Khóa luận Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán thuộc Công ty cà phê Phước An, huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk

PHẦN I  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Cà phê là cây công nghiệp quan trọng, nó không chỉ là cây trồng lợi thế  
của vùng Tây Nguyên mà còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.  
Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1857, mãi đến đầu thế kỷ  
XX mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Trải qua  
nhiều hình thức tổ chức sản xuất từ các đồn điền cà phê đến các nông trường  
quốc doanh cà phê. Với một thời gian không dài chỉ trong vòng 26 năm, trong  
một phần tư thế kỷ, kể từ sau năm 1975 ngành cà phê Việt Nam đã có những  
bước phát triển vượt bậc với tốc độ kỷ lục so với nhiều nước trồng cà phê khác  
trên thế giới.  
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đã có diện tích trồng cà phê trên  
500.000 ha với sản lượng cà phê xuất khẩu hàng năm trên dưới 900.000 tấn với  
kim ngạch xấp xỉ trên dưới 1,5 tỷ USD. Việt Nam là một nước sản xuất, xuất  
khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới và là nước xuất khẩu cà phê Robusta số 1 thế  
giới. Hiện nay Cà phê Việt Nam đang được xuất khẩu sang 88 quốc gia và  
vùng lãnh thổ, trên các châu lục. Nó không những mang lại hiệu quả kinh tế  
cao mà còn mang lại quả xã hội và cải thiện môi trường sinh thái rất lớn.  
Đóng góp vào kết quả trên phải kể đến vai trò tích cực của vùng kinh tế Tây  
Nguyên.  
Tây guyên với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500  
m 00 m so với mặt biển, là vùng đất rất phù hợp với những cây công  
nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm trong đó cà phê được xem là cây  
công nghiệp quan trọng giữ vị trí số một với tổng diện tích khoảng 470.000 ha,  
chiếm 92,79% diện tích trồng cà phê của cả nước. Điều đó đã góp phần khai  
thác tiềm năng đất đai, lao động và khí hậu ở cao nguyên và miền núi, tạo nên  
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu nông dân.  
Đắk Lắk là một trong 5 tỉnh thuộc khu vực của Tây Nguyên nơi đây  
đóng góp một sản luợng cà phê rất lớn cho toàn khu vực Tây Nguyên cũng như  
1
của cả nước. Cà phê được trồng ở Đắk Lắk từ rất lâu nhưng đến năm 1986,  
xuất phát từ chính sách đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ và chính  
quyền Đắk Lắk mới có chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển và thâm  
canh cây cà phê. Thực hiện chủ trương của Tỉnh, từ giữa những năm 80 của thế  
kỷ XX các đơn vị làm công tác xuất nhập khẩu đã tìm đến từng hộ nông dân  
với hình thức đầu tư ứng trước, nghĩa là “quốc doanh” ứng trước cho nông dân  
máy cày, phân bón, có cả lương thực và thu hồi vốn sau khi có cà phê nhân,  
nông trường quốc doanh thì vận động bà con vào làm công nhân nhận khoán  
trồng và chăm sóc phê.  
Từ đó Đắk Lắk hình thành nhiều vùng chuyên canh cây cà phê, có đơn  
vị phấn đấu chỉ tiêu trong một mùa mưa trồng một nghìn ha như Công ty cà  
phê Phước An, Thắng Lợi, Ea Tiêu, Xí nghiệp liên hiệp cà phê Việt - Đức. Bên  
cạnh đó, Đắk Lắk còn liên doanh trồng cà phê với nước ngoài, cụ thể là Liên  
doanh Việt-Xô, Việt - Đức. Vùng chuyên canh cà phê chiếm 86% diện tích sản  
xuất nông nghiệp và 89% sản lượng cà phê trong toàn Tỉnh. Hiện nay, tỉnh Đắk  
Lắk có 8 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê do Tỉnh quản lý đang thực  
hiện các loại khoán trên với tổng diện tích khoảng 6.770 ha.  
Cùng chung vự phát triển trong hoạt động sản xuất cà phê trên địa  
bàn Tỉnh, Công ty cà phê Phước An đã có những bước thay đổi trong cách thức  
quản lý sản xuất theo từng giai đoạn lịch sử, từ quản lý theo lối hành chính bao  
cấp, chuysang khoán đến hộ gia đình trong giai đoạn hiện nay. Điều đó đã  
góp vào việc xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nguời dân vùng núi.  
Hình thành và phát triển từ những năm 1977, mô hình cà phê khoán đến các hộ  
đang được sự quan tâm và đầu tư của công ty cũng như các hdân.  
Tuy nhiên, trước tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay,  
Thị trường cà phê trên thế giới trong những năm vừa qua thường chao đảo,  
không ổn định nhất là về giá cả. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) do không còn giữ  
được hạn ngạch xuất nhập khẩu, giá cả trôi nổi trên thị trường tự do cho nên có  
những giai đoạn giá cà phê xuống thấp chưa từng có so với vài chục năm trở lại  
2
đây. Tình trạng này đã dẫn đến hậu quả là nhiều nước phải hủy bỏ bớt diện tích  
cà phê, hoặc không tiếp tục chăm sóc vì kinh doanh không còn thấy có hiệu quả.  
Bên cạnh đó trong nước mô hình sản xuất cà phê theo lối tự quản lý của hộ đang  
chiếm một vị trí mạnh (gần 80% diện tích cà phê của cả nước do các hộ tự quản  
lý), ngược lại mô hình khoán chỉ chiếm khoảng gần (20% diện tích trồng cà  
phê) do công ty và hộ nhận khoán hợp tác cùng quản lý.  
Chính những biến động và khó khăn đó sẽ làm cho hoạt động sản xuất  
cà phê cũng như sự tồn tại của các hình thức khoán ở công ty cà phê Phước An  
nói riêng mà cụ thể là những người dân nhận khoán của công ty ít nhiều sẽ bị  
ảnh hưởng. Vì thế chúng tôi thiết nghĩ việc tìm hiểu, đánh giá kết quả đầu tư và  
hiệu quả sản xuất cà phê khoán tới hộ dân tại cônty cà phê Phước An là rất  
cần thiết. Để từ đó tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm phát triển hình thức  
nhận khoán tới hộ một cách hiệu quả và bền vững.  
Xuất phát từ những lý do trên trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại  
công ty cà phê Phước An thuộc Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk tôi đã chọn  
đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán  
thuộc Công ty cà phê Phước An, Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk ” để làm  
khoá luận tốt nghiệp mình.  
Mục đích nghiên cứu của đề tài  
- Đánh giá thực trạng, tiềm năng để phát triển cà phê theo phương thức  
khoán tới hthuộc công ty cà phê Phước An.  
Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cà phê của các hộ gia đình  
nhận khoán ở công ty cà phê Phước An.  
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả  
sản xuất cà phê trên địa bàn công ty cà phê Phước An.  
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp  
- Phương pháp điều tra phỏng vấn thu thập số liệu và thông tin cần thiết  
phục vụ cho việc nghiên cứu.  
3
- Các phương pháp phân tích để đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên  
nhân của các vấn đề.  
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo  
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  
a) Đối tượng nghiên cứu  
Đối tượng và nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài là những vấn đề  
kinh tế, kỹ thuật trong mối quan hệ với các vấn đề tổ chức quản lý hiệu quả sản  
xuất cà phê của các hnhận khoán.  
b) Phạm vi nghiên cứu  
Về không gian: Do hạn chế về khả năng và thời gian nghiên cứu nên đề  
tài chỉ tập trung phản ánh tình hình sản xuất cà phê tại hai đội đại diện cho 2  
hình thức khoán khác nhau: (có đầu tư – không có đầu tư của công ty), đồng  
thời là hai đội có diện tích cà phê lớn nhất trong công ty cà phê Phước An,  
huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk.  
Về thời gian: Qua khảo sát thực tế tại công ty Phước An, chúng tôi chỉ  
tiến hành đánh giá, phân tích thực trạng sản xuất cà phê của hộ trong năm  
2009.  
Do hạn chế về gian thực tập cũng như khả năng của bản thân nên đề  
tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp  
ý và giúp đỡ của quý Thầy, Cô giáo cùng bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.  
4
PHẦN II  
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU  
CHƯƠNG I  
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU  
1.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN  
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển ngành cà phê  
1.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển cây cà phê trên Thế giới  
Lịch sử về cà phê thực sự cũng đa dạng như cách pha chế nó.  
Một truyền thuyết kể rằng: Một người chăn dê nhận thấy rằng đàn gia  
súc của mình trở nên nghịch ngợm hơn bình thường sau khi ăn những quả màu  
đỏ từ bụi cây cà phê dại. Không lâu sau những hầy tu bắt đầu đun những  
những hạt này và sử dụng chất lỏng này để thức suốt đêm trong các lễ hội.  
Câu chuyện khác lại kể về một thầy tu Đạo Hồi - người đã bkết tội bởi  
kẻ thù của mình. Hình phạt là phải đi lang thang trong sa mạc và cuối cùng là  
chết đói. Trong cơn mê sảng, chàng trai trẻ đã nghe thấy âm thanh hướng dẫn  
mình ăn những quả từ cây cà phê gần đó. Anh ta đã sống sót, khoẻ mạnh và  
quay lại với cộng đồng của mình, công bố rộng rãi kinh nghiệm vcông thức.  
Ban đầu, các ạc phía đông châu Phi đã nghiền quả cà phê sau đó  
trộn lẫn với mỡ động vật, vê lại thành những viên nhỏ. Sau đó vào khoảng năm  
1000 sau Công Nguyên, người Ethiopia đã pha chế một loại rượu từ những hạt  
cà phê bằncách lên men những hạt cà phê khô trong nước. Cây cà phê cũng  
đã ự nhiên ở bán đảo Ai Cập và từ đó trong suốt thế kỷ XI, cà phê đã  
được phát triển thành một dạng đồ uống nóng.  
Cà phê cũng đã du nhập vào Châu Âu trong khoản thời gian này thông  
qua thành phố Venice và đến châu Mỹ La Tinh sau đó nhiều thập kỷ, khi một  
người Pháp mua một cành cà phê mang đến Martinique. Brazin đã nổi lên như  
một nơi sản xuất cà phê đứng đầu trên thế giới và là danh hiệu đó vẫn còn đến  
hôm nay.  
5
1.1.1.2 Qúa trình ra đời và phát triển cây cà phê ở Việt Nam  
Cà phê được đưa vào trồng ở Việt Nam từ năm 1857, trước hết là ở một  
số nhà thtại Hà Nam, Quảng Bình, Kontum... Tới đầu thế kỷ XX trở đi thì  
cây cà phê mới được trồng trên quy mô tương đối lớn của các chủ đồn điền  
người Pháp với tổng diện tích không quá vài ngàn hecta.  
Sau cách mạng tháng Tám, diện tích cà phê ở miền Bắc được phát triển  
thêm tại một số nông trường quốc doanh và thời kỳ có diện tích cao nhất là trên  
10.000 ha vào năm 1963 – 1964. Cà phê trồng ở miền Bắc trong những năm  
trước đây chủ yếu là cà phê chè (Coffea arabica), năng suất thường đạt từ 400 -  
600 kg/ha, có một số điển hình thâm canh tốt đã đạt trên 1 tấn/ha. Ở miền Nam  
trước ngày giải phóng, vào năm 1975 diện tích cà phê có khoảng 10.000 ha.  
Diện tích trồng cà phê ở miềm Nam trong thời kỳ này chủ yếu là giống cà phê  
vối (Canephora robusta). Năng suất cà phê vối trong thời kỳ này thường đạt  
trên dưới 1 tấn/ha.  
Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây nguyên  
nhờ có vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước: Liên xô cũ,  
CHDC Đức, Bungary, Tiệp khắc và Ba lan, đến năm 1990 đã có 119.300 ha.  
Ngày nay tronchế quản lý mới, được áp dụng đồng bộ các tiến bộ  
kỹ thuật cho nên năng suất đã tăng lên rất nhanh. Đến nay, diện tích cà phê trên  
cả nước 521.000 ha và sản lượng khoảng trên 900.000 tấn và Việt Nam trở  
thành nước uất khẩu cà phê đứng thứ 2 trên thế giới. Cà phê trồng ở nước ta  
ồm cà phê vối (Robusta) chiếm 90% diện tích, cà phê chè (Arabica)  
10% và cà phê mít (Excelsa) 1%.  
1.1.2 Vị trí, giá trị kinh tế của cây cà phê  
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 70% dân số sống ở vùng nông  
thôn và miền núi cao nguyên. Nên việc phát triển ngành nông nghiệp để tạo  
ng ăn việc làm cho người lao động ở nhưng khu vực đó là vấn đề hết sức có  
ý nghĩa.  
6
Cây cà phê được xem là cây công nghiệp lâu năm không những có giá  
trị về mặt kinh tế mà còn có tác dụng rất lờn về nhiều mặt của xã hội và tạo  
công ăn việc làm ổn định, đặc biệt góp phần vào việc giảm tình trạng du canh,  
du cư ở những miền núi cao nguyên. Sản phẩm cà phê chủ yếu là hạt, Việt  
Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu sang các nước phát triển cà phê dưới dạng cà phê  
nhân thô chưa qua chế biến. Tuy vậy, cà phê lại là nguồn xuất khẩu quan trọng  
đóng góp một tỷ trọng không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.  
Cà phê hiện nay là nguồn thu nhập chính trong đời sống của đa số hộ đồng bào  
các dân tộc ở Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng, là mặt hàng chiếm  
ti trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Đắk Lắk mỗi năm. Chúng ta đã  
xây dựng được những thương hiệu nổi tiếng như Trung Nguyên, Cà phê  
Moment, cà phê Buôn Ma Thuột...  
Được biết Ngành sản xuất cà phê Việt Nam là nguồn thu nhập quan  
trọng của 600 nghìn lao động và hơn 1 triệu người sống nhờ vào các hoạt động  
sản xuất kinh doanh có liên quan đến cây cà phê.  
1.1.3 Tác dụng của cây cà phê đối với chương trình xoá đói giảm nghèo  
nông thôn cao nguyên và miền núi  
Khi nói đến vị ủa cây cà phê trong cơ cấu cây trồng ở miền núi cũng  
như ở các khu vực khác thì thường nêu lên những giá trị kinh tế mà nó đem lại  
như: Góp phần định canh định cư cho đồng bào dân tộc ít người, tạo công ăn  
việc làm, lm giàu cho kinh tế hộ, phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ môi  
trưo cảnh quan xanh đẹp… và thực tế ở một số nơi đã thoát nghèo và làm  
giàu từ chính cây cà phê đem lại.  
Tuy nhiên không phải nơi nào, vùng đất nào, cũng có thể lấy cà phê làm  
cây trồng chính để mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn. Người ta thường  
ví Cà phê là cây của “người giàu”, nghĩa là khâu chăm sóc kỹ thuật rất quan  
trọng. Nó đòi hỏi người trồng phải có đủ vốn đầu tư cộng thêm những hiểu biết  
về kỹ thuật, chăm sóc thu hoạch phải đầy đủ có như thế mới phát huy hiệu quả  
của nó đem lại. Chính vì thế mà có những hộ nông dân nghèo không có đủ vốn  
7
thì tác dụng cà phê đem lại là điều ngược lại. Do đó để phát triển tốt cà phê, rõ  
ràng về phía Nhà nước cần phải có một chương trình đồng bộ, hoàn chỉnh cho  
nông dân từ sản xuất đến chế biến, đến tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay vai trò các  
công ty, doanh nghiệp cà phê đóng một vị trí quan trọng, chính những đơn vị  
này sẽ là cầu nối giúp người nông dân phát triển kinh tế.  
1.1.4 Khái niệm, ý nghĩa và bản chất của hiệu quả kinh tế  
1.1.4.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế  
Hiệu quả là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện  
các mục hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó  
trong những điều kiện nhất định. Nói cách khác, kết quả mà chủ thể nhận được  
theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí bỏ ra bao  
nhiêu thì có lời bấy nhiêu. Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá các  
phương án hành động và được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau.  
Hiệu quả tổng hợp là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện nhiều  
mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi  
phí để có được những kết quả đó.  
Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị  
chi phí đầu vào hay nn lực sử dụng vào sản xuất trong những điều kiện cụ  
thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng vào sản xuất nông nghiệp.  
Hiệu quả phân bổ là giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí chi  
thêm về đầvào hay nguồn lực. Thực chất nó là hiệu quả kỹ thuật có tính đến  
các ố giá sản phẩm và giá đầu vào.  
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu  
quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là phần thu thêm trên một  
đơn vị đầu tư thêm đạt được chỉ khi hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ là  
tối đa, có nghĩa là cả yếu tố giá trị và hiện vật tính đến khi xem xét việc sử  
dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Vậy muốn đạt được hiệu quả kinh tế thì  
phải đạt đồng thời cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ.  
8
Sơ đồ minh họa cho khái niệm hiệu quả kinh tế:  
Giả sử có 4 nông trại sản xuất nông nghiệp là A, B, C, D quá trình sản  
xuất chỉ sử dụng 2 yếu tố đầu vào là X1 ,X2 để cùng sản xuất ra một mức sản  
lượng Q0.  
Trong đó: Q0  
- Là sản lượng đầu ra  
Q0Q0 - Là đường đồng lượng  
P1P2  
Q0  
- Là đường đồng phí  
X2  
P2  
D
C
R
A
B
Q0  
0
X1  
P1  
Sơ đồ 1: Hiệu quả kinh tế, Hiệu quả kỹ thuật, Hiệu quả phân bổ  
Từ sơ đồ trên tấy:  
TE=OC/OD Hiệu quả kỹ thuật  
TINE=CD/OD Phi hiệu quả kỹ thuật  
AE=R/OC  
Hiệu quả phân bổ  
INE=RC/OC Phi hiệu quả phân bổ  
Vậy ta có: EE = OR/OD = OC/OD* OR/OC=TE*AE  
Hiệu quả kinh tế = Hiệu quả kỹ thuật *Hiệu quả phân bổ  
Qua kết quả trên cho được thì trang trại A đạt hiệu quả kinh tế, trang trại  
B, C đạt hiệu quả kỹ thuật còn trang trại D không đạt hiệu quả vì cùng một  
mức sản lượng là Q0 giống trang trại C, nhưng trang trại D còn phải lãng phí  
thêm một khoảng là DC mới đạt mức sản lượng giống trang trại C.  
9
1.1.4.2 Ý nghĩa và bản chất của hiệu quả kinh tế  
Bản chất của việc phân tích hiệu quả là so sánh giữa chi phí và kết quả  
theo những mục tiêu nhất định được biểu hiện dưới dạng hiện vật. Đó là số  
lượng, chất lượng của những sản phẩm dịch vụ đầu vào và đầu ra. Những sản  
phẩm này không thể so sánh trực tiếp với nhau nên những chi phí, lợi ích cần  
được tính ra giá trị tương đương. Muốn vậy phải thông qua giá cả, là nhân tố  
quyết định trong tính toán hiệu quả kinh tế.  
Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong việc sử dụng hai yếu tố cơ  
bản trong sản xuất kinh doanh đó là yếu tố nguồn lực và giá trị trong việc sử  
dụng các yếu tố nguồn lực.  
Yếu tố nguồn lực (yếu tố đầu vào): Chi phí trung gian, lao động sống,  
khấu hao tài sản, thuế ...  
Yếu tố giá trị (yếu tố đầu ra ): Số lượng, giá trị sản phẩm, giá trị sản  
xuất, thu nhập, lợi nhuận, giá trị gia tăng…  
Bản chất của hiệu quả kinh tế là mối tương quan so sánh tương đối và  
tuyệt đối giữa lượng kết quả thu được với lượng chi phí bỏ ra. Vì thế, việc xác  
định các yếu tố đầu vào trong đánh giá hiệu quả kinh tế là gặp phải những khó  
khăn bởi nhưng yếu liệu sản xuất khi tham gia vào quá trình sản xuất và  
những yếu tố phi vật chất như chính sách môi trường, công nghệ, nó đòi hỏi  
phải toàn diện.  
Do có thể nói trên bình diện xã hội, thước đo của hiệu quả là mức độ  
tối á trên một đơn vị hao phí lao động xã hội tối thiểu. Chỉ khi nào việc sử  
dụng các yếu tố nguồn lực đạt được cả chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả  
phân bổ mới đạt được hiệu quả kinh tế trong sản xuất.  
1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN  
1.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thcà phê ở nước ta  
Việt Nam được chia thành hai vùng khí hậu phù hợp cho sản xuất cà phê.  
Vùng Tây Nguyên và tