Kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học y Hà Nội năm 2018-2019

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
KIẾNTHỨC, THÁI ĐỘ, THỰCHÀNHVÀMTSYUTLNQUAN ĐẾN  
THỰC HÀNH BỮA SÁNG CỦA SINH VIÊN Y3  
ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2018-2019  
Hoàng Yến Nhi*, Nguyễn Thị Hằng Nga*, Lê Xuân Hưng*,Lê Thị Giang*, Lê Đức Dũng*,  
Nguyễn Thị Thùy Linh*  
TÓM TẮT  
Đặt vấn đề: Bữa sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày, có ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng sức  
khỏe và kết quả học tập của sinh viên. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu về bữa sáng trong độ tuổi thanh  
thiếu niên, đặc biệt là đối tượng sinh viên Y- những người có cơ hội tiếp cận đầy đủ hơn về những vấn đề sức  
khỏe con người.  
Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành và xác định một số yếu tố liên quan đến việc thực hành bữa  
sáng của sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội năm 2018-2019.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 343 sinh viên Y3 Đại học Y Hà  
Nội từ tháng 12/2018- 1/2019.  
Kết quả: 66,5% tổng số đối tượng có kiến thức không đạt về bữa sáng, 54,3% có thái độ tiêu cực và 63,6%  
không có thói quen tốt khi ăn sáng. Bên cạnh đó, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) giữa tổng điểm thực  
hành và các yếu tố sau: kiến thức, thái độ, lý do để ăn sáng, lý do không ăn sáng, thời gian thức dậy, chuyên  
ngành, nơi ở, chi tiêu vào bữa sáng, thông tin từ phương tiện truyền thông đại chúng hoặc người thân và bạn bè  
Kết luận: Tỉ lệ sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội đạt về tổng điểm kiến thức, thái độ, thực hành vẫn còn chưa  
cao, chỉ chiếm 1/3-1/2 tổng số đối tượng.  
Từ khóa: kiến thức -thái độ -thực hành, bữa sáng  
ABSTRACT  
KNOWLEDGE, ATTITUDE, PRACTICE AND SOME FACTORS RELATED  
TO THE BREAKFAST PRACTICE OF MEDICAL JUNIOR STUDENTS IN HANOI 2018-2019  
Hoang Yen Nhi, Nguyen Thi Hang Nga, Le Xuan Hung, Le Thi Giang, Le Duc Dung,  
Nguyen Thi Thuy Linh  
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 199 – 207  
Background: Breakfast is the most important meal of the day, which has direct impact on physical  
conditions, study and other activities. However, there have been few studies on young adults’ breakfast, especially  
on Medical students who have better knowledge about health problem.  
Objectives: To describe knowledge, attitude and practice of medical junior students about breakfast and to  
analyze some factors related to their breakfast practice in Hanoi 2018-2019.  
Subjects and research methods: A cross-sectional study was conducted on 343 medical junior students in  
Hanoi from December 2018 to January 2019.  
Results: 66.5% of the total sample had poor knowledge about breakfast, 54.3% had negative attitude and  
63.6% did not have good practice on having breakfast. Besides, there was a statistically significant difference  
*Đại học Y Hà Nội  
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Xuân Hưng  
ĐT: 0911196443  
199  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
Nghiên cứu Y học  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018  
(p<0,05) between sum of practice points and following factors: knowledge, attitude, reason to have breakfast,  
reason not to have breakfast, time to wake up, study major, living place, spending on breakfast, information from  
public communication, family and friends.  
Conclusions: The prevalence of the surveyed junior students of Hanoi Medical University, who had high  
point in knowledge, attitude and practice of having breakfast, was low, only accounted for one third to a half of the  
total sample.  
Keywords: knowledge -attitude -practice, breakfast  
của bản thân.  
Trong xã hội hiện nay, sinh viên Y còn là  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Bữa sáng là bữa ăn đầu tiên trong ngày, có  
vai trò quan trọng trong việc cung cấp năng  
lượng và khởi động quá trình chuyển hóa, trao  
đổi chất sau khoảng thời gian dài ngưng ăn (10-  
12 tiếng đồng hồ) từ bữa tối hôm trước. Bên cạnh  
đó, một khẩu phần ăn sáng đầy đủ các chất dinh  
dưỡng còn góp phần quan trọng đến việc duy trì  
trọng lượng cân đối cho cơ thể(1).  
những nhân tố được đào tạo để trở thành cán  
bộ chăm sóc sức khỏe tương lai của đất nước,  
góp phần quan trọng đến việc hình thành  
nhận thức về các vấn đề sức khỏe cho người  
bệnh. Vì vậy việc đánh giá K.A.P của sinh viên  
Y là vô cùng cần thiết, từ đó giúp chúng ta làm  
tiền đề cho những nghiên cứu sau này và giúp  
sinh viên có kiến thức tốt, thái độ và thực hành  
đúng trong thực hành bữa sáng cho bản thân  
và cho cộng đồng.  
