"Nghi thức lời nói'' trong hoạt động giao tiếp và rèn luyện "nghi thức lời nói" cho học sinh Tiểu học

Đặng Thị Lệ Tâm  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
73(11): 3 - 8  
NGHI THỨC LỜI NÓI TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP  
VÀ RÈN LUYỆN NGHI THỨC LỜI NÓI CHO HỌC SINH TIỂU HỌC  
Đặng Thị Lệ Tâm*  
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên  
TÓM TẮT  
Nghi thức lời nói (NTLN) là một thuật ngữ mới xuất hiện trong thời gian gần đây, khi ngôn ngữ  
học chuyển dần sang hướng nghiên cứu lời nói. NTLN là dùng tiếng nói để phục vụ cho nghi thức  
ứng xử. Do đó, cần phải nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng NTLN trong khẩu ngữ,  
trong giao tiếp để phục vụ cho việc thiết lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội. Dạy học  
NTLN là một nội dung mới của chương trình Tiếng Việt tiểu học. Các NTLN trong chương trình  
sẽ giúp học sinh biết cách giao tiếp ứng xử trong nhiều tình huống của cuộc sống, giúp các em  
phát triển được tất cả các dạng lời nói mà cuộc sống đang đòi hỏi ở các em, hướng các em trở  
thành những con người năng động, sáng tạo, hoàn thiện trong xã hội mới.  
Từ khoá: nghi thức lời nói, hoạt động giao tiếp, tiếng Việt, tiểu học, tình huống...  
NTLN TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP   
quan hệ giữa họ với nhau, và được biến thành  
các động hình giao tiếp”.  
Nói tới giao tiếp của xã hội loài người là nói  
Từ điển tiếng Việt của Viện Nghiên cứu ngôn  
tới giao tiếp bằng ngôn ngữ vì chỉ con người  
ngữ học 2005 có định nghĩa: “NTLN là  
mới có ngôn ngữ. Ngôn ngữ ra đời đã gắn kết  
những điều quy định theo quy ước xã hội  
con người lại với nhau chặt chẽ hơn, và xã hội  
loài người thì được “xã hội hoá” mạnh mẽ  
hơn bởi tính quy ước chặt chẽ của nó. Xã hội  
càng phát triển, tính quy ước của ngôn ngữ  
càng cao, với những nghi thức ngày càng tinh  
tế và phức tạp. Ngôn ngữ học hiện đại đã ngày  
càng chú ý hơn tới ngôn ngữ trong mối quan  
hệ với các nhân tố văn hoá, xã hội hay phong  
hoặc thói quen cần phải làm đúng để đảm bảo  
tính nghiêm túc của sự giao tiếp”.  
Như vậy, NTLN là hệ thống những công thức  
tương đối vững bền mang tính đặc thù của  
dân tộc được thừa nhận nhằm thiết lập mối  
quan hệ giữa các thành viên tham gia giao  
tiếp trong một tổng thể ước lệ. Xã hội đặt ra  
những hình thức nghi lễ ứng xử (trong đó có  
cả những ứng xử lời nói) mỗi khi thiết lập và  
tục tập quán của cộng đồng sử dụng nó.  
Ở nước ta, NTLN là một thuật ngữ mới xuất  
hiện trong thời gian gần đây, khi ngôn ngữ  
học chuyển dần sang hướng nghiên cứu lời  
nói. NTLN là dùng tiếng nói để phục vụ cho  
nghi thức ứng xử. Có rất nhiều cách hiểu khác  
nhau về NTLN:  
duy trì sự tiếp xúc với người đối thoại và đòi  
hỏi những người bản ngữ phải tuân thủ các  
quy tắc ấy. Ngay lúc còn nhỏ, người ta đã  
được dạy cách dùng các nghi thức, các thể  
thức chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi…và có những  
phản ứng với sự không tuân thủ quy tắc ấy.  
Trong cuốn “Nghi thức lời nói Nga”, Akisina  
A.A và N.I.Formanovskaija đã nêu lên một  
định nghĩa khá đầy đủ về NTLN. NTLN là  
“Những quy tắc ứng xử lời nói đặc trưng của  
từng dân tộc được dùng trong các tình huống  
có những người đối thoại đang tiếp xúc và  
giao tiếp với giọng điệu được lựa chọn phù  
hợp với hoàn cảnh giao tiếp, với các dấu hiệu  
xã hội của những người đối thoại và các mối  
Các hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ và các  
thao tác của nó chịu sự kiểm tra ngặt nghèo  
cũng như chịu ảnh hưởng từ các nguyên tắc  
thẩm mỹ và các quy ước xã hội. Để giao tiếp  
được với nhau, con người phải tuân theo  
những nghi thức nhất định theo quy ước của  
xã hội, chẳng hạn như trước khi vào câu  
chuyện thì phải có chào hỏi, khi nhận ân huệ  
từ người khác thì phải cám ơn, khi mắc lỗi thì  
phải xin lỗi... NTLN chính là nơi bộc lộ rõ rệt  
nhất tính riêng biệt của văn hoá, tâm lý dân  
Tel: 0912454828; Email: letamsptn79@gmail.com  
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
3
Đặng Thị Lệ Tâm  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
73(11): 3 - 8  
tộc, bởi tính quy ước chặt chẽ, nghiêm ngặt  
của nó. NTLN có thể hiểu là những hành vi  
dùng tiếng nói để phục vụ nghi thức ứng xử.  
NTLN với tư cách hành vi giao tiếp xã  
hội,“thực hiện các hành vi nói năng dưới các  
hình thức đối thoại, độc thoại với những tham  
số về ngôn ngữ học, tâm lý. Quan hệ xã hội,  
tôn ti về chức nghiệp và tuổi tác của các  
thành viên tham gia bối cảnh, ngữ cảnh cụ  
thể” [9,50]. Nó cũng được coi là “những quy  
định bắt buộc về hành vi nói năng” [11,143];  
“những quy ước xã hội về lễ nghi trong lời  
ăn tiếng nói” [6,7]. Hơn ở đâu hết, trong  
NTLN, “tính xã hội” của ngôn ngữ vô cùng  
đậm nét, bởi người giao tiếp không hành động  
cho riêng mình, mà cho quan hệ của họ với  
người xung quanh. Có thể nhìn thấy ảnh hưởng  
của các nhân tố xã hội đối với việc sản sinh ra  
NTLN qua sơ đồ quy trình giao tiếp sau:  
ngôn về hình thức và nội dung. Một bộ phận  
của hành vi tạo lời đã là đối tượng nghiên cứu  
của ngôn ngữ học tiền dụng học.  
Hành vi mượn lời là những hành vi “mượn”  
phương tiện ngôn ngữ, nói cho đúng hơn là  
mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả  
ngoài ngôn ngữ nào đó của người nghe, người  
nhận hoặc ở chính người nói.  
Hành vi ở lời là những hành vi người nói thực  
hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng  
là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa  
là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ  
tương ứng với chúng ở người nhận. Ví dụ về  
hành vi ở lời: hỏi, yêu cầu, ra lệnh, mời, hứa  
hẹn, khuyên bảo, cảm ơn, xin lỗi…  
Khác với hành vi mượn lời, hành vi ở lời có ý  
định (hay có đích- intentionnel), có quy ước  
(conventionnel) và có thể chế (institutionnel)  
dù rằng quy ước và thể chế của chúng không  
hiển ngôn mà quy tắc vận hành chúng được  
mọi người trong một cộng đồng ngôn ngữ  
tuân theo một cách không tự giác. Chính ở  
chỗ này, chúng ta càng dễ dàng phân biệt  
được những hành vi nào đã trở thành NTLN,  
còn hành vi nào vẫn còn nằm ở dạng nguyên,  
mà mỗi cá nhân có thể thực hiện theo cách  
riêng của mình.  
NTLN gắn chặt với lý thuyết hành vi ngôn  
ngữ, còn gọi là lý thuyết hoạt động lời nói,  
mà người mở đầu là J.L.Austin và sau đó là  
J.Searle. Theo Austin khi thực hiện một hành  
động ngôn ngữ, người ta thực hiện 3 hành vi  
đồng thời:  
Hay nói cách khác, NTLN nằm ở khu vực ở  
lời. Khi các hành vi ở lời này được lặp đi lặp  
lại ở nhiều người đến mức trở thành tập quán  
ngôn từ theo một quy ước sử dụng chung của  
một cộng đồng ngôn ngữ thì các hành vi đó  
trở thành NTLN. Những NTLN này phục vụ  
cho việc thiết lập, duy trì và phát triển đối  
thoại. Xa hơn nữa, nó làm cho mối quan hệ  
giữa người với người mang tính người hơn,  
phù hợp với xã hội văn minh, thể hiện những  
nét tế nhị trong tâm lý của con người hiện đại.  
1. Hành vi tạo lời (acte locutoire)  
2. Hành vi mượn lời (acte perlocutoire)  
3. Hành vi ở lời (acte illocutoire)  
Theo chúng tôi, cái đáng chú ý xét trên bình  
diện dụng học là hành vi ở lời và hành vi  
mượn lời. Bởi lẽ trong hai loại hình này đều  
nhất thiết phải có hoạt động tạo lời, là cái  
ngoại biên cho nội dung ở lời và mượn lời.  
Các nội dung này nhiều khi tác động trở lại  
quy định cho kiểu kết hợp ngữ âm, cú pháp  
của phát ngôn.  
RÈN LUYỆN NGHI THỨC LỜI NÓI CHO  
HỌC SINH TIỂU HỌC  
NTLN chủ yếu tồn tại trong khẩu ngữ tự  
nhiên, khẩu ngữ sinh hoạt thường ngày. Tuy  
nhiên, phong cách khẩu ngữ tự nhiên của  
chúng ta cũng cần phải phát triển theo hướng  
văn hoá, nghĩa là việc sử dụng nó và bản thân  
nó phải gắn với những hành vi văn minh xã  
hội, phải loại bỏ những kiểu nói năng thô tục,  
Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố  
của ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, các kiểu  
kết hợp từ thành câu…để tạo ra một phát  
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
4
Đặng Thị Lệ Tâm  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
73(11): 3 - 8  
kém văn hoá. Ngôn ngữ là một mặt của văn  
hoá, là nơi tàng trữ văn hoá và biểu hiện văn  
hoá của cá nhân, gia đình và của toàn xã hội.  
Ngôn ngữ và văn hoá không thể tách rời  
nhau. Do đó, cần phải nhận thức được tầm  
quan trọng của việc sử dụng NTLN trong  
khẩu ngữ, trong giao tiếp. Ý thức về nhiệm vụ  
không ngừng trau dồi NTLN văn minh, hiện  
đại, hợp với bản sắc dân tộc là góp phần trực  
tiếp đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng  
Việt, là một phẩm chất không thể thiếu được  
đối với con người mới ở thời đại của chúng ta.  
Đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói:  
hỏi ở các em, hướng các em trở thành những  
con người năng động, sáng tạo, hoàn thiện  
trong xã hội mới.  
Qua khảo sát, chúng tôi thấy không nhiều tài  
liệu nghiên cứu về việc rèn luyện NTLN cho  
học sinh tiểu học. Phan Phương Dung trong  
bài viết “Về vấn đề dạy lời nói văn hoá trong  
giao tiếp ngôn ngữ cho học sinh qua môn  
Tiếng Việt” [2] đã bàn về một số mẫu bài tập  
dạy lời nói văn hoá cho học sinh tiểu học và  
học sinh trung học cơ sở. Cũng tác giả này,  
trong bài viết “Các phương tiện từ ngữ biểu  
đạt tính lễ phép trong giao tiếp và khả năng  
ứng dụng trong dạy học tiếng Việt ở tiểu  
học”[3] đã đề cập một cách cụ thể các  
phương tiện từ ngữ biểu đạt tính lễ phép trong  
giao tiếp và việc ứng dụng từ ngữ biểu đạt  
tính lễ phép trong dạy học tiếng Việt ở tiểu  
học. Nguyễn Thị Thu Hương trong “Dạy học  
NTLN cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập  
làm văn”[5] mới chỉ đề cập đến nội dung và  
phương pháp dạy học NTLN cho học sinh lớp  
2 và trong một phân môn Tập làm văn;  
Nguyễn Trí với “Một số vấn đề về dạy hội  
thoại cho học sinh tiểu học” [10] đã giới thiệu  
các kiểu bài tập dạy học NTLN trong bộ sách  
giáo khoa Tiếng Việt tiểu học, Trần Thị Hiền  
Lương trong công trình “Một số biện pháp  
nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học  
sinh tiểu học ở môn Tiếng Việt”[7] đã xác  
định được các biện pháp dạy học rèn kĩ năng  
nói cho học sinh xuất phát từ đặc điểm lứa  
tuổi học sinh tiểu học… Có thể nói, nghiên  
cứu về NTLN nói chung và NTLN cho học  
sinh tiểu học nói riêng đã và đang được các  
nhà giáo dục trên thế giới và trong nước quan  
tâm ở những bình diện khác nhau: tầm quan  
trọng của việc dạy học NTLN, các tiêu chí  
xây dựng NTLN và cách tiếp cận, phân loại  
và miêu tả NTLN tiếng Việt, một số biện  
pháp nâng cao chất lượng dạy học  
NTLN…Tuy nhiên, để giải quyết toàn diện  
vấn đề dạy học NTLN cho học sinh ở bậc tiểu  
học nhằm thực hiện tốt yêu cầu nguyên tắc  
giao tiếp trong dạy học tiếng Việt gắn với  
chương trình và sách giáo khoa mới hiện nay  
thì vẫn chưa có công trình hay một chuyên  
luận nào có tính hệ thống.  
“ Tiếng Việt ta giàu và đẹp. Nó sẽ giàu và đẹp  
hơn nữa nếu chúng ta biết giữ nó, dùng nó và  
phát triển nó…Giữ gìn nó và phát triển nó như  
thế nào? Đây là vấn đề cần suy nghĩ”. [4, 93]  
Thực vậy, công việc này không đơn thuần là  
nhiệm vụ của ngành ngôn ngữ học mà là công  
việc của toàn dân. Làm tốt việc kế thừa và  
cách tân NTLN của dân tộc phải đặt trên  
phạm vi toàn xã hội, nhưng quan trọng và  
nòng cốt nhất là nhà trường phổ thông, đặc  
biệt là nhà trường tiểu học - nơi đặt những  
“viên gạch” nền móng cho hệ thống giáo dục  
phổ thông và quan trọng hơn là sự hình thành  
và phát triển nhân cách con người sau này.  
“Thế hệ trẻ phải nói và viết tốt hơn chúng ta”  
và nhiệm vụ của nhà trường là “phải làm sao  
cho học sinh dần dần có ý thức, có trình độ rồi  
đi đến có thói quen viết và nói đúng tiếng  
Việt” [4, 93]. Muốn thực hiện được lời dạy đó,  
trường tiểu học cần phải có cách thức tổ chức,  
phương pháp dạy học hợp lý và tích cực nhằm  
nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng Việt,  
giúp học sinh sử dụng thành thạo tiếng Việt.  
Dạy học NTLN là một nội dung mới của  
chương trình tiếng Việt tiểu học. Lần đầu  
tiên, chương trình môn Tiếng Việt năm 2001  
và năm 2006 đưa NTLN thành một nội dung  
học tập. Các NTLN trong chương trình hầu  
hết là các nghi thức được sử dụng trong giao  
tiếp hàng ngày, gần gũi, phù hợp với nhu cầu  
nói năng của học sinh. Việc đưa thêm nội  
dung dạy học này vào sẽ giúp học sinh biết  
cách giao tiếp ứng xử trong nhiều tình huống  
của cuộc sống và giúp các em phát triển được  
tất cả các dạng lời nói mà cuộc sống đang đòi  
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
5
Đặng Thị Lệ Tâm  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
73(11): 3 - 8  
đẹp. Các em cần có ý thức về những điều  
“nên” và “không nên”, “tốt” và “không tốt”  
trên bình diện sử dụng ngôn ngữ. Đồng thời,  
khi đến trường, các em cũng bắt đầu tham gia  
vào một môi trường giao tiếp mới có tính chất  
xã hội - giao tiếp trong lớp học - với những  
đòi hỏi riêng khác với môi trường giao tiếp  
của gia đình mà các em đã quen thuộc.  
Khả năng ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp  
của mỗi người phụ thuộc rất nhiều vào sự  
hiểu biết xã hội. Với đối tượng học sinh, việc  
học tập, tích luỹ vốn sống, vốn hiểu biết về  
văn hoá giao tiếp và cách thể hiện các thái độ  
ứng xử đó bằng phương tiện ngôn ngữ tương  
ứng chủ yếu diễn ra ở môi trường gia đình,  
nhà trường và xã hội. Trong đó, giáo dục nhà  
trường, mà cơ bản là môn Tiếng Việt giữ một  
vai trò đáng kể.  
Sản phẩm lời nói của các em được hình thành  
trong quá trình giao tiếp. Các em đã học được  
những câu nói đúng dựa vào việc ghi nhớ một  
cách có ý thức những lời nói diễn ra xung  
quanh của ông bà, bố mẹ, anh chị…Các em  
nắm quy tắc ấy một cách cụ thể, trực giác  
bằng những lời nói cụ thể trong những tình  
huống riêng biệt. Cách học như vậy thường  
chỉ là học gì biết đấy, nhớ gì nói đấy, cách  
diễn đạt, nói năng phần lớn là cứng nhắc, dập  
khuôn, không linh hoạt, sinh động. Các em  
chỉ có khả năng nói lại được lời người khác  
mà không thể sáng tạo ra cách nói mới, cách  
nói khác của riêng mình. Ở đây, việc nắm các  
NTLN chỉ là việc nắm cách nói đúng một số  
câu cụ thể, lời nói cụ thể gắn liền với những  
tình huống giao tiếp nhất định. Thoát khỏi  
tình huống giao tiếp, dường như các em khó  
có thể tạo ra lời nói đúng, hay. Với cách học  
ấy, việc hình thành kỹ năng tạo lời nói đúng  
NTLN thường mất nhiều thời gian, công sức  
mà hiệu quả lại thấp.  
Ở trường Tiểu học, qua các giờ tp đọc, giờ  
kể chuyện, học sinh được tiếp xúc với nhiều  
mẫu lời nói thể hiện sự ứng xử mang màu sắc  
văn hoá của cộng đồng người Việt. Với  
những mẫu lời nói này, nếu người dạy chú ý  
khai thác sẽ có tác dụng rất lớn đến việc dạy  
sử dụng NTLN trong giao tiếp cho học sinh.  
Cách ứng xử giao tiếp có văn hoá học sinh  
được tiếp xúc hàng ngày qua các mẫu lời nói  
trong các bài tập đọc, kể chuyện cứ thấm vào  
đứa trẻ một cách tự nhiên và khi cần, các em  
sẽ học tập theo mẫu. Để học sinh có năng lực  
sử dụng tiếng Việt như một công cụ để học  
tập và giao tiếp, cùng với nội dung dạy các  
kiến thức về tiếng Việt, cần chú ý hơn nữa  
đến việc hướng dẫn cho học sinh những “quy  
tắc xã hội”, những chuẩn mực của xã hội khi  
sử dụng ngôn ngữ. Khi đến trường, học sinh  
lần đầu biết đến “chuẩn ngôn ngữ” không  
phải ở dạng thuật ngữ mà các em cần có ý  
thức rằng không phải ai muốn nói thế nào  
cũng được mà phải phân biệt cái gì là“có  
thể”, cái gì là “không thể” khi sử dụng ngôn  
ngữ. Các em cần ý thức được rằng mọi người  
trong xã hội đã thoả thuận, quy ước nói thế  
này thì được (hợp chuẩn) mà nói thế khác thì  
không được (không hợp chuẩn) dẫu cho điều  
đó là hợp logic. Ví dụ có thể nói áo cộc tay  
mà không thể nói áo cộc cổ, có thể nói què  
chân mà không thể nói què mắt, có thể nói  
mặc áo mà không thể nói mặc tất (dẫn theo  
[8,39] )…Đồng thời với ý thức về chuẩn mực  
ngôn ngữ, học sinh cần phải được giáo dục về  
“chuẩn văn hoá” của lời nói. Các em không  
những cần biết cái gì là có thể, không thể khi  
nói năng mà cần hiểu rằng có những lời hay ý  
đẹp và có những lời nói không hay, không  
Dạy học NTLN cho học sinh tiểu học không  
phải là dạy “kỹ thuật” ngôn ngữ trong hoạt  
động giao tiếp mà là dạy “kỹ thuật” giao tiếp  
bằng ngôn ngữ. Vì vậy, để thúc đẩy việc hình  
thành kỹ năng kỹ xảo trong giao tiếp nói  
chung và sử dụng NTLN nói riêng ở các em  
một cách mau chóng, thuận lợi và lâu bền  
phải giúp học sinh thông hiểu các quy tắc  
ngôn ngữ bằng việc cho các em tiếp cận với  
các tình huống và xử lý các tình huống đó.  
Kết quả của việc tham gia xử lý tình huống sẽ  
được phản ánh vào quá trình tư duy của các  
em. Nhờ có cảm giác, tri giác, các tình huống  
của thực tế khách quan sẽ được lưu giữ trong  
trí nhớ của các em và sẽ giúp các em dần dần  
hình thành những khái niệm mới, từ ngữ mới  
có tính chất chuẩn mực, văn hoá. Chính vì  
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
6
Đặng Thị Lệ Tâm  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
73(11): 3 - 8  
thế, ở các lớp tiểu học, việc hướng dẫn cho  
học sinh quan sát, xử lý, tích luỹ những sự  
vật, sự việc của các tình huống giao tiếp là  
một việc làm quan trọng.Để củng cố những  
biểu tượng có được ở các em thật đậm nét,  
giáo viên cần chú ý lặp đi lặp lại các tình  
huống giao tiếp (thật và giả định) để thông  
qua việc lặp đi lặp lại ấy, các NTLN được lưu  
giữ một cách tự nhiên và bền vững.  
nhau thể hiện văn hoá ứng xử của người Việt.  
Giới thiệu bản thân với những bạn bè cùng  
lứa tuổi khi mới gặp nhau lần đầu sẽ khác với  
việc giới thiệu bản thân với khách của bố mẹ.  
Sự khác nhau này không chỉ ở lời xưng hô, ở  
ngữ điệu nói mà ở trong thông tin, ở ngôn  
ngữ sử dụng, ở phong cách lời nói và còn thể  
hin qua thái độ.  
Không phải ngẫu nhiên từ xa xưa cha ông ta  
đã quan niệm “Tiên học lễ, hậu học văn”.  
Ngày nay, con người hiện đại cần có nhiều  
phẩm chất để đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện  
đại như tự tin, có cá tính, năng động, sáng  
tạo…Nhưng không phải vì thế mà ta xem nhẹ  
việc giáo dục nhân cách cho học sinh. Thái độ  
lễ phép, giao tiếp, ứng xử bằng lời nói lễ phép  
là những yêu cầu không thể thiếu đối với  
nhân cách của đứa trẻ. Sự lễ phép trong giao  
tiếp là thể hiện đạo đức, quan điểm của trẻ với  
con người, với cuộc sống. Sự lễ phép được  
hình thành từ nhiều con đường khác nhau.  
Một trong những con đường ấy là ngôn ngữ.  
Vì “ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư  
tưởng” (Các Mác). Ngôn ngữ cũng góp phần  
hình thành, củng cố những nhận thức, quan  
điểm của con người. Hơn nữa, theo lý thuyết  
hành động thì nhận thức của con người được  
hình thành qua hành động, nó tác động tới  
tình cảm, nhận thức của con người. Do đó,  
cần phải nhận thức được tầm quan trọng của  
việc sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt NTLN  
trong khẩu ngữ, trong giao tiếp. Việc sử dụng  
đúng NTLN, kèm theo là phép lịch sự trong  
từng tình huống phải trở thành bài học vỡ  
lòng của mọi người.  
Bởi lẽ đó, chương trình Tiếng Việt đã đưa ra  
rất nhiều bài tập phát triển lời nói trong đó có  
các bài tập luyện NTLN cho học sinh với  
nhiều hình thức khác nhau, rất gần gũi với đời  
sống của học sinh.Những bài tập này đều có  
nội dung rất cần thiết và rất thông dụng, hay  
gặp trong cuộc sống hàng ngày của các em.  
Chúng sẽ là những gợi ý để định hướng  
nguồn ngữ liệu cho học sinh trong quá trình  
giao tiếp.  
Ví d1: Tập nói lời chào.  
- Của bé với mẹ trước khi bé vào lớp,  
- Của bé với cô trước khi bé ra về.  
(Tiếng Việt 1, tập 2, tr 74)  
Ví dụ 2: Nói lời cảm ơn của em trong những  
trường hợp sau:  
a. Bạn cùng lớp cho em đi chung áo mưa.  
b. Cô giáo cho em mượn quyển sách.  
c. Em bé nhặt hộ em chiếc bút rơi.  
(Tiếng Việt 2, tập 1, tr 38)  
Ví dụ 3 : Tự giới thiệu về em với mẹ của bạn  
em, khi em đến nhà bạn em lần đầu. Tự giới  
thiệu về em với bác hàng xóm, khi bố bảo em  
sang mượn bác cái kìm. Tự giới thiệu về em  
với cô Hiệu trưởng, khi em đến phòng cô  
mượn lọ hoa cho lớp  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
(Tiếng Việt 2, tập 1, tr 147)  
[1]. Đỗ Hữu Châu (2003) Đại cương ngôn  
ngữ học, Tập 2, Nxb Giáo dục,Hà Nội.  
[2]. Phan Phương Dung(2001) “Về vấn đề  
dạy lời nói văn hoá trong giao tiếp ngôn ngữ  
cho học sinh qua môn Tiếng Việt”, Tạp chí  
Nghiên cứu Giáo dục  
Sự phong phú về nguồn ngữ liệu trong các  
bài tập này không chỉ giúp học sinh thông  
thạo các kĩ năng mà còn giúp các em có thể  
bắt đầu bước vào cuộc sống. Ví dụ, dạy học  
sinh lớp 1, lớp 2 biết giới thiệu đơn giản về  
bản thân, gia đình, trường học, bạn bè, thầy  
cô giáo theo mục đích nhất định chính là dạy  
học sinh nói về các hoàn cảnh giao tiếp khác  
[3]. Phan Phương Dung(2002) Các phương  
tịên từ ngữ biểu đạt tính lễ phép trong giao tiếp  
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
7
Đặng Thị Lệ Tâm  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
73(11): 3 - 8  
và khả năng ứng dụng trong dạy học tiếng Việt  
ở tiểu học,Tạp chí Ngôn ngữ, số 16.  
[1]. Lê Phương Nga (2009)(chủ biên), Lê A,  
Đặng Kim Nga, Đỗ Xuân Thảo, Phương pháp  
dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, Nxb Đại học  
Sư phạm, Hà Nội.  
[4]. Phạm Văn Đồng, “Giữ gìn sự trong sáng  
tiếng Việt”, Tạp chí Văn học, số 3, 1966.  
[5]. Nguyễn Thị Thu Hương, Dạy học nghi  
thức lời nói cho học sinh lớp 2 qua phân môn  
Tập làm văn, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành  
GDH, ĐHSPHN,2005.  
[2]. Hoàng Trọng Phiến (1981) Đặc trưng  
ngôn ngữ nói tiếng Việt, Tập san ĐHNN  
Tokyo, Tokyo.  
[6]. Hồ Lê (1996), Quy luật ngôn ngữ- Tính  
quy luật của cơ chế ngôn ngữ, Nxb Khoa học  
Xã hội,Hà Nội.  
[7]. Trần Thị Hiền Lương (2009), Một số biện  
pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho  
học sinh tiểu học ở môn Tiếng Việt, Đề tài  
NCKH - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.  
[3]. Nguyễn Trí (2007), Một số vấn đề dạy hội  
thoại cho học sinh tiểu học, NXB Giáo dục.  
[4]. Nguyễn Như Ý (1996), Từ điển giải  
thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo  
dục, Hà Nội.  
SUMMARY  
IN RITUAL SPEECH COMMUNICATION AND SPEECH TRAINING PROTOCOLS FOR  
PRIMARY STUDENTS  
Dang Thi Le Tam  
College of Education - Thainguyen University  
Ritual speech is a term that appears in recent times, when language learning turns a speech research.  
Ceremonial speech voice is used for ritual behavior. Thus it needs to be aware of the importance of the use of  
ritual in the word of words, in communication to serve the establishment, maintenance and development of  
social relationships.Teaching the rituals of speech is a new part in teaching Vietnamese at primary school.  
The implementation of this program will help pupils to communicate and be have well in their real life and  
develop all the forms of their speech that they need, orienting them to become active, creative, and perfect in  
their new socity.  
Key words: ritual speech, communication, Vietnamese, primary, situation  
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
8
Đặng Thị Lệ Tâm  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
73(11): 3 - 8  
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
9
pdf 7 trang yennguyen 06/04/2022 4480
Bạn đang xem tài liệu ""Nghi thức lời nói'' trong hoạt động giao tiếp và rèn luyện "nghi thức lời nói" cho học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghi_thuc_loi_noi_trong_hoat_dong_giao_tiep_va_ren_luyen_ngh.pdf