Kinh nghiệm và kết quả kiểm toán hoạt động dự án PPP tại một số quốc gia trên thế giới

KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI  
KINH NGHIEäM VAØ KEÁT QUAÛ  
KIEÅM TOAÙN HOAÏT ÑOäNG DÖÏ AÙN ppp  
TAÏI MOäT SOÁ QUOÁC GIA TREÂN THEÁ GIÔÙI  
TS. ĐặNG ANH TUấN*  
iểm toán hoạt động dự án đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP) có nhiều điểm khác  
biệt so với kiểm toán các chương trình, dự án đầu tư công truyền thống, chẳng hạn, các bên  
liên quan thuộc đối tượng kiểm toán luôn nhiều hơn hoặc luôn tồn tại mâu thuẫn về lợi ích  
K
giữa các bên. Mặt khác, các bên tham gia vào dự án PPP thường theo đuổi các mục tiêu và  
lợi ích khác nhau, ví dụ, nhà đầu tư có trách nhiệm cung cấp hàng hóa và dịch vụ công tới công chúng tại  
mức giá, phí hợp lý nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình, bên cung cấp vốn (tín dụng) có thể muốn dự án  
tối đa hóa dòng tiền vào, nhà thầu xây dựng muốn tối thiểu hóa chi phí xây dựng, phía Nhà nước muốn  
thu hút được nguồn lực từ bên ngoài chi cho đầu tư phát triển để giảm bớt gánh nặng về ngân sách đồng  
thời nâng cao hiệu quả đầu tư. Vì vậy, mục tiêu chính của kiểm toán hoạt động dự án PPP là cung cấp  
mức độ đảm bảo hợp lý tới tất cả các bên liên quan về sự công bằng, chính trực, kinh tế, hiệu quả và hiệu  
lực trong các thỏa thuận hợp tác theo hình thức PPP và đảm bảo rằng các đơn vị thuộc khu vực tư tham  
gia dự án phải đóng góp nâng cao hiệu quả dự án (CAGI 2009).  
Bài báo nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở khảo sát kinh nghiệm và các kết quả kiểm toán hoạt động  
dự án PPP trên cơ sở đọc và phân tích các báo cáo kiểm toán được công khai và các hướng dẫn kiểm toán  
hoạt động các dự án PPP tại một số quốc gia trên thế giới.  
Kết quả nghiên cứu đã tổng kết được một số kinh nghiệm trong việc tổ chức thực hiện, lựa chọn thời  
điểm và phương pháp tiếp cận kiểm toán, đồng thời đúc kết được một số nguyên tắc cần thiết trong tiến  
hành kiểm toán hoạt động các dự án PPP.  
Từ khóa: Hiệu quả đầu tư, dự án PPP, kiểm toán hoạt động.  
e experience and results of PPP projects performance audits in a number of countries in the world  
e performance audit of PPP projects differs from the audit of traditional public investment programs  
and projects, for example, stakeholder groups. ere are always more conflicts or conflicts of interest  
between the parties. On the other hand, parties involved in PPP projects ofen pursue different objectives  
and benefits, for example, the investor is responsible for providing goods and public services to the public  
at reasonable rates and fees. In order to maximize its profit, the capital provider (credit) may want the  
project to maximize the cash flow, the construction contractor wants to minimize the construction costs,  
the government wants to attract the source. External resources for development investment to reduce the  
burden on the budget while improving investment efficiency. e main objective of PPP project audits is  
therefore to provide reasonable assurance to all stakeholders on fairness, integrity, economy, efficiency and  
effectiveness in the agreements. PPP co-operation and ensure that the private sector participating in the  
project contributes to improving the effectiveness of the project (CAGI 2009).  
e research paper is based on the experience survey and the results of the PPP activity audit, based on  
the reading and analysis of publicly available audit reports and auditing guidelines for project activities of  
PPP projects in several countries around the world.  
e results of the study have summarized some experience in organizing the implementation, selection of  
auditing timing and approach and concluding some principles needed in conducting performance auditing  
of PPP projects.  
keywords: Efficiency of investment, PPP project, performance audit.  
*Kiểm toán nhà nước Khu vực IV  
66 Số 121 - tháng 11/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
1. Giới thiệu  
quan dựa trên quan điểm của các bên tham gia và  
hầu hết trong các trường hợp nhằm đạt được mục  
tiêu chung của đối tác hơn là mục tiêu riêng lẻ của  
từng bên trong đối tác công - tư. Quan điểm cốt lõi  
này phải hình thành ý tưởng ngày trong giai đoạn  
lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán hoạt động PPP.  
Kiểm toán hoạt động là hoạt động kiểm tra, đánh  
giá độc lập mức độ hiệu lực và hiệu quả đối với các  
hoạt động của các đơn vị, chương trình, tổ chức  
có chú ý thỏa đáng đến tính tiết kiệm (INTOSAI  
2004). Đối với một dự án PPP cụ thể, mục tiêu căn  
bản nht trong kiểm toán là nhằm đưa ra ý kiến  
đánh giá khách quan, trung lập liệu nguồn lực công  
được quản lý và sử dụng có hiệu quả nhằm đạt được  
các mục tiêu định trước. Kiểm toán viên thông qua  
hoạt động kiểm toán, phải hỗ trợ được các cơ quan  
nhà nước đạt được trách nhiệm giải trình và tính  
đúng đắn cũng như cải thiện hiệu quả hoạt động  
và tạo sự tin tưởng giữa người dân và các bên liên  
quan đến dự án. Ngoài ra, theo CAGI (2009), cơ  
quan kiểm toán cần thực hiện vai trò hỗ trợ nhà  
nước trong việc giám sát, quản lý và dự báo việc  
đầu tư, vận hành và khai thác dự án PPP. Không  
như kiểm toán các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân  
sách nhà nước, kiểm toán tuân thủ hoc kiểm toán  
báo cáo tài chính dự án PPP sẽ bị hạn chế bởi vì  
trọng tâm kiểm toán các dự án PPP chính là hợp  
đồng đầu tư dự án, giá trị của tổng mức đầu tư, tính  
kinh tế và hiệu quả hoạt động của các đơn vị liên  
Mc dù không có khác biệt đáng kể giữa kiểm  
toán hoạt động dự án PPP với hình thức kiểm toán  
truyền thống, nhưng do đối tượng kiểm toán chính  
là hợp đồng đối tác được ký kết giữa các bên sau  
khi kết thúc giai đoạn lựa chọn nhà đầu tư trên cơ  
sở đu thầu cạnh tranh nên kiểm toán hoạt động  
dự án PPP trong trường hợp này sẽ không đt  
trọng tâm nhiều vào việc xác nhận tính đúng đắn  
hợp pháp của các số liệu như tổng vốn đầu tư, tổng  
mức đầu tư của dự án, giá trị quyết toán dự án hoàn  
thành, các nguồn thu, chi của dự án trong giai đoạn  
khai thác vận hành. Bởi vì, giá trị trúng thầu của  
nhà đầu tư trên cơ sở đu thầu cạnh tranh, minh  
bạch đã được xác định và cố định không thay đổi  
trong suốt quá trình đầu tư xây dựng dự án. eo  
đó, rủi ro và trọng tâm kiểm toán sẽ thay đổi tập  
trung nhiều hơn đến trách nhiệm theo dõi, kiểm  
tra và giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 121 - tháng 11/2017 67  
KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI  
quyền cùng với việc duy trì, đảm bảo việc thực hiện  
quyền hạn, trách nhiệm và phân bổ rủi ro tối ưu và  
hợp lý giữa các bên cũng như việc đạt được mục  
tiêu của dự án PPP.  
thức đầu tư PPP so với hình thức đầu tư công truyền  
thống là gì và (iii) liệu có lựa chọn được nhà đầu  
tư có đủ năng lực, kinh nghiệm trên cơ sở đu thầu  
cạnh tranh và minh bạch. Kết quả kiểm toán sẽ được  
cung cp kịp thời và hữu ích cho Quốc hội trước khi  
chp thuận thông qua dự án để giảm thiểu cũng như  
tránh việc lựa chọn dự án đề xut từ các bộ, ngành,  
bang, địa phương mà gây xung đột và ảnh hưởng tới  
lợi ích chung của quốc gia cũng như giảm thiểu lãng  
phí trong hoạt động đầu tư (Bỉ, ấn Độ, Hungary,  
Canada). Một số SAI như ấn Độ, Úc, Anh cho rằng,  
kiểm toán tại giai đoạn lựa chọn nhà đầu tư, thương  
thảo và ký hợp đồng dự án cũng quan trọng không  
kém giai đoạn trước khi dự án được phê duyệt. eo  
quan điểm của các SAI này, hiệu quả dự án PPP đạt  
được phụ thuộc chính vào việc lựa chọn được nhà  
thầu có năng lực tốt, phù hợp thông qua hoạt động  
đu thầu cạnh tranh và minh bạch. Vì vậy, các SAI  
thường đánh giá tính hiệu quả của dự án PPP nếu  
việc lựa chọn nhà đầu tư tuân thủ đúng theo các  
chính sách, quy định và quy trình lựa chọn nhà đầu  
tư đạt được các nguyên tắc cạnh tranh, công bằng  
và minh bạch. Kết quả kiểm toán trong giai đoạn  
này sẽ có tác động thực cht và khả thi hơn nếu các  
phát hiện kiểm toán được chỉ ra trước khi các bên  
thỏa thuận, ký kết hợp đồng dự án PPP. Bởi vì trong  
nhiều trường hợp, hợp đồng dự án PPP là không thể  
thay đổi, điều chỉnh trong suốt thời gian thực hiện.  
Các giai đoạn thực hiện hợp đồng, xây dựng và vận  
hành dự án cũng được một số SAI lựa chọn kiểm  
toán hoạt động nhưng với số lượng ít hơn.  
2. kinh nghiệm kiểm toán hoạt động các dự  
án PPP tại một số quốc gia trên thế giới  
Qua tìm hiểu quy trình, hướng dẫn kiểm toán  
các dự án PPP của các quốc gia như ấn Độ, Úc,  
Anh, Hoa Kỳ và chọn mẫu phân tích một số báo  
cáo kiểm toán hoạt động các dự án PPP đã được  
phát hành tại các quốc gia này, có thể khái quát  
thành một số nguyên tắc chung sau:  
ứ nhất, hầu như không có khác biệt đáng kể  
giữa hình thức kiểm toán hoạt động các dự án PPP  
so với hình thức kiểm toán truyền thống dự án PPP  
(kết hợp cả kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo  
tài chính và kiểm toán hoạt động). Điểm chung của  
cả hai loại hình kiểm toán này là đều tập trung vào  
các khía cạnh tính kinh tế, hiệu quả và tính bền  
vững của dự án PPP. Mc dù một số quốc gia việc  
diễn giải tính bền vững hoc tính khả thi có một  
chút khác biệt.  
ứ hai, thời điểm lựa chọn kiểm toán hoạt động  
dự án PPP tùy thuộc vào khung chính sách quy định  
của từng quốc gia, thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ  
của Cơ quan Kiểm toán tối cao (SAI) cũng như các  
vn đề quy mô và rủi ro của dự án. Tuy nhiên, phần  
lớn các nước đều quy định hoc luôn dành cơ hội  
để thực hiện kiểm toán dự án PPP trong suốt vòng  
đời dự án. Ví dụ như ấn Độ chia dự án PPP thành 4  
giai đoạn, trong khi đó Anh chia thành 06 giai đoạn.  
ời điểm và tần sut lựa chọn kiểm toán hoạt động  
dự án PPP cao nht thường vào giai đoạn chuẩn  
bị đầu tư (trước khi dự án được phê duyệt) và giai  
đoạn lựa chọn các nhà đầu tư (Bỉ, ấn Độ, Hungary,  
Canada và Lithuania). Giai đoạn ký kết, thực hiện  
hợp đồng và giai đoạn vận hành, khai thác sử dụng  
cũng được lựa chọn kiểm toán hoạt động nhưng  
mức độ ít hơn. Sở dĩ kiểm toán hoạt động dự án PPP  
thường được thực hiện trước khi được phê duyệt  
hoc trong giai đoạn lựa chọn nhà đầu tư nhằm mục  
đích đánh giá liệu (i) dự án được đầu tư có thực sự  
cần thiết tương tự như các dự án đầu tư công truyền  
thống; (ii) giá trị lợi ích tăng thêm khi lựa chọn hình  
ứ ba, về phương pháp tiếp cận kiểm toán: Do  
thời gian vận hành dự án PPP thường kéo dài từ  
10-20 năm, do đó, các SAI có thể lựa chọn hình  
thức kiểm toán định kỳ hàng năm hoc theo từng  
giai đoạn tùy thuộc vào quy mô, các loại rủi ro phát  
sinh liên quan đến dự án hoc theo yêu cầu từ phía  
công chúng, Quốc hội hoc từ phía Chính phủ. Có  
hai cách tiếp cận chính khi tiến hành kiểm toán  
hoạt động dự án PPP.  
Một là, tiếp cận theo quy trình, cuộc kiểm toán  
hoạt động sẽ được thực hiện trên cơ sở kiểm tra,  
rà soát việc triển khai và thực hiện dự án của nhà  
đầu tư hoc doanh nghiệp dự án có đúng theo cam  
kết (công tác quản lý hợp đồng) liên quan đến các  
68 Số 121 - tháng 11/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
khía cạnh cht lượng, tiến độ, chi phí và giá trị đầu  
tư xây dựng của dự án. Qua kiểm toán, nếu nhận  
thy tồn tại, hạn chế trong việc quản lý và thực hiện  
hợp đồng dự án, kết quả kiểm toán sẽ chỉ ra những  
yếu kém, những nội dung và vn đề cần điều chỉnh  
hoc có những kiến nghị với các bên trong đối tác  
để có những thỏa thuận bổ sung phù hợp nhằm  
đảm bảo tính hiệu lực cũng như duy trì tính bền  
vững của dự án;  
nhà nước có thẩm quyền đánh giá hiệu quả về mt  
định lượng thông qua việc so sánh lợi ích tăng  
thêm giữa hai hình thức đầu tư (hình thức PPP và  
đầu tư công truyền thống) trước khi phê duyệt (Bỉ,  
ấn Độ, Hungary, Canada). Nguyên nhân chủ yếu  
do yêu cầu đảm bảo cân đối ngân sách, vì vậy, hình  
thức PPP hay tài trợ vốn từ khu vực tư trở thành  
điều kiện tiên quyết.  
ứ hai, mc dù tại một số quốc gia luôn có một  
cơ quan chuyên trách thực hiện đánh giá hiệu quả  
dự án PPP trên cơ sở một bộ tiêu chí phù hợp đã  
được phê chuẩn. Tuy nhiên, kết quả kiểm toán vẫn  
chỉ ra một số tồn tại, hạn chế tiềm tàng trong việc  
vận dụng phương pháp đánh giá, công thức tính  
toán cũng như sử dụng các thông số đầu vào và đầu  
ra với một số giả định còn tùy ý và thiếu cơ sở khoa  
học. Ví dụ, tỷ lệ chiết khu được sử dụng để quy đổi  
dòng tiền về thời điểm hiện tại (thời điểm so sánh)  
thường quá cao hoc quá thp. Các SAI cũng đã tổng  
kết rằng, nhà đầu tư thường ưa thích tỷ lệ chiết khu  
cao đối với dự án đầu tư theo hình thức PPP nhưng  
lại lựa chọn tỷ sut chiết khu thp đối với hình thức  
đầu tư công truyền thống và ngược lại. Chẳng hạn,  
trong Báo cáo kiểm toán việc giám sát dự án hiện  
đại hóa Trung tâm Chăm sóc sức khỏe của Đại học  
Montreal gửi tới Quốc hội đã kết luận:  
Hai là, cách tiếp cận dựa trên đo lường kết quả  
đầu ra của dự án. Hiện nay, các SAI thường không  
trực tiếp hoc tiến hành việc khảo sát, điều tra các  
nguồn thông số đầu vào và đầu ra của dự án PPP  
để so sánh kết quả đạt được của dự án với mục tiêu  
ban đầu. Bởi vì SAI không đủ nguồn lực, thời gian  
và kinh phí thực hiện nhiệm vụ này, trách nhiệm  
này thuộc về các cơ quan chuyên trách có thẩm  
quyền của Chính phủ. eo quy định tại một số  
quốc gia, ví dụ như Anh, Úc, ấn Độ, các dự án PPP  
phải được một cơ quan chuyên trách tổ chức theo  
dõi, đánh giá để chỉ ra những khác biệt, tác động  
tiêu cực để có ý kiến phản hồi kịp thời và phù hợp.  
Trong trường hợp này, nhiệm vụ của SAI chỉ tập  
trung kiểm tra tính tin cậy và hợp lý của các báo  
cáo đánh giá nhận được từ phía cơ quan chuyên  
trách. Việc xác nhận báo cáo này hoc thông qua  
chọn mẫu để khảo sát, để kiểm chứng kết quả đánh  
giá của các cơ quan chuyên trách nhằm tăng cường  
trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà  
nước đối với dự án PPP. Khi đó, mục đích mang lại  
từ cuộc kiểm toán hoạt động thường nghiêng về  
hướng nâng cao trách nhiệm giải trình nhiều hơn  
là giúp các bên liên quan dự án cải thiện hiệu quả  
quản lý, hiệu quả hoạt động của mình.  
Dự án PPP áp dụng tỷ lệ chiết khu cao hơn khi  
xác định dòng tiền thuần bởi vì phương pháp hoàn  
vốn đầu tư của dự án PPP cho phép phân bổ chi phí  
trong thời gian dài hơn so với phương pháp truyền  
thống (Canada, Quebec 2009:16).  
Phát hiện này viện dẫn đến tình huống áp dụng  
tỷ lệ chiết khu cao hơn mà không có cơ sở hợp  
lý và đã kiến nghị đơn vị được kiểm toán phải xác  
định lại tỷ lệ chiết khu phù hợp (Canada, Quebec  
2009:16).  
3. Một số kết quả kiểm toán phổ biến trong  
kiểm toán hoạt động dự án PPP  
3.1. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư trước khi  
phê duyệt dự án  
ứ ba, một số báo cáo kiểm toán cũng chỉ ra  
việc lập phương án tài chính cũng như đánh giá  
hiệu quả dự án được thực hiện thiếu thận trọng.  
Hiệu quả dự án đầu tư bị thổi phồng để dự án PPP  
được thông qua mà thiếu cân nhắc tt cả các tình  
huống xu và rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ, trong Báo  
cáo kiểm toán hoạt động về xây dựng hệ thống  
đường sắt cao tốc liên tỉnh, Tòa ẩm kế Kiểm  
Qua phân tích một số báo cáo kiểm toán của  
một số SAI tại một số quốc gia trên thế giới (ấn  
Độ, Anh, Bỉ, Đức, Hà Lan, Hungary, Canada) đã  
chỉ ra một số phát hiện liên quan đến hiệu quả dự  
án PPP như sau:  
ứ nhất, nhiều dự án PPP không được cơ quan  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 121 - tháng 11/2017 69  
KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI  
toán Hà Lan đã kiến nghị rằng, các Bộ trưởng đã  
có hành động quá vội vàng khi thu thập dữ liệu và  
trình bày lợi ích tăng thêm trong Báo cáo nghiên  
cứu khả thi dự án PPP khi trình Quốc hội và đã kết  
luận rằng, kết quả tính toán hiệu quả dự án (lợi ích  
tăng thêm) mà dự án mang lại trong báo cáo không  
chính xác, phải điều chỉnh lại (Netherland 2002).  
đề xut một số kiến nghị nhằm cải thiện đối với các  
đơn vị được kiểm toán:  
- iếu khung chính sách, quy định hoc các  
tiêu chuẩn áp dụng đối với các thông số đầu vào  
của dự án trong từng lĩnh vực cụ thể. Văn phòng  
trách nhiệm giải trình Mỹ (GAO) đã từng lưu ý  
rằng “tỷ lệ chiết khu được áp dụng trong báo cáo  
dự án để tính toán giá trị hiện tại thuần đối với thu  
nhập trong tương lai có thể được lựa chọn tùy ý bởi  
một cơ quan nhà nước đại diện” (USA 2008: 52);  
ứ tư, việc đo lường giá trị tăng thêm thông  
qua so sánh giữa hai hình thức đầu tư có xu hướng  
bị thao túng và lạm dụng (UK 2009:20). Lỗi tính  
toán, thông số đầu vào không chính xác, thổi phồng  
hiệu quả đầu tư cũng như tô vẽ dự án theo cách thái  
quá (Ireland 2004:11-12). Nhiều SAI đã phát hiện,  
tổng vốn đầu tư, tổng mức đầu tư của dự án thường  
được thổi phồng cao hơn thực tế (Canada, Ontario  
2008:104-5). Ngoài ra, kết quả tính toán hiệu quả  
dự án đầu tư cho từng phương án đầu tư được thể  
hiện trong các báo cáo nghiên cứu khả thi của dự  
án thường nhn mạnh ưu điểm của một phương  
án cụ thể nào đó hơn nhiều so với các phương án  
khác mà thiếu cơ sở vững chắc (Belgium 2009, 34;  
Germany 2009, 41).  
- Việc kiểm tra giá trị tăng thêm của dự án PPP  
so với hình thức đầu tư công truyền thống thường  
phải dựa trên một mô hình kinh tế. Tuy nhiên, các  
mô hình kinh tế khó có thể bao quát hết được ảnh  
hưởng từ các yếu tố định tính hoc kế hoạch chiến  
lược. Tổng Kiểm toán Quebec (Canada) đã khẳng  
định rằng “các yếu tố khác, khó hoc không thể  
định lượng được dựa trên phương diện tài chính.  
Chúng có thể có tác động đến giá trị của các lựa  
chọn và những ưu điểm và hạn chế này cần phải  
được rà soát” (Canada, Quebec 2009, 17);  
- Việc kiểm tra giá trị tăng thêm không phải là  
yếu tố đảm bảo duy nht khi quyết định liệu rằng  
có nên áp dụng hình thức PPP hay không. Ngay  
ứ năm, kết quả kiểm toán dự án PPP cũng đã  
chỉ ra được các nguyên nhân tồn tại và qua đó đã  
70 Số 121 - tháng 11/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
cả Văn phòng Kiểm toán Nhà nước Anh (NAO)  
cũng đã thừa nhận rằng: “Giống như bt kỳ mô  
hình (phương án) tài chính nào, chúng không thể  
dựa vào duy nht một nguồn thông tin, số liệu  
đảm bảo. Các kế hoạch chiến lược có thể có ảnh  
hưởng lớn hơn so với việc xem xét phương án chi  
phí – hiệu quả thuần túy về mt tài chính, nhưng sẽ  
không thuyết phục nếu chúng được lập sau khi hợp  
đồng được ký. Khi đánh giá năng lực tài chính của  
các nhà thầu tham gia dự án PPP, chúng ta kỳ vọng,  
cơ quan đại diện nhà nước ký hợp đồng phải xem  
xét hết sức thận trọng điểm mạnh và điểm yếu từ  
việc sử dụng nguồn vốn tài trợ từ khu vực tư chẳng  
hạn thỏa thuận cần phải quy định ngày cụ thể”  
(UK 2009; 21).  
án. Tuy nhiên, Báo cáo kiểm toán của NAO Anh  
cho rằng, quản lý hợp đồng tốt không phải là vn  
đề ưu tiên hàng đầu (UK 2009: 9, 59). Bởi vì, quản  
lý hợp đồng tốt còn phụ thuộc vào các thỏa thuận  
giữa các bên đối tác tham gia dự án cũng như các  
yếu tố kỹ thuật, quy định pháp lý, thương mại nhằm  
đảm bảo các điều khoản thỏa thuận được ký kết là  
đúng (UK 2009: 9, 59). Tuy nhiên, hầu hết các SAI  
cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên  
quan đều thừa nhận rằng quản lý hợp đồng là một  
vn đề hệ trọng, cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng,  
nhiều dự án trong thực tiễn đã buộc phải trì hoãn  
hoc hủy bỏ khi không đáp ứng đúng các quy định  
tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan (India 2008a: 39; UK  
2009: 10).  
3.2. Trong giai đoạn lựa chọn nhà đầu tư,  
thương thảo và ký kết hợp đồng  
Kết quả kiểm toán chính liên quan đến việc  
quản lý hợp đồng được chỉ ra trong một số báo cáo  
kiểm toán của một số SAI tập trung vào các nội  
dung sau:  
Một số SAI đã từng thực hiện nhiều cuộc kiểm  
toán liên quan đến quy trình lựa chọn nhà đầu tư  
dự án PPP. NAO Anh đã từng báo cáo rằng “thủ  
tục lựa chọn nhà đầu tư hữu hiệu là một yếu tố  
sống còn, bởi vì các điều khoản hợp đồng thường  
được áp dụng đến cuối vòng đời dự án” (UK 2009,  
52-3). Cơ quan này cho rằng, nguy cơ lớn nht  
về tài chính nảy sinh trong giai đoạn cuối cùng  
là thương thảo hợp đồng và thỏa thuận về giá trị  
hợp đồng (UK 2009, 52-3). Mc dù một số báo  
cáo kiểm toán kết luận rằng quá trình đu thầu là  
công bằng và minh bạch (Belgium 2009, 14, 63–4;  
Canada, Alberta 2010: 13) nhưng vẫn còn những  
hạn chế, chẳng hạn, báo cáo không đầy đủ về tình  
hình thị trường (Belgium 2009: 13, 47) hoc không  
đủ số lượng nhà đầu tư tham gia đu thầu nhằm  
đảm bảo mức độ cạnh tranh để thực hiện hợp đồng  
(NetherLands 1993).  
- Một số hợp đồng PPP không quy định việc  
theo dõi, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện dự  
án cũng như trách nhiệm các bên liên quan. Một  
số khác có quy định nhưng sơ sài và không phù  
hợp, thậm chí khi hợp đồng đã có điều khoản quy  
định việc theo dõi, giám sát kết quả nhưng chúng  
được thiết kế không phù hợp (Hungary 2007: 2)  
hoc chúng không hoạt động hữu hiệu trên thực tế  
(Ireland 2006: 95). Hậu quả là cơ quan nhà nước có  
thẩm quyền không có đủ thông tin, cơ sở để đánh  
giá, xử lý việc không tuân thủ hợp đồng (Canada,  
Quebec 2010: 38).  
- Các điều khoản hợp đồng, quy trình, thủ tục  
quản lý nhằm đảm bảo việc chi trả dịch vụ là cần  
thiết, đúng đối tượng nhằm bảo vệ lợi ích của công  
chúng thường không đầy đủ, thiếu cơ sở. Vì vậy,  
báo cáo kiểm toán không thể đưa ra được ý kiến,  
kết luận liệu rằng việc tính toán hỗ trợ các khoản  
thanh toán có chính xác hoc liệu rằng việc chi trả  
dịch vụ có đúng đối tượng (Canada, Nova Scotia  
2010: 27).  
3.3. Giai đoạn thực hiện dự án đầu tư (Quản  
lý hợp đồng)  
Để đánh giá tính hiệu lực của dự án PPP, các SAI  
thường tập trung kiểm tra việc quản lý hợp đồng  
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu  
tư. eo Tổng Kiểm toán của New South Wales,  
Australia, có nhiều bằng chứng tăng lên chứng tỏ  
rằng, để tối đa hóa tính hiệu lực, các dự án PPP cần  
được quản lý tốt trong từng giai đoạn thực hiện dự  
- Một phát hiện thú vị khác liên quan đến chủ  
đề này đó là việc Chính phủ có thể làm xói mòn sự  
thành công trong quản lý dự án từ việc họ tham  
gia quá sâu vào dự án. Ví dụ Văn phòng Kiểm toán  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 121 - tháng 11/2017 71  
KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI  
Hungary đã phát hiện ra rằng, cơ quan địa phương  
đã tham gia quá sâu vào việc quản lý dự án dẫn tới  
khó khăn trong việc yêu cầu các đơn vị trong khu  
vực tư giải trình việc không tuân thủ luật và các  
quy định (Hungary 2009: 1–2).  
chỉnh (UK 2009: 56). Cuối cùng, rủi ro thường xut  
hiện liên quan đến việc xác định và tính toán chính  
xác các khoản chi phí phát sinh.  
3.4. Phân bổ và quản lý rủi ro  
Về mt kỹ thuật, việc phân bổ và đánh giá rủi ro  
gắn liền với các dự án PPP là vn đề sống còn quyết  
định sự thành công (tính hiệu lực) cũng như giá trị  
tăng thêm (tính hiệu quả) của dự án PPP. Một số  
báo cáo kiểm toán dự án PPP đt trọng tâm vào khía  
cạnh này. Một trong số ít Văn phòng Kiểm toán đưa  
ra quan điểm tích cực. Đó là Văn phòng Tổng Kiểm  
toán Alberta (Canada, Alberta 2010: 20).  
- Cơ chế đánh giá kết quả thực hiện thường  
phác thảo dịch vụ cung cp và các biện pháp chế tài  
xử phạt vi phạm. Tuy nhiên, một số cơ quan kiểm  
toán đã nhận thy rằng các cơ quan nhà nước đã  
tht bại trong việc xử phạt vi phạm theo quy định  
hoc thỏa thuận trong hợp đồng (India 2008: 30;  
UK 2009: 28). Một trong những lý do giải thích ít  
có trường hợp phạt vi phạm là do nhà đầu tư không  
phải luôn bắt buộc tuân thủ hợp đồng. ỉnh  
thoảng các khoản xử phạt được bù trừ với các dịch  
vụ khác hoc công việc khác hoc đối tác công lo  
ngại việc xử phạt sẽ kìm hãm hoc làm rạn nứt mối  
quan hệ với các nhà thầu và dẫn tới ảnh hưởng tiêu  
cực tới kết quả. NAO Anh không tin rằng các cơ  
quan nhà nước chỉ từ bỏ việc xử phạt khi kết quả  
đạt được sẽ mang lại lợi ích cao hơn xử phạt, sau  
khi xem xét thận trọng các nguyên tắc đạo đức... Lý  
do căn bản giải thích tại sao hiếm khi đối tác tư bị  
xử phạt là do các giám đốc dự án thường báo cáo  
đạt được kết quả (UK 2009: 56).  
Các hệ thống, cơ chế đã chứng tỏ rằng rủi ro  
được chuyển giao hoc được gắn với các bên theo  
cách quản lý hữu hiệu nht về mt chi phí và lợi ích.  
Rủi ro được phân bổ phù hợp giữa các bên (đơn vị  
công và các nhà thầu) (Canada, Alberta 2010)  
Hầu hết các báo cáo kiểm toán còn lại đều có ý  
kiến phê phán cách thức phân bổ và đánh giá rủi  
ro, cụ thể:  
- Các loại rủi ro không được định nghĩa rõ ràng:  
Tòa ẩm kế Bỉ đã kết luận rằng, Chính phủ đã  
không thực hiện việc phân tích đầy đủ rủi ro liên  
quan đến hầu hết các dự án PPP. Vi kết quả như  
vậy, Tòa ẩm kế Bỉ tin rằng cơ quan nhà nước  
cũng sẽ không thiết lập được các thỏa thuận phù  
hợp trong hợp đồng nht là khi xác định phương  
án tài chính (Belgium 2009: 13). Tổng Kiểm toán  
Quebec cũng đưa ra một kết luận tương tự (Canada,  
Quebec 2010: 4). Trong hai báo cáo thu phí đường  
hầm đầu năm 1990, Tòa ẩm kế Kiểm toán Hà  
Lan đã kết luận rằng chỉ một số ít rủi ro liên quan  
được chuyển giao cho phía khu vực tư. Nhà nước  
vẫn phải gánh trách nhiệm đối với phần lớn rủi ro  
liên quan đến lưu lượng giao thông thp hơn so với  
dự báo (e Netherlands 1990: 1993).  
- Một số SAI đã phát hiện việc thay đổi, điều  
chỉnh lại dự án khi hợp đồng đã được ký kết nảy  
sinh nhiều vn đề phức tạp. Trong nhiều trường  
hợp, có thể phát sinh thêm các chi phí do thay đổi,  
điều chỉnh dự án và phần lớn ảnh hưởng đến mục  
tiêu đạt được hiệu quả đầu tư. Điều này có thể là  
do hạn chế trong công tác lập kế hoạch. Trong các  
báo cáo của Văn phòng Tổng Kiểm toán Ontario  
của Canada “một phần chi phí phát sinh từ việc cài  
đt thiết bị có thể tránh được nếu lập kế hoạc tốt  
hơn” (Canada, Ontario 2008: 105). Nhưng cùng lúc  
đó, việc vòng đời của dự án kéo dài dẫn đến việc  
thay đổi thường không thể tránh khỏi. Tuy nhiên,  
rõ ràng từ báo cáo kiểm toán, Chính phủ không  
phải lúc nào cũng đạt được hiệu quả vốn đầu tư  
từ những thay đổi này. Ví dụ, khi Chính phủ quyết  
định sai không theo dõi các thủ tục lựa chọn thầu  
trong trường hợp có thay đổi lớn. Trong nhiều  
trường hợp đối tác tư bổ sung thêm phí quản lý  
là những khoản chi phí không cần thiết phải điều  
- Rủi ro phụ thuộc vào các bên liên quan khác:  
Trong một báo cáo kiểm toán dự án đường sắt cao  
tốc, Tòa ẩm kế Kiểm toán Hà Lan đã phát hiện  
ra rằng, mc dù theo quy định Chính phủ chỉ chịu  
trách nhiệm đối với hai loại rủi ro chính (rủi ro khi  
lưu lượng giao thông thp hơn kế hoạch và rủi ro  
khi thay đổi chế độ, chính sách), trong một chừng  
72 Số 121 - tháng 11/2017 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
pdf 7 trang yennguyen 18/04/2022 2080
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm và kết quả kiểm toán hoạt động dự án PPP tại một số quốc gia trên thế giới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkinh_nghiem_va_ket_qua_kiem_toan_hoat_dong_du_an_ppp_tai_mot.pdf