khi phí từ một  
khách hàng chiếm đến 10% tổng doanh thu của  
công ty kiểm toán.  
Tại Việt Nam, Nguyễn ị Phương Hồng, Hà  
Hoàng Nhân (2014) thông qua bảng câu hỏi khảo  
sát quan điểm của kiểm toán viên và người sử dụng  
BCTC, kết quả cho thấy thu nhập của chủ phần  
hùn (partner) phụ thuộc vào việc duy trì một khách  
hàng cụ thể và doanh thu đến từ một khách hàng  
lớn hơn hoặc bằng 10% tổng doanh thu của công ty  
kiểm toán thì tính độc lập của kiểm toán viên bị đe  
dọa, tuy nhiên có sự khác nhau về mức độ đối với  
quan điểm của từng nhóm đối tượng.  
Nghiên cứu của Teoh & Lim (1996) và Beattie  
và cộng sự (1999) kết luận sự luân chuyển của các  
chủ phần hùn kiểm toán (partner) được đánh giá  
là một trong những nhân tố làm tăng tính độc lập  
của kiểm toán viên. eo Gate và cộng sự (2007),  
có một sự tin tưởng lớn trong các báo cáo tài chính  
Tuy nhiên, các nghiên cứu của Craswell và  
cộng sự (2002) tại Úc, DeFond và cộng sự (2002),  
2 PCAOB: Puclic Company Accounting Oversight Board  
14 Số 127 - tháng 5/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
của các công ty có luân chuyển công ty kiểm toán  
so với các công ty chỉ luân chuyển partner hoặc  
không có sự luân chuyển nào cả. Tuy nhiên, theo  
Dart (2011), phần lớn các nhà đầu tư Vương quốc  
Anh không đồng ý rằng nhiệm kỳ kiểm toán dài  
hạn là mối đe dọa đến tính độc lập.  
thống quản lý rủi ro và chức năng kiểm toán nội  
bộ và bên ngoài. Vai trò của nó là cung cấp lời  
khuyên và kiến nghị cho hội đồng trong phạm vi  
điều lệ công ty quy định. Điều khoản tham chiếu  
và yêu cầu của một Ủy ban kiểm toán khác nhau  
giữa các quốc gia, nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi  
các hiệp hội kinh tế và chính trị có khả năng thông  
qua luật pháp.  
Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Nguyễn  
ị Phương Hồng cho rằng nhiệm kỳ của kiểm  
toán viên, chủ phần hùn kiểm toán (partner) kéo  
dài hơn 03 năm đối với một khách hàng là một  
trong các nhân tố đe dọa nhất tính độc lập theo  
quan điểm của kế toán viên.  
Và sự tồn tại của một Ủy ban kiểm toán là một  
nhân tố làm tăng tính độc lập trong kiểm toán theo  
kết quả nghiên cứu của Baettie và cộng sự (1999),  
Teoh & Lim (1996), Alleyne và cộng sự (2006),  
Al-Ajmi & Saudagaran (2011).  
Như vậy, phần lớn các nhà nghiên cứu trên thế  
giới cho rằng nhiệm kỳ kiểm toán dài hạn đối với  
một khách hàng thì tính độc lập bị đe dọa. Nhiệm  
kỳ của kiểm toán viên, sự luân chuyển kiểm toán  
viên là nhân tố cần được nghiên cứu kỹ hơn ở môi  
trường Việt Nam, có sự khác biệt về đặc điểm kinh  
tế, xã hội, văn hóa với các nước trên thế giới.  
Trong nghiên cứu của Nguyễn ị Phương  
Hồng (2014) thì kế toán viên đề cao vai trò của  
Ủy ban kiểm toán (bao gồm các giám đốc không  
điều hành) bổ nhiệm kiểm toán viên cho kiểm toán  
BCTC là một trong những nhân tố làm tăng mạnh  
nhất tính độc lập.  
2.4. Ủy ban kiểm toán bổ nhiệm kiểm toán viên  
Tuy nhiên, Ủy ban kiểm toán là một điều khá  
mới mẻ ở Việt Nam hiện nay nhưng thực tế nó đã  
tồn tại rất lâu trên thế giới và trở thành một phần  
không thể thiếu trong quản trị công ty, đặc biệt là  
những doanh nghiệp niêm yết. Vì vậy, các nghiên  
cứu sau này ở Việt Nam có thể tập trung vào nhân  
tố này để làm rõ ảnh hưởng của nó đến tính độc lập  
của kiểm toán viên cũng như chất lượng thông tin  
được công bố.  
eo định nghĩa của IFAC3, Ủy ban kiểm toán  
là Ủy ban của hội đồng quản trị chịu trách nhiệm  
giám sát quá trình lập báo cáo tài chính, lựa chọn  
kiểm toán viên độc lập, và nhận kết quả kiểm toán  
từ kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập. Ủy ban  
giúp Hội đồng quản trị thực hiện quản trị doanh  
nghiệp và giám sát các trách nhiệm liên quan đến  
báo cáo tài chính, hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ  
3 IFAC: International Federation of Accountants  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 127 - tháng 5/2018 15  
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
2.5. Cạnh tranh của thị trường kiểm toán và  
quy mô công ty kiểm toán  
Al-Ajmi & Saudagaran (2011) đánh giá các nhân  
tố rủi ro xảy ra với các kiểm toán viên khi không  
đảm bảo được tính độc lập mà ảnh hưởng đến chất  
lượng kiểm toán sẽ làm tăng tính độc lập. Những  
nhân tố này là: rủi ro xảy ra kiện tụng chống lại  
kiểm toán viên, rủi ro có các hình thức kỷ luật đối  
với kiểm toán viên từ các tổ chức nghề nghiệp hay  
cơ quan pháp luật, rủi ro làm tổn hại uy tín của  
kiểm toán viên trong công chúng, rủi ro mất chứng  
chỉ hành nghề kiểm toán viên.  
eo nghiên cứu của Bettie và cộng sự (1999),  
sự cạnh tranh cao trong thị trường kiểm toán và  
quy mô công ty kiểm toán nhỏ theo quan điểm  
của cả kiểm toán viên và người sử dụng BCTC là  
các nhân tố tiềm ẩn đe dọa tính độc lập của kiểm  
toán viên.  
Các công ty kiểm toán lớn, thành viên các hãng  
quốc tế thường được đánh giá là độc lập hơn so với  
các công ty kiểm toán nhỏ hay các hãng địa phương  
(Alleyne và cộng sự, 2006; Al-Ajmi & Saudagaran,  
2010). eo kết luận của Canning & Gwilliam  
(1999) quy mô công ty kiểm toán nhỏ và sự gần gũi  
của thị trường kiểm toán Ailen lại làm tăng cường  
tính độc lập.  
Nghiên cứu của Beattie và cộng sự (1999) đánh  
giá các nhân tố rủi ro xảy ra kiện tụng chống lại  
kiểm toán viên, rủi ro ảnh hưởng uy tín của kiểm  
toán viên và việc công khai phí các dịch vụ phi  
kiểm toán với khách hàng được xem là các nhân tố  
làm tăng tính độc lập thấp nhất trong danh sách.  
eo kết quả nghiên cứu của Nguyễn ị  
Phương Hồng và Hà Hoàng Nhân (2014) có sự  
đồng thuận của kiểm toán viên, kế toán viên và  
người sử dụng BCTC trong việc cho rằng các nhân  
tố: rủi ro bị mất chứng chỉ hành nghề kiểm toán  
viên, rủi ro có các hình thức kỷ luật đối với kiểm  
toán viên từ các tổ chức nghề nghiệp hay cơ quan  
pháp luật, rủi ro các vụ kiện tụng chống lại kiểm  
toán viên và rủi ro tổn hại uy tín của kiểm toán viên  
trong công chúng là các nhân tố làm tăng mạnh  
nhất tính độc lập của kiểm toán viên.  
Ở Việt Nam, Nguyễn ị Phương Hồng đánh  
giá áp lực cạnh tranh về phí kiểm toán và áp lực về  
ngân sách mà các công ty kiểm toán áp đặt lên kiểm  
toán viên được xem là nhân tố đe dọa nhất tính  
độc lập. Người sử dụng tin rằng công ty kiểm toán  
là một trong các Big44, các công ty quy mô vừa và  
lớn khác, thành viên hãng kiểm toán quốc tế khác  
thì lại là một trong các nhân tố làm tăng tính độc  
lập mạnh nhất.  
ực trạng các công ty kiểm toán độc lập cạnh  
tranh bằng cách hạ thấp giá phí đã diễn ra nhiều  
năm nay ở thị trường Việt Nam. Các công ty trong  
top đầu thị trường kiểm toán nhờ những lợi thế về  
quy mô, thương hiệu thường dễ dàng nhận được  
những hợp đồng lớn từ những tập đoàn kinh tế có  
địa bàn hoạt động khắp cả nước hay những công  
ty xuyên quốc gia. Ngược lại, các công ty quy mô  
nhỏ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn nhằm cung  
cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp quy mô vừa và  
nhỏ trong nước. Do vậy, cạnh tranh của thị trường  
kiểm toán và quy mô công ty kiểm toán là nhân tố  
cần được nghiên cứu kỹ hơn trong mối liên hệ với  
tính độc lập kiểm toán ở Việt Nam.  
2.7. Công khai các quan hệ tài chính  
Khikhảosátquanđiểmcakiểmtnviên, nhân  
viên cho vay tại ngân hàng, chuyên gia phân tích tài  
chính, nghiên cứu của Beattie và cộng sự (1999)  
tại Anh, Alleyne và cộng sự (2006) tại Barbados,  
Al-Ajmi & Saudagaran (2011) tại Bahrain cho thấy,  
việc công khai các thông tin về các dịch vụ cung  
cấp cho khách hàng và các khoản phí nâng cao tính  
độc lập của kiểm toán viên.  
Ở nhóm các nhân tố ít làm tăng tính độc lập  
nhất, theo tất cả người được khảo sát của nghiên  
cứu Nguyễn ị Phương Hồng, đó là 3 nhân tố  
thuộc nhóm công khai các quan hệ giữa công ty  
kiểm toán và khách hàng: công khai phí dịch vụ  
kiểm toán, công khai các dịch vụ phi kiểm toán và  
công khai phí dịch vụ phi kiểm toán.  
2.6. Rủi ro đối với kiểm toán viên  
Nghiên cứu của Beattie và cộng sự (1999), Teoh  
& Lim (1996), Alleyne và cộng sự (2006) và của  
4 Big4: Deloite, Ernst & Young, PriceWaterhouse Coopers, KPMG.  
16 Số 127 - tháng 5/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
pdf 7 trang yennguyen 18/04/2022 1180
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên - Đề xuất mô hình nghiên cứu cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcac_nhan_to_anh_huong_den_tinh_doc_lap_cua_kiem_toan_vien_de.pdf