Mối liên quan giữa trầm cảm và thừa cân/béo phì ở trẻ vị thành niên: Phân tích gộp và đề xuất các can thiệp

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
MỐI LIÊN QUAN GIỮA TRẦM CẢM VÀ THỪA CÂN/BÉO PHÌ  
Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN: PHÂN TÍCH GỘP  
VÀ ĐỀ XUẤT CÁC CAN THIỆP  
Đặng Kim Anh, Phan Thị Bích Hạnh, Nguyễn Quang Dũng  
Nguyễn Thị Thu Liễu, Nguyễn Thị Hương Lan  
Viện Đào tạo YHDP &YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội  
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá mối liên quan giữa trầm cảm và thừa cân/béo phì ở trẻ vị thành  
niên. Các nghiên cứu so sánh tỷ lệ chẩn đoán trầm cảm và các triệu chứng trầm cảm ở trẻ vị thành niên  
thừa cân/béo phì được tìm kiếm một cách có hệ thống trên 4 cơ sở dữ liệu bao gồm PubMed, PsycInfo,  
EMBASE và Cochrane. Đánh giá nguy cơ sai số của nghiên cứu được thực hiện bằng thang đo Newcastle  
Ottawa Quality Assessment. Phần mềm Revman 5.3 được sử dụng để phân tích tỷ suất chênh gộp (Pool  
odd ratio) và giá trị trung bình tiêu chuẩn (Standard Mean Difference-SMD). 66177 đối tượng nghiên cứu  
đã được tổng hợp thông qua 20 nghiên cứu được đưa vào phân tích gộp. Kết quả cho thấy mối liên quan  
thuận chiều giữa chẩn đoán trầm cảm và cả béo phì và thừa cân ở trẻ vị thành niên (OR = 1,23 (95%CI:  
1,12 - 1,34) và OR = 1,14 (95%CI: 1,05 - 1,23) tương ứng). Sự gia tăng các triệu chứng trầm cảm cũng  
có mối liên quan thuận chiều ở trẻ béo phì và thừa cân (SMD = 0,12 (95%CI: 0,06 - 0,19) và SMD = 0,08  
(95%CI: 0,02 - 0,13) tương ứng). Sàng lọc các vấn đề sức khoẻ tâm thần ở trẻ thừa cân/béo phì là cần thiết.  
Từ khóa: Thừa cân, béo phì, trầm cảm, trẻ em  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Thừa cân và béo phì ở trẻ em là một trong  
những vấn đề sức khoẻ được quan tâm hàng  
đầu, ở cả các quốc gia đã và đang phát triển,  
tạo ra gánh nặng bệnh tật lớn về kinh tế xã hội  
và sức khoẻ dân số.1,2 Trong năm 2015, ước  
tính có khoảng 4,0 triệu ca tử vong và 120  
triệu DALYs (Disability Adjusted Life Years) là  
do thừa cân/béo phì trên toàn cầu³ Béo phì ở  
trẻ em là một mối quan tâm đặc biệt do các  
hậu quả liên quan đến tình trạng sức khỏe và  
nhu cầu chăm sóc sức khỏe. Trẻ thừa cân có  
nhiều khả năng bị béo phì ở độ tuổi lớn hơn,4,5  
chất lượng cuộc sống giảm sút, gia tăng chi phí  
trong chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là việc phát  
triển các bệnh mãn tính và giảm tuổi thọ.6,7  
Bên cạnh những hậu quả về sức khoẻ thể  
chất, các nghiên cứu trước đây đã ghi nhận mối  
liên quan của bệnh béo phì ở trẻ em và các rối  
loạn về sức khoẻ tâm thần như không hài lòng  
về hình ảnh cơ thể, đặt giá trị bản thân thấp,  
hoặc sự phát triển các bệnh lý như trầm cảm,  
lo âu.5,8 Tuy nhiên, bản chất và định hướng của  
mối liên hệ này vẫn chưa được giải thích rõ  
ràng. Có một số giả thuyết giải thích rằng béo  
phì có thể khiến trẻ em bị trầm cảm vì kỳ thị cân  
nặng,⁹ lòng tự trọng kém10 và / hoặc suy giảm  
chức năng (giảm khả năng vận động và khả  
năng tham gia vào các hoạt động). Bên cạnh  
đó, trầm cảm có thể làm tăng khả năng béo phì  
trực tiếp thông qua sự xuất hiện của các triệu  
Tác giả liên hệ: Đặng Kim Anh, Viện Đào tạo YHDP  
& YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội  
Email: kimdanghmu@gmail.com  
Ngày nhận: 07/02/2020  
Ngày được chấp nhận: 28/03/2020  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
294  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
chứng trầm cảm (tăng cảm giác ngon miệng,  
ngủ kém,11 thờ ơ dẫn đến giảm chi tiêu calo),  
tác dụng phụ của thuốc chống trầm cảm12 hoặc  
cố gắng tự điều trị trầm cảm với thực phẩm  
không lành mạnh.  
Nghiên cứu sẽ bị loại trừ nếu không xác định  
thừa cân/béo phì dựa trên BMI; nghiên cứu  
thực hiện một đối tượng bệnh nhân xác định  
hoặc trên giới nam/nữ.  
2. Phương pháp  
Hiểu được nguy cơ trầm cảm ở trẻ em thừa  
cân/béo phì là cần thiết bởi vì nó có thể giúp  
các bác sĩ xác định được trẻ em có nguy cơ  
cao mắc trầm cảm và cung cấp bằng chứng  
cho các nhà hoạch định chính sách phát triển  
các chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần  
tập trung vào trẻ em thừa cân/béo phì. Nghiên  
cứu này sẽ tập trung vào đối tượng trẻ vị thành  
niên vì đây là giai đoạn phát triển quan trọng,  
khi trẻ bắt đầu trở thành cá nhân, hình thành  
các mối quan hệ mới, phát triển các kỹ năng  
xã hội và các hành vi kéo dài suốt cuộc đời.13  
Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là sử dụng  
tổng quan hệ thống và phân tích gộp để ước  
tính nguy cơ trầm cảm (Chẩn đoán trầm cảm  
và các triệu chứng trầm cảm) và mức độ liên  
quan giữa trầm cảm và thừa cân/béo phì ở trẻ  
vị thành niên.  
Phương pháp tìm kiếm: Các cơ sở dữ liệu  
được sử dụng để tìm kiếm tài liệu bao gồm  
PubMed / Medline, PsycINFO, Embase và  
Cochrane. Các thuật ngữ tìm kiếm sẽ dựa trên  
tiêu chuẩn lựa chọn và kết hợp với nhau sử  
dụng toán tử Boolean. Chiến lược tìm kiếm  
được tùy chỉnh cho từng cơ sở dữ liệu bởi các  
chuyên gia và nhà nghiên cứu có kinh nghiệm.  
Trích xuất và quản lý dữ liệu: Kết quả tìm  
kiếm sẽ được xuất sang EndNote X7 và loại bỏ  
trùng lặp. Hai nghiên cứu viên (NCV) sẽ tiến  
hành độc lập để lựa chọn các nghiên cứu phù  
hợp dựa trên: Bước 1) Lọc dựa trên tiêu đề và  
tóm tắt; Bước 2) các nghiên cứu đáp ứng tiêu  
chí lựa chọn sẽ tải xuống toàn văn và tiếp tục  
lọc dựa trên phương pháp và kết quả chính.  
Bảng thông tin các kết quả trích xuất dữ liệu  
được xây dựng dựa trên ý kiến của hai NCV. Hai  
NCV sẽ đánh giá độc lập và trích xuất dữ liệu  
các toàn văn được lựa chọn. Mô hình PRISMA  
(Preferred Reporting Items for Systematic  
Reviews and Meta-Analyses) được sử dụng để  
mô tả quy trình tìm kiếm và sàng lọc.  
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  
1. Đối tượng  
Các tiêu chuẩn lựa chọn và chiến lược tìm  
kiếm của nghiên cứu được xác định theo cấu  
trúc câu hỏi PIO-S.  
Đánh giá nguy cơ mắc sai số trong các  
nghiên cứu lựa chọn: Nguy cơ sai số của  
mỗi nghiên cứu được đánh giá bằng thang  
đo Newcastle-Ottawa theo khuyến nghị của  
Cochrane14,15 dựa trên 3 yếu tố lựa chọn, so  
sánh và đầu ra kết quả. Mỗi yếu tố sai số được  
đánh giá theo 3 cấp độ là chất lượng tốt, trung  
bình và yếu.  
- Đối tượng (P): Đối tượng tham gia là trẻ  
vị thành niên từ 10 đến 19 tuổi theo định nghĩa  
của Tổ chức Y tế Thế giới.  
- Chỉ số (I): Sự có mặt của béo phì hoặc  
thừa cân trong độ tuổi này (xác định thông qua  
chỉ số khối cơ thể).  
- Đầu ra (O): Bất kỳ triệu chứng trầm cảm  
hoặc trầm cảm (lâm sàng/thang đo).  
3. Xử lý số liệu  
- Thiết kế nghiên cứu (S): Các nghiên cứu  
quan sát.  
Phân tích gộp được thực hiện bằng phần  
mềm RevMan Ver. 5.3. Đối với mỗi nghiên cứu,  
tỷ suất chênh (OR) và khoảng tin cậy (95%CI)  
được sử dụng để đánh giá mối liên quan giữa  
- Các nghiên cứu được công bố trong vòng  
15 năm từ 2004 đến 2019.  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
295  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
trầm cảm và thừa cân/béo phì ở trẻ vị thành  
niên. Để tính toán OR gộp, chúng tôi sử dụng  
phương pháp Mantel-Haenszel fixed-effect.  
Thống kê I2 được sử dụng để đánh giá mức độ  
đồng nhất giữa các nghiên cứu (độ không đồng  
nhất thấp nếu I2 <25%, vừa nếu I2 từ 25% đến  
75% và cao nếu I2> 75%).16  
4. Đạo đức nghiên cứu  
Nghiên cứu đã được thông qua hội đồng  
đánh giá luận văn Thạc sĩ số 3819/QĐ-ĐHYHN.  
III. KẾT QUẢ  
Sơ đồ 1. Sơ đồ PRISMA về chiến lược tìm kiếm và sàng lọc nghiên cứu  
Sơ đồ PRISMA mô tả kết quả quy trình tìm  
gộp (66177 đối tượng nghiên cứu).  
kiếm và sàng lọc các nghiên cứu. Đầu tiên có  
Đối tượng nghiên cứu chính là trẻ vị thành  
7938 nghiên cứu được tìm kiếm thông qua các  
cơ sở dữ liệu. 6120 nghiên cứu bị loại do trùng  
lặp (1766), tiêu đề và tóm tắt không phù hợp  
(6180). 78 nghiên cứu toàn văn được đánh giá  
tiếp trong bước 2. Kết quả là có 27 nghiên cứu  
được lựa chọn để tổng quan hệ thống và có 20  
nghiên cứu đủ điều kiện để tiến hành phân tích  
niên là 10-17 tuổi (n = 58391). Hầu hết các  
nghiên cứu được thực hiện ở Hoa Kỳ (8 nghiên  
cứu), Trung Quốc và Đài Loan (6 nghiên cứu).  
Về thiết kế nghiên cứu, một nghiên cứu theo dõi  
trong 20 năm tiến hành trên 820 trẻ tại Hoa Kỳ  
để xác định liệu béo phì/thừa cân trong thanh  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
296  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
thiếu niên có dẫn đến bất kỳ kết quả bất lợi nào  
về sức khỏe tâm thần (trầm cảm, lo lắng). 3  
nghiên cứu bệnh chứng được thực hiện ở Iran,  
Ý, và Thổ Nhĩ Kỳ. 23 nghiên cứu sử dụng thiết  
kế cắt ngang đã được thực hiện để xác định  
mối liên quan giữa béo phì/thừa cân và các loại  
kết quả sức khỏe tâm thần khác nhau.  
cảm dựa trên thang đo được chuẩn hoá, tỷ lệ  
này dao động từ 16,9% đến 63,0%. Một nghiên  
cứu xác định trầm cảm dựa trên tiền sử lâm  
sàng có tỷ lệ trầm cảm thấp nhất, 4,0% ở nhóm  
béo phì và 4,0% nhóm thừa cân.  
Nhóm có đầu ra là triệu chứng trầm cảm  
gồm 11 nghiên cứu với tổng kích thước mẫu  
là 17891. Tất cả các nghiên cứu đều sử dụng  
các bộ công cụ chuẩn hoá để đánh giá các triệu  
chứng trầm cảm. Có 7 nghiên cứu sử dụng  
thang đo Child Depression Inventory (CDI) và  
điểm trung bình của các triệu chứng trầm cảm  
ở nhóm béo phì dao động từ 3,2 -13,9 và trong  
nhóm thừa cân dao động từ 2,8 - 13,6.  
Đối với nhóm có đầu ra là chẩn đoán trầm  
cảm, tất cả gồm 16 nghiên cứu với tổng mẫu  
là 113932. Kết quả từ ba nghiên cứu xác định  
trầm cảm bằng phỏng vấn lâm sàng cho thấy tỷ  
lệ trẻ béo phì bị trầm cảm dao động từ 7% đến  
12,5% và trẻ béo phì nữ có tỷ lệ cao hơn so với  
trẻ em nam. Trong 12 nghiên cứu xác định trầm  
Biểu đồ 1. Sơ đồ về nguy cơ sai số dựa trên đánh giá của nghiên cứu viên sử dụng  
thang đo Newcastle - Ottawa Quality Assessment  
Đánh giá nguy cơ mắc sai số của các nghiên  
cứu được 2 NCV đánh giá độc lập (Biểu đồ 1).  
Nhìn chung, 48,1% (n = 13) các nghiên cứu  
được đánh giá là có chất lượng tốt (nguy cơ  
sai lệch thấp), 44,4% (n = 12) được đánh giá là  
có chất lượng trung bình và hai nghiên cứu có  
chất lượng thấp (7,5%).  
và béo phì ở trẻ vị thành niên. OR gộp là 1,23  
(95%CI: 1,12 - 1,34). Điều này chỉ ra rằng  
những trẻ béo phì có nguy cơ mắc trầm cảm  
cao gấp 1,23 lần so với những trẻ không béo  
phì. Sự phân tán ở mức trung bình 34% nhưng  
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,14). Kết quả  
OR gộp về nguy cơ mắc trầm cảm ở trẻ béo phì  
nam và nữ là 1,14 và 1,23 tuy nhiên không có ý  
nghĩa thống kê.  
Biểu đồ 2 cho thấy kết quả của 10 nghiên  
cứu đo lường mối liên quan giữa trầm cảm  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
297  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Biểu đồ 2. Sơ đồ cây so sánh tỷ suất chênh về chẩn đoán trầm cảm ở nhóm béo phì  
và nhóm không béo phì  
Biểu đồ 3. Sơ đồ cây so sánh tỷ suất chênh về chẩn đoán trầm cảm ở nhóm thừa cân  
và nhóm không thừa cân  
Biểu đồ 3 cho thấy kết quả của 8 nghiên  
cứu đo lường mối liên quan giữa trầm cảm và  
thừa cân ở trẻ vị thành niên. OR gộp là 1,14  
(95%CI: 1,05 - 1,23). Những trẻ thừa cân có  
nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 1,14 lần so với  
những trẻ không thừa cân. Sự phân tán ở mức  
trung bình 61%. Kết quả OR gộp về nguy cơ  
mắc trầm cảm ở trẻ thừa nữ là 1,27 (95%CI:  
1,08 - 1,51) và có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên  
không có ý nghĩa thống kê ở trẻ thừa cân nam  
giới 1,13 (95%CI: 0,89 - 1,45)  
Biểu đồ 4 so sánh khác biệt trung bình về  
triệu chứng trầm cảm ở nhóm béo phì và không  
béo phì. Có 8 nghiên cứu đánh giá mức độ triệu  
chứng trầm cảm ở trẻ béo phì và không béo  
phì. Sự khác biệt trung bình tiêu chuẩn (SMD)  
là 0,12 (95%CI: 0,06 - 0,19). Sự phân tán của  
so sánh này rất thấp ở mức 0% (p = 0,44). Do  
đó những trẻ béo phì có các triệu chứng trầm  
cảm nhiều hơn so với trẻ không béo phì.  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
298  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Biểu đồ 4. Sơ đồ cây so sánh khác biệt trung bình về triệu chứng trầm cảm ở nhóm béo phì  
và không béo phì  
Biểu đồ 5. Sơ đồ cây so sánh khác biệt trung bình về triệu chứng trầm cảm  
ở nhóm thừa cân và không thừa cân  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
299  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Biểu đồ 5 thể hiện so sánh khác biệt trung  
bình về triệu chứng trầm cảm ở nhóm thừa cân  
và không thừa cân. Có 7 nghiên cứu đánh giá  
mức độ triệu chứng trầm cảm ở trẻ thừa cân  
và không thừa cân. Sự khác biệt trung bình tiêu  
chuẩn (SMD) là 0,08 (95%CI: 0,02 - 0,13). Sự  
không đồng nhất của so sánh này là 29% (p =  
0,17). Do đó những trẻ thừa cân có các triệu  
chứng trầm cảm nhiều hơn so với trẻ không  
thừa cân. Kết quả về này ở nữ giới là có ý nghĩa  
thống kê với SMD = 0,13 (95%CI: 0,05 - 0,22).  
này phát hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa béo  
phì và trầm cảm, đặc biệt ở những thanh thiếu  
niên là nữ giới. Mặc dù những giải thích cho  
cơ chế này chưa rõ ràng, nhưng nhiều ý kiến  
rằng ngoại hình là yếu tố quan trọng nhất đối  
với thanh thiếu niên nữ,20 và mong muốn hàng  
đầu của trẻ thanh thiếu niên nữ là giảm cân và  
giữ dáng.21 Do đó, trẻ nữ có bất kỳ cân nặng  
nào đều có xu hướng không hài lòng cơ thể lớn  
hơn và đánh giá hình ảnh cơ thể của họ thấp  
hơn so với nam thanh thiếu niên.  
Những phát hiện của phân tích tổng hợp  
của chúng tôi có ý nghĩa lâm sàng quan trọng  
trong việc đề xuất các can thiệp trong tương  
lai. Các chương trình chăm sóc sức khoẻ nhằm  
giảm tỷ lệ béo phì/thừa cân ở trẻ em và thanh  
thiếu niên nên được ưu tiên, ví dụ như các biện  
pháp can thiệp giảm số giờ xem truyền hình,  
tăng thời lượng và cường độ tập thể dục hoặc  
giáo dục dinh dưỡng. Bên cạnh đó, vấn đề sức  
khoẻ tâm thần như trầm cảm có mối liên quan  
đến béo phì nên được chú trọng. Sàng lọc trầm  
cảm cũng có thể được thực hiện ở các nhóm  
có nguy cơ cao hơn, thực hiện với thang đánh  
giá trầm cảm hoặc với các cuộc phỏng vấn lâm  
sàng. Các bác sĩ lâm sàng cũng nên điều trị  
trầm cảm cho trẻ một cách thận trọng, vì một số  
thuốc chống trầm cảm thường được sử dụng  
trong nhóm tuổi có thể gây tăng cân. Thay vì  
sử dụng thuốc, liệu pháp hành vi nhận thức có  
thể được sử dụng để điều trị trầm cảm, lòng tự  
trọng thấp và sự không hài lòng về cơ thể ở trẻ  
vị thành niên.  
IV. BÀN LUẬN  
Trong phân tích gộp 20 nghiên cứu đươc  
lựa chọn, kết quả cho thấy mối liên quan đáng  
kể giữa chẩn đoán trầm cảm đến cả thừa cân  
và béo phì ở trẻ vị thành niên. Ngoài ra, sự gia  
tăng các triệu chứng trầm cảm cũng có liên  
quan chặt chẽ đến thừa cân và béo phì ở trẻ  
vị thành niên. Tuy nhiên, không có sự khác biệt  
về chẩn đoán trầm cảm và sự gia tăng các triệu  
chứng trầm cảm giữa trẻ thừa cân/béo phì nam  
và nữ.  
Kết quả nghiên cứu này cũng tương tự với  
kết quả của các tổng quan hệ thống và phân  
tích gộp trước đây đã chỉ ra mối quan hệ chặt  
chẽ giữa trầm cảm và béo phì ở thanh thiếu  
niên.17,18 Tuy nhiên kết quả khác với nghiên cứu  
trước đây được thực hiện trên đối tượng thừa  
cân/béo phì ở người trưởng thành khi béo phì  
chỉ làm tăng nguy cơ trầm cảm ở đối tượng  
người da trắng.19 Điều này có thể giải thích bởi  
những khác biệt về văn hóa và sắc tộc trong lối  
sống và các yếu tố di truyền có thể có tác động  
đến bệnh béo phì và trầm cảm giữa các nước  
phương Tây và không thuộc phương Tây.  
Nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy  
sự khác biệt về chẩn đoán trầm cảm và sự gia  
tăng các triệu chứng trầm cảm giữa trẻ thừa  
cân/béo phì nam và nữ, khác với nghiên cứu  
trước đây của Muhlig và cộng sự.19 Nghiên cứu  
Tuy nhiên, nghiên cứu này vẫn có một số  
hạn chế. Đầu tiên, mối liên quan giữa trầm cảm  
và thừa cân/béo phì trong nghiên cứu này chưa  
xét đến các yếu tố khác như sức khỏe và lối  
sống, sự quan tâm của gia đình. Những yếu  
tố này có thể thúc đẩy cả trầm cảm và béo phì  
ở trẻ em. Bên cạnh đó, đa số các nghiên cứu  
trong phân tích gộp này là mô tả cắt ngang, có  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
300  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
thể ảnh hưởng đến việc xác định mối quan hệ  
nhân quả. Cuối cùng, nghiên cứu này chỉ tập  
trung vào tìm hiểu mối liên quan giữa trầm cảm  
và thừa cân/béo phì ở trẻ vị thành niên, có thể  
bỏ lỡ nghiên cứu về các rối loạn tâm thần khác.  
of 78,612 18-year old Dutch men on 32-year  
mortality from all causes. J Clin Epidemiol.  
1988; 41(8): 749-756.  
7. Lifshitz F. Obesity in children. J Clin Res  
Pediatr Endocrinol. 2008; 1(2): 53-60.  
8. Showell NN, Fawole O, Segal J, et al. A  
systematic review of home-based childhood  
obesity prevention studies. Pediatrics. 2013;  
132(1): e193-200.  
V. KẾT LUẬN  
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp này  
đã cung cấp dữ liệu tổng hợp từ các nghiên  
cứu quan sát ở các quốc gia khác nhau và bổ  
sung các bằng chứng quan trọng về mối liên  
quan giữa trầm cảm và thừa cân/béo phì ở trẻ  
vị thành niên. Những trẻ béo phì có nguy cơ  
mắc trầm cảm cao gấp 1,23 lần so với những  
trẻ không béo phì và những trẻ thừa cân có  
nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 1,14 lần so với  
những trẻ không thừa cân. Các sàng lọc vấn đề  
sức khoẻ tâm thần ở nhóm đối tượng có nguy  
cơ cao là cần thiết để giảm những gánh nặng  
bệnh tật do thừa cân/béo phì gây ra ở trẻ em.  
9. Strauss RS. Childhood obesity and self-  
esteem. Pediatrics. 2000; 105(1): e15.  
10. Fox CK, Gross AC, Rudser KD, Foy AM,  
Kelly AS. Depression, Anxiety, and Severity of  
Obesity in Adolescents: Is Emotional Eating the  
Link? Clin Pediatr (Phila). 2016; 55(12): 1120-  
1125.  
11. Gangwisch JE, Malaspina D, Boden-  
Albala B, Heymsfield SB. Inadequate sleep as a  
risk factor for obesity: analyses of the NHANES  
I. Sleep. 2005; 28(10): 1289-1296.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
12. Fava M, Judge R, Hoog SL, Nilsson  
M
E, Koke SC. Fluoxetine versus sertraline  
1. Bhurosy T, Jeewon R. Overweight and  
obesity epidemic in developing countries:  
a problem with diet, physical activity, or  
socioeconomic status? The Scientific World  
Journal. 2014; 2014: 964236.  
and paroxetine in major depressive disorder:  
changes in weight with long-term treatment.  
The Journal of clinical psychiatry. 2000; 61(11):  
863-867.  
13. World Health Organization. Maternal,  
newborn, child and adolescent health. 2018.  
14. Harrison JK, Reid J, Quinn TJ, Shenkin  
SD. Using quality assessment tools to critically  
appraise ageing research: a guide for clinicians.  
Age Ageing. 2017; 46(3): 359-365.  
2. Caballero B. The global epidemic of  
obesity: an overview. Epidemiol Rev. 2007; 29:  
1-5.  
3. Collaborators GBDO, Afshin A,  
Forouzanfar MH, et al. Health Effects of  
Overweight and Obesity in 195 Countries over  
25 Years. N Engl J Med. 2017; 377(1): 13-27.  
4. Power C, Lake JK, Cole TJ. Measurement  
and long-term health risks of child and  
adolescent fatness. Int J Obes Relat Metab  
Disord. 1997; 21(7): 507-526.  
15. Zeng X, Zhang Y, Kwong JS, et al.  
The methodological quality assessment tools  
for preclinical and clinical studies, systematic  
review and meta-analysis, and clinical practice  
guideline: a systematic review. J Evid Based  
Med. 2015; 8(1): 2-10.  
5. World Health Organization. Childhood  
overweight and obesity. 2016.  
16. Fletcher J. What is heterogeneity and is  
it important? BMJ. 2007; 334(7584): 94-96.  
17. Sanders RH, Han A, Baker JS, Cobley  
6. Hoffmans MD, Kromhout D, de Lezenne  
Coulander C. The impact of body mass index  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
301  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
S. Childhood obesity and its physical and  
depression: a meta-analysis. Obes Rev. 2017;  
18(7): 742-754.  
psychological co-morbidities:  
a
systematic  
review of Australian children and adolescents.  
European journal of pediatrics. 2015; 174(6):  
715-746.  
20. Anderson SE, Cohen P, Naumova EN,  
Jacques PF, Must A. Adolescent obesity and  
risk for subsequent major depressive disorder  
and anxiety disorder: Prospective evidence.  
Psychosomatic Medicine. 2007; 69(8): 740-  
747.  
18. Muhlig Y, Antel J, Focker M, Hebebrand  
J. Are bidirectional associations of obesity and  
depression already apparent in childhood and  
adolescence as based on high-quality studies?  
A systematic review. Obes Rev. 2016; 17(3):  
235-249.  
21. Tang J, Yu Y, Du Y, Ma Y, Zhu H, Liu  
Z. Association between actual weight status,  
perceived weight and depressive, anxious  
symptoms in Chinese adolescents: a cross-  
sectional study. BMC public health. 2010;  
10:594.  
19. Quek YH, Tam WWS, Zhang MWB,  
Ho RCM. Exploring the association between  
childhood and adolescent obesity and  
Summary  
THE RELATIONSHIP BETWEEN OVERWEIGHT/OBESITY AND  
DEPRESSION AMONG ADOLESCENTS: META ANALYSIS  
AND PROPOSED INTERVENTIONS  
Overweight/obesity has put serious consequences on both physical and psychological health in  
children. This meta-analysis aimed to evaluate the association between depression and overweight/  
obesity among adolescents. We systematically searched PubMed, PsycInfo, EMBASE and  
Cochrane to select the eligible studies which compared prevalence of depression and depressive  
symptoms in normal weight and overweight/obese adolescents. The risk of bias was assessed  
using the Newcastle Ottawa Quality Assessment scale. The RevMan 5.3 software was used to  
calculate pooled odd ratios (OR) and Standard Mean Difference (SMD). A total of 66177 subjects  
were aggregated through 20 studies included in the meta-analysis. The results showed a positive  
association between the diagnosis of depression and both obesity and overweight in adolescents  
(OR = 1.23 (95% CI: 1.12 - 1.34) and OR = 1.14 (95% CI: 1.05 - 1.23) respectively). The increase  
in depressive symptoms was also positively related to obese and overweight adolescents (SMD =  
0.12 (95% CI: 0.06 - 0.19) and SMD = 0.08 (95% CI: 0.02 - 0.13) respectively). Screening of high-  
risk subjects for mental health problems to reduce overweight / obesity in adolescents is necessary.  
Key words: obesity and overweight in adolescents, depression  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
302  
pdf 9 trang yennguyen 14/04/2022 1240
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên quan giữa trầm cảm và thừa cân/béo phì ở trẻ vị thành niên: Phân tích gộp và đề xuất các can thiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_quan_giua_tram_cam_va_thua_canbeo_phi_o_tre_vi_than.pdf