Tuy nhiên trên thực tế, phần nhiều mọi  
người lại thường bỏ qua hoặc chưa ý thức thành  
phần dinh dưỡng bữa ăn quan trọng này. Đặc  
biệt trong nhóm đối tượng là thành niên, sinh  
viên. Điều tra của YunJung Bae và cộng sự tại  
Đại học Hanbuk Hàn Quốc (năm 2011) cho thấy  
trong số 243 sinh viên tham gia nghiên cứu có  
đến 37% sinh viên không ăn sáng thường xuyên,  
trong đó có 72,1% sinh viên không quan tâm tới  
thành phần dinh dưỡng trong bữa sáng(7). Tại  
Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Văn Hà và  
cộng sự tại Đại học Ngoại Thương cũng cho hay  
số sinh viên không có thói quen thường xuyên  
ăn sáng chiếm tới 56% tổng số sinh viên tham  
gia nghiên cứu.  
Mục tiêu nghiên cứu  
Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về thực  
hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học Y Hà  
Nội năm 2018-2019.  
Xác định một số yếu tố liên quan đến thực  
hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học Y Hà  
Nội năm 2018-2019.  
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPPNGHIÊNCỨU  
Đối tượng nghiên cứu  
Sinh viên Y3 chính quy hiện đang học tại  
trường Đại học Y Hà Nội, có sức khỏe đảm bảo  
được đưa vào mẫu nghiên cứu trong thời gian từ  
ngày 19/12/2018 đến ngày 26/01/2019.  
Đối tượng sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội  
ngoài trong độ tuổi thanh niên còn là nhóm đối  
tượng có những đặc thù riêng, với cường độ thời  
gian học dài, học nhiều, sinh viên còn phải bắt  
đầu làm quen với việc đi trực bệnh viện trong  
học kì 2. Đối với khoảng thời gian đầu còn chưa  
quen và chưa biết phân bố thời gian cho hợp lí,  
sinh viên thường bỏ qua bữa ăn sáng vì không  
có thời gian hoặc ngủ dậy muộn không kịp ăn  
đã phải đi học, dẫn tới hậu quả sinh viên không  
nạp đủ năng lượng để học tập và làm việc, tác  
động tiêu cực đến trí nhớ và khả năng nhận thức  
Phương pháp nghiên cứu  
Thiết kế nghiên cứu  
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.  
Cỡ mẫu  
Được tính dựa vào công thức ước tính một  
giá trị tỉ lệ trong quần thể:  
n = Z2(1-α/2)  
Trong đó:  
n là cỡ mẫu tối thiểu.  
200  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
α: mức ý nghĩa thống kê.  
1-α/2: hệ số tin cậy. Với α = 0.05 thì Z= 1.96  
Bước 3  
Z
Dùng phần mềm Excel chọn ngẫu nhiên  
sinh viên mỗi lớp tham gia nghiên cứu theo tỉ  
lệ đã tính.  
p: tỉ lệ từ nghiên cứu thử. Chúng tôi tiến  
hành nghiên cứu thử trên 50 sinh viên trường  
Đại học Y Hà Nội. Sau khi tiến hành nghiên cứu  
thử tính được p = 0,38 thay vào công thức tính  
được cỡ mẫu của nghiên cứu.  
Bước 4  
Lập danh sách nhữngđối tượng được lựachọn.  
KẾT QUẢ  
ɛ: Khoảng sai lệch mong muốn giữa mẫu và  
quần thể nghiên cứu. (với ε=0,15)  
Đặc điểm của đối tượng  
: Giá trị trung bình tổng điểm thực hành từ  
nghiên cứu thử.  
Chúng tôi đã chọn được 343 sinh viên đủ  
tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu trong đó đa số  
sinh viên là nữ giới (63,3%), và học hệ bác sĩ  
(70,6%). Về tình trạng nơi ở, đa số sinh viên ở trọ  
(49,6%) và ở kí túc xá (37%).  
Vậy mẫu nghiên cứu là 343 sinh viên.  
Phương pháp chọn mẫu  
Chọn mẫu phân tầng theo chuyên ngành học  
của sinh viên Y3 chính quy theo các bước sau:  
Tổng điểm kiến thức có giá trị trung vị là 7,  
khoảng tử phân vị 5-8, giá trị trung bình  
6.43/14 câu, chiếm 46% trên tổng số câu. Tổng  
điểm thái độ có giá trị trung vị là 7, khoảng tứ  
phân vị là 5-9, giá trị trung bình chiếm 58,8%  
trên tổng số câu. Tổng điểm thực hành có giá  
trị trung vị; khoảng tứ phân vị; phần trăm giá  
trị trung bình trên tổng số câu lần lượt là 17;  
16-18; 76,8% (Bảng 1).  
Bước 1  
Lập danh sách tất cả những đối tượng là sinh  
viên Y3 chính quy trường Đại học Y Hà Nội năm  
2018 theo từng lớp học (có 14 lớp gồm: 5 lớp hệ  
BSĐK, 9 lớp hệ cử nhân và bác sĩ).  
Bước 2  
Lập bảng tỉ lệ số sinh viên mỗi lớp được  
chọn vào nghiên cứu trên tổng số sinh viên  
khối Y3. (Tính số sinh viên mỗi lớp chọn vào  
nghiên cứu theo tỉ lệ sĩ số lớp). Tổng số sinh  
viên khối Y3 chính quy năm học 2018- 2019 là  
970 sinh viên.  
Tỉ lệ số sinh viên có tổng điểm kiến thức; thái  
độ; thực hành đạt yêu cầu lần lượt là 33,5%;  
45,7%; 36,4%.  
Bảng 1: Tổng điểm kiến thức, thái độ và thực hành về bữa sáng  
Trung vị (Khoảng  
tứ phân vị)  
Tổng điểm  
TB±ĐLC  
% câu trả lời đúng Đạt (%)  
Không đạt (%)  
Tổng điểm kiến thức  
Tổng điểm thái độ  
14  
12  
22  
6,43±2,6  
7,06±2,7  
16,9±2,4  
46%  
33,5  
45,7  
36,4  
66,5  
54,3  
63,6  
7 (5- 8)  
7 (5- 9)  
58,8%  
76,8%  
Tổng điểm thực hành  
17 (16- 18)  
chiếm 30,6%. Số câu trả lời đúng kiến thức về  
glucid; protein; lipit có tỉ lệ lần lượt là: 41,7%;  
20,4%; 7,0% (Bảng 2).  
Đối với nhóm kiến thức chung về bữa sáng,  
kiến thức về tầm quan trọng của bữa sáng có số  
câu trả lời chiếm tỉ lệ cao nhất là 83,1%, kiến thức  
về vai trò của bữa sáng và hậu quả khi không ăn  
bữa sáng đầy đủ có tỉ lệ thấp hơn hẳn, lần lượt  
chiếm 14,6% và 7,3% (Bảng 2).  
Bảng 2: Tỷ lệ câu trả lời đúng các kiến thức liên quan  
đến bữa sáng (n=343)  
Biến số  
Tần số Tỷ lệ (%)  
Nhóm kiến thức chung về bữa sáng  
Đối với nhóm kiến thức về các chất dinh  
dưỡng sử dụng trong bữa sáng, kiến thức về tỷ  
lệ năng lượng cần cung cấp cho bữa sáng so với  
cả ngày có số câu trả lời đúng cao nhất nhóm,  
Kiến thức về tầm quan trọng của bữa sáng 285  
83,1  
14,6  
Kiến thức về vai trò của bữa sáng  
50  
Kiến thức về hậu quả khi không ăn bữa  
sáng đầy đủ  
25  
7,3  
201  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
Nghiên cứu Y học  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018  
Biến số  
Tần số Tỷ lệ (%)  
31,2% (Hình 1).  
Trong số những đối tượng tham gia điều tra  
Nhóm kiến thức về các chất dinh dưỡng sử dụng trong bữa  
sáng  
về khẩu phần ăn cá nhân, chỉ có 2,0% số sinh  
viên Y3 ăn bữa sáng đạt nhu cầu năng lượng  
khuyến nghị (theo tổ chức WHO), tỷ lệ sinh viên  
có bữa sáng thiếu năng lượng chiếm 98%. Bên  
cạnh đó, 99,7% sinh viên Y3 trong nghiên cứu có  
bữa sáng không cân đối tỷ lệ các chất sinh năng  
lượng (Bảng 3).  
Kiến thức về tỷ lệ năng lượng cần cung  
105  
56  
30,6  
16,3  
41,7  
cấp cho bữa sáng so với cả ngày  
Kiến thức về thành phần các chất cần  
được dung nạp trong bữa sáng  
Kiến thức về tỷ lệ Glucid cần thiết cho bữa  
sáng  
143  
49  
Kiến thức về tỷ lệ Protein cần thiết cho  
bữa sáng  
20,4  
7,0  
Kiến thứcvề tlLipidcnthiếtcho bữasáng 24  
Bảng 3: Tỷ lệ thực hành bữa sáng đáp ứng nhu cầu  
năng lượng và sự cân đối thành phần các chất dinh  
dưỡng (n=343)  
Trong số các đối tượng trả lời về thái độ đối  
với các yếu tố liên quan đến thực hành bữa sáng,  
mức thái độ rất quan tâm và quan tâm cao nhất  
là ở “Bảng thành phần chất dinh dưỡng trên bao  
bì sản phẩm”, lần lượt chiếm tỷ lệ là 16,3% và  
49,2%. Ngược lại, yếu tố về “Chất lượng vệ sinh  
an toàn thực phẩm” có tỷ lệ thái độ bình thường,  
không quan tâm cao nhất, lần lượt là 43,2% và  
Tần số Tỷ lệ (%)  
Đủ năng lượng  
Thiếu năng lượng  
Cân đối  
7
2,0  
98,0  
0,3  
Nhu cầu năng  
lượng  
336  
1
Tỉ lệ G:L:P  
Không cân đối  
342  
99,7  
Hình 1: Thái độ đối với các yếu tố liên quan đến việc thực hành bữa sang  
hiện 4-6 ngày/tuần cao nhất, đạt 47,5%, tỷ lệ thực  
hiện hàng ngày chiếm 20,9%.  
Trong số những đối tượng trả lời về tần suất  
các thói quen liên quan đến việc thực hành bữa  
sáng, các thói quen sai lệch là: "Sử dụng thực  
phẩm, đồ uống lạnh vào bữa sáng”; “Ăn đồ ăn  
nhanh trong bữa sáng”; “Ăn hoa quả thay bữa  
sáng” và “Sử dụng đồ uống thay bữa sáng” có tỷ  
lệ không bao giờ thực hiện cao nhất, lần lượt  
chiếm 91,6%; 82,2%; 73,5% và 87,2%. Ngoài ra,  
đối với thói quen uống đồ uống chứa chất kích  
thích trước bữa sáng” tỷ lệ sinh viên thực hiện  
hàng ngày chiếm 14,3%, trong khi đó tỷ lệ không  
bao giờ thực hiện chiếm tới 37,3% (Hình 2).  
Bảng 4: Mối tương quan giữa tổng điểm kiến thức,  
tổng điểm thái độ và tổng điểm thực hành (n=343)  
Tổng điểm Tổng điểm Tổng điểm  
kiến thức  
thái độ  
thực hành  
Tổng điểm kiến thức  
Tổng điểm thái độ  
1,000  
-
-
-
0,4640*  
0,0000  
1,000  
-
0,3907*  
0,0000  
0,2378*  
0,0000  
1,000  
-
Tổng điểm thực  
hành  
Có mối tương quan thuận ở mức độ trung  
bình (r=0,4640) giữa tổng điểm kiến thức và tổng  
điểm thái độ, mối tương quan này có ý nghĩa  
thống kê với p <0,001. Giữa tổng điểm kiến thức  
và tổng điểm thực hành cũng là tương quan  
Đối với thói quen tích cực “Ăn sáng sau khi  
ngủ dậy 30 phút-1 tiếng” có tỷ lệ sinh viên thực  
202  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
thuận nhưng mức độ yếu (r=0,3907), mối tương  
quan này có nghĩa thống kê với  
p=0,0000<0,001, tương tự với tổng điểm thái độ  
và tổng điểm thực hành (r=0,2378;  
ý
p=0,0000<0,001) (Bảng 4).  
Hình 2: Tỷ lệ tần suất các thói quen liên quan đến việc thực hành bữa sáng  
Bảng 5: Các yếu tố liên quan đến việc thực hành bữa sáng  
Yếu tố liên quan  
Tổng điểm thực hành  
Không đạt  
Đạt  
p-value  
Tên biến  
Giá trị của biến  
n
%
n
%
Nơi ở  
Ở với gia đình  
21  
6,1  
25  
7,3  
0,01  
Ở trọ  
118 34,4 52 15,2  
79 23,0 48 14,0  
165 48,1 77 22,4  
Ở ký túc xá  
Chuyên ngành  
Bác sĩ  
0,006  
Cử nhân  
53  
15  
97  
15,5 48 14,0  
4,4 15 4,4  
28,3 90 26,2  
Thói quen thức dậy  
Trước 6h  
<0,001  
6-7h  
Sau 7h  
Đói bụng  
106 30,9 20  
106 30,9 28  
5,8  
8,2  
Lý do ăn sáng  
<0,001  
0,03  
Cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng cho cơ thể  
Thói quen bản thân  
Thói quen gia đình, bạn bè  
Không có thời gian  
Không đói  
56  
20  
36  
73  
33  
90  
22  
16,3 69 20,1  
5,8  
25  
3
7,3  
0,9  
10,5  
Lý do không ăn sáng  
21,3 58 16,9  
9,6  
26,2 41  
6,4  
21  
6
Thói quen bản thân  
Thói quen gia đình, bạn bè  
Một mình  
12  
1,6  
5
Đối tượng cùng ăn sáng  
Chi phí cho bữa sáng  
186 54,2 100 29,2  
0,04  
0,04  
Gia đình  
7
2,0  
7,3  
12  
13  
3,5  
3,8  
Bạn bè  
25  
< 20.000đ  
193 56,3 103 30  
20.000 – 30.000đ  
> 30.000đ  
25  
0
7,3  
0
19  
3
5,5  
0,9  
203  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
Nghiên cứu Y học  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018  
Yếu tố liên quan  
Tổng điểm thực hành  
Không đạt Đạt  
p-value  
<0,001  
<0,001  
Tên biến  
Giá trị của biến  
n
%
n
%
Nguồn cung cấp TT-KTBS là  
phương tiện TT đại chúng  
Không  
Có  
113 32,9 20  
5,8  
105 30,6 105 30,6  
155 45,2 64 18,7  
Nguồn cung cấp TT-KTBS là  
người thân, bạn bè  
Không  
Có  
63  
18,4 61 17,8  
TT-KTBS: Thông tin- Kiến thức bữa sáng có mối liên quan giữa “Nơi ở”, “Chuyên ngành”, “Lý do ăn sáng”, “Lý do không  
ăn sáng”, “Đối tượng cùng ăn sáng” và “Thói quen thức dậy”, “Chi phí cho bữa ăn sáng”, “Nguồn cung cấp TT-KTDD là  
phương tiện TT đại chúng", “Nguồn cung cấp TT-KTDD là người thân, bạn bè” với tổng điểm thực hành bữa sáng với p<0,05  
đối với các vấn đề liên quan đến bữa sáng dựa  
trên 4 mức độ: rất quan tâm, quan tâm, bình  
thường và không quan tâm. Đối với bảng thành  
phần chất dinh dưỡng trên bao bì sản phẩm sử  
dụng trong bữa sáng, kết quả ghi nhận được có  
14% số đối tượng không quan tâm đến vấn đề  
này, kết quả của Nguyễn Văn Hà tại đại học  
Ngoại Thương có phần khả quan hơn với tỉ lệ là  
5% sinh viên. Bên cạnh đó, có đến 74,4% sinh  
viên không quan tâm đến chất lượng vệ sinh an  
toàn thực phẩm khi ăn sáng, cao hơn hẳn so với  
nghiên cứu của Nguyễn Văn Hà (10% số sinh  
viên). Nhìn chung, thái độ của sinh viên Y3 về  
các yếu tố liên quan đến bữa sáng còn thấp, điều  
này đòi hỏi cần tích cực thúc đẩy những chương  
trình can thiệp, giáo dục truyền thông để giúp  
sinh viên nói riêng và cộng đồng nói chung cải  
thiện cách nhìn nhận về một bữa sáng lành  
mạnh.  
BÀN LUẬN  
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là 343  
sinh viên Y3 đại học Y Hà Nội. Trong đó tỷ lệ  
đối tượng là nam giới chiếm 36,7%, nữ giới  
chiếm tới 63,3%. Tỷ lệ các chuyên ngành có có sự  
chênh lệch lớn, cụ thể tỷ lệ bác sỹ đa khoa có tỷ  
lệ cao nhất, chiếm 50,7%, hơn chuyên ngành có  
tỷ lệ thấp nhất là cử nhân y tế công cộng (3,5%)  
tới 47,2%. Sự khác biệt này được lý giải do chúng  
tôi đã tiến hành lập bảng tỉ lệ số sinh viên mỗi  
lớp được chọn vào nghiên cứu trên tổng số sinh  
viên Y3, mà tổng số sinh viên là bác sỹ đa khoa  
có số lượng lớn nhất nên tỷ lệ được chọn vào  
nghiên cứu cũng cao nhất.  
Kiến thức, thái độ, thực hành về bữa sáng của  
đối tượng  
Kiến thức về bữa sáng  
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 83,1% đối  
tượng đồng ý bữa sáng là bữa ăn quan trọng  
nhất trong ngày, tỉ lệ này cao hơn so với kết quả  
trong nghiên cứu của Dongxu Wang(9) và  
Cebirbay MA(2) với tỉ lệ lần lượt là 68,6% và 62,6  
%. Ngoài ra, nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận  
được 20,4% số sinh viên có kiến thức đúng về tỷ  
lệ protein cần thiết cho bữa sáng, trong khi đó, tỉ  
lệ này đạt 9,5% trong nghiên cứu của Sitti  
Patimah(6). Nhìn chung, kết quả có dấu hiệu tích  
cực khi phần lớn sinh viên có nhận thức về tầm  
quan trọng của bữa sáng, nhưng khi tìm hiểu về  
các kiến thức đặc thù liên quan đến dinh dưỡng  
thì lại ghi nhận được tỉ lệ câu trả lời chính xác vô  
cùng thấp.  
Thực hành về bữa sáng  
Để tìm hiểu việc thực hành bữa sáng của  
đối tượng, chúng tôi tiến hành hỏi ghi khẩu  
phần bữa sáng trong 3 ngày liên tiếp. Kết quả  
của nghiên cứu ghi nhận có 2% đối tượng có  
bữa sáng cung cấp đủ năng lượng, 0,3% đối  
tượng có bữa sáng cân đối, kết quả trên thấp  
hơn nhiều so với nghiên cứu của Min C với tỉ  
lệ lần lượt là 63,8% và 100% số đối tượng(5)  
(theo khuyến nghị của WHO). Sự khác biệt  
này có thể lý giải phần nào do quá trình phân  
tích hàm lượng các chất dinh dưỡng giữa 2  
nghiên cứu có sự khác nhau về công cụ xử lý  
và phân tích. Nghiên cứu của chúng tôi sử  
dụng bảng thành phần thực phẩm Việt Nam  
của Viện Dinh dưỡng quy định, còn nghiên  
Thái độ về bữa sáng  
Chúng tôi đánh giá thái độ của đối tượng  
204  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
cứu của Min C sử dụng công cụ Can – pro 3.0  
của hiệp hội Dinh dưỡng Hàn Quốc. Tuy  
nhiên, qua điều tra chúng tôi cũng nhận thấy  
được thực trạng chất lượng bữa sáng vô cùng  
đáng báo động của sinh viên Y3, điều này đòi  
hỏi sự can thiệp hợp lý để thay đổi thói quen  
ăn uống, và nâng cao tình trạng sức khỏe của  
sinh viên.  
người thân, bạn bè. Nghiên cứu của Jeong Soon  
You(11) trên 237 học sinh lớp 6 lại chỉ ra rằng thói  
quen ăn sáng có mối liên quan mật thiết với: lý  
do không ăn sáng, đối tượng cùng ăn sáng, thời  
gian tập luyện thể dục, số lượng bạn bè, người  
chuẩn bị bữa sáng, mức độ đói trước khi ăn  
sáng, chi phí sinh hoạt tháng.  
Đối với nhóm yếu tố các lý do ăn sáng, nhóm  
có lý do cung cấp năng lượng và chất dinh  
dưỡng cho cơ thể có 20,1% đối tượng có điểm  
thực hành đạt yêu cầu, cao hơn hẳn so với các lý  
do đến từ thói quen bản thân; gia đình và bạn bè  
lần lượt chiếm tỉ lệ là 7,3% và 0,9%. Điều này  
chứng tỏ rằng, đối tượng có kiến thức đúng đắn  
về lý do ăn sáng có ảnh hưởng tích cực đến các  
thói quen khi sử dụng bữa sáng. Vì vậy, việc  
hiểu rõ tầm quan trọng của bữa sáng là vô cùng  
cần thiết.  
Bên cạnh đó, nghiên cứu chúng tôi và Sue  
Reeves(7) có kết quả tương đồng nhau với tỉ lệ  
lần lượt là 62,7% và 74% số đối tượng có thói  
quen sử dụng đồ uống chứa chất kích thích(cà  
phê, chè,..) trước bữa sáng. Trên thực tế, đối  
tượng của hai nghiên cứu đều là những người  
trưởng thành đang phải đối mặt với áp lực từ  
công việc và học tập dẫn đến thói quen sử  
dụng đồ uống chứa chất kích thích trong bữa  
sáng nhằm giúp bản thân tỉnh táo, và giảm  
mệt mỏi, căng thẳng. Quan điểm trên là hoàn  
toàn chính xác, tuy vậy thói quen này có thể  
gây nhiều tác hại cho cơ thể nếu sử dụng trà,  
cà phê ngay khi thức dậy mà không được ăn  
bữa sáng từ trước đó.  
Đối với yếu tố lý do không ăn sáng, tỉ lệ  
điểm thực hành không đạt cao nhất nằm ở lý do  
thói quen bản thân chiếm 26,2%. Điều này cũng  
tương tự đối với nghiên cứu của You Jeong  
Soon(11) và cộng sự trên 237 học sinh nam lớp 6  
tại trường tiểu học tại Daejeon, Hàn Quốc. Bên  
cạnh đó, nhóm có lý do không có thời gian ăn  
sáng có điểm thực hành đạt yêu cầu là 16,9%,  
cao hơn với các nhóm không đói; thói quen bản  
thân; và thói quen từ gia đình bạn bè.  
Một số yếu tố liên quan đến việc thực hành  
bữa sáng  
Mối liên quan giữa tổng điểm kiến thức và  
tổng điểm thực hành (r= 0,3907) và mối liên quan  
giữa tổng điểm thái độ và tổng điểm thực hành  
(r= 0, 2378) của sinh viên Y3 Đại học Y Hà Nội có  
tương quan tỉ lệ thuận mạnh hơn so với kết quả  
nghiên cứu trên 374 học sinh tiểu học tại tỉnh  
Đối với nhóm yếu tố đối tượng cùng ăn  
sáng, nhóm ăn sáng một mình có tỉ lệ điểm  
thực hành không đạt chiếm 54,2%, cao hơn  
17,8% so với số đối tượng có điểm thực hành  
đạt yêu cầu. Tương tự, nhóm ăn sáng cùng bạn  
bè có tỉ lệ điểm thực hành không đạt và đạt lần  
lượt là: 7,3% và 3,8%. Ngược lại, tỉ lệ sinh viên  
có tổng điểm thực hành đạt cao hơn không đạt  
ở nhóm ăn sáng cùng gia đình, với tỉ lệ lần  
lượt là 3,5% và 2%.  
Songkhla, Thái Lan trong nghiên cứu của  
Reference source not found.)  
Kornwika Sukkrachang(Error!  
.
Tuy vậy, trong cả hai nghiên cứu, tương quan  
này còn yếu, điều này cho thấy cần thiết phải có  
các chương trình can thiệp để nâng cao khả năng  
áp dụng kiến thức, thái độ vào các thói quen sử  
dụng bữa sáng.  
Tương tự đối với nhóm yếu tố nơi ở, nhóm  
ở với gia đình là nhóm duy nhất có số đối  
tượng đạt tổng điểm thực hành đạt mức yêu  
cầu cao hơn không đạt, chiếm lần lượt là 7,3%  
và 6,1% trên tổng số đối tượng. Qua hai yếu tố  
đối tượng cùng ăn sáng và nơi ở, có thể thấy  
Tổng điểm thực hành có sự khác biệt  
(p<0,05) đối với những yếu tố sau: nơi ở, chuyên  
ngành, thời gian thức dậy, đối tượng cùng ăn  
sáng, lý do ăn sáng, lý do không ăn sáng, mức  
chi tiêu bữa sáng, nguồn cung cấp thông tin về  
bữa sáng đến từ phương tiện TT đại chúng và  
205  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
Nghiên cứu Y học  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018  
rằng, việc ăn sáng và ở cùng gia đình có ảnh  
hưởng trực tiếp tích cực đến việc thực hành  
bữa sáng của đối tượng.  
khuyến nghị theo WHO, và 0,3% sinh viên có  
bữa sáng cân đối tỷ lệ các chất sinh năng lượng  
trong bữa sáng.  
Thời gian thức dậy có liên quan đến thực  
hành bữa sáng của sinh viên Y3 ĐH Y Hà Nội.  
Những sinh viên có điểm thực hành bữa sáng  
đạt phần lớn là nhóm thức dậy trong khoảng 6-  
7h, thời gian này là đủ để chuẩn bị và thực hiện  
bữa sáng. Bên cạnh đó, nhóm đối tượng thức  
dậy sau 7h có tỉ lệ sinh viên đạt về tổng điểm  
thực hành bữa sáng thấp nhất và điều này hoàn  
toàn phù hợp với lý do mà phần đông các bạn  
cho rằng không ăn sáng là không có thời gian.  
Kết quả này phù hợp với một vài nghiên cứu  
trước đây của Vereecken C(8), Cuenca – García  
M(4) cũng đã chỉ ra rằng việc đi ngủ muộn vào  
đêm hôm trước có thể dẫn đến việc thức dậy  
muộn vào sáng hôm sau và là lý do chính cho  
việc không đủ thời gian để thực hiện bữa sáng  
của các học sinh từ 41 quốc gia tham gia nghiên  
cứu HBSC (Hành vi sức khỏe trong nghiên cứu  
trẻ em ở độ tuổi đi học) hay các thanh thiếu niên  
châu Âu.  
Giữa kiến thức, thái độ, thực hành có mối  
tương quan với nhau, đa phần những đối tượng  
có kiến thức hoặc thái độ tốt sẽ có thực hành tốt.  
Sự biến động của tổng điểm thực hành được  
giải thích bởi sự biến thiên của các yếu tố sau:  
nơi ở, chuyên ngành, thời gian thức dậy, đối  
tượng cùng ăn sáng, lý do ăn sáng, lý do không  
ăn sáng, mức chi tiêu bữa sáng, nguồn cung cấp  
thông tin về bữa sáng đến từ phương tiện TT đại  
chúng; và người thân, bạn bè.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Bộ môn dinh dưỡng và an toàn thực phẩm - Trường Đại học Y  
Hà Nội (2012). Dinh dưỡng và an toàn thực phẩm. Nhà xuất bản  
Y học Hà Nội, pp.7-17.  
2. Cebirbay MA, Aktas N, et al (2011). Determination of breakfast  
habits and knowledge of foreign undergraduates studying at  
Selcuk University in Turkey. Progress in Nutrition, 13(4):276-285.  
3. Cooper SB, Bandelow S, Nevill ME, et al (2011). Breakfast  
consumption and cognitive function in adolescent  
schoolchildren. Physiology & Behavior, 103(5):431-439.  
4. Cuenca-García M, Ruiz JR, Ortega FB, Labayen I and others  
(2014). Association of breakfast consumption with objectively  
measured and self-reported physical activity, sedentary time  
and physical fitness in European adolescents: the HELENA  
(Healthy Lifestyle in Europe by Nutrition in Adolescence).  
Public Health Nutr, 17(10):2226-36.  
Bên cạnh đó, tỷ lệ đối tượng được cung cấp  
nguồn thông tin - kiến thức về bữa sáng qua  
phương tiện truyền thông đại chúng (30,6%)  
hoặc qua người thân, bạn bè (18,7%) có ảnh  
hưởng tích cực đến hành vi sử dụng bữa sáng  
của đối tượng. Đây là minh chứng cho việc cần  
đẩy mạnh các công tác truyền thông đại chúng  
như: loa đài, vô tuyến, báo chí nhằm tăng độ  
phủ sóng các vấn đề liên quan giáo dục sức  
khỏe nói chung và bữa sáng nói riêng đến với  
cộng đồng.  
5. Min C, Noh H, Kang YS, et al (2011). Skipping breakfast is  
associated with diet quality and metabolic syndrome risk  
factors of adults. Nutr Res Pract, 5(5): pp. 455–463.  
6. Patimah S, Royani I, Mursaha A, et al (2016). Knowledge,  
attitude and practice of balanced diet and correlation with  
hypochromic microcytic anemia among adolescent school girls  
in Maros district, South Sulawesi, Indonesia. Biomedical Research,  
7. Reeves S, Halsey LG, McMeel Y, et al (2013). Breakfast habits,  
beliefs and measures of health and wellbeing in a nationally  
representative UK sample. Appetite, 60(1):51-57.  
8. Vereecken C, Dupuy M, Rasmussen M, and others (2009).  
Breakfast consumption and its socio-demographic and lifestyle  
correlates in schoolchildren in 41 countries participating in the  
HBSC study. Int J Public Health, 54(2):180–90.  
KẾT LUẬN  
Các đối tượng có kiến thức; thái độ; thực  
hành về bữa sáng đạt yêu cầu có tỉ lệ còn chưa  
cao, lần lượt là 33,5%; 45,7%; 36,4%.  
9. Wang D, Shi Y, Chang C, et al (2014). Knowledge, attitudes and  
behaviour regarding nutrition and dietary intake of seventh-  
grade students in rural areas of Mi Yun County, Beijing, China.  
Environ Health Prev Med, 19(3):179-186  
Bên cạnh đó, khi điều tra khẩu phần bữa  
sáng trong 3 ngày liên tiếp, chỉ có 2,0% số sinh  
viên ăn bữa sáng đạt nhu cầu năng lượng  
10. Yeon JY, Bae YJ, et al (2011). Dietary Behaviors, Processed Food  
Preferences and Awareness Levels of Nutrition Labels among  
206  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
Female University Students Living in Middle Region by  
Breakfast Eating. Korean J Community Nutr, 18(5):442-456.  
Ngày nhận bài báo:  
15/08/2019  
31/08/2019  
15/10/2019  
11. You JS, Kim SM and Chang KJ (2009). Nutritional Knowledge  
and Dietary Behavior of the 6th Grade Elementary School  
Students in Daejeon Area by Gender and Skipping Breakfast.  
Korean J Nutr, 42(3):256-267.  
Ngày phản biện nhận xét bài báo:  
Ngày bài báo được đăng:  
207  
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  
pdf 9 trang yennguyen 14/04/2022 3960
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan đến thực hành bữa sáng của sinh viên Y3 Đại học y Hà Nội năm 2018-2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thai_do_thuc_hanh_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_t.pdf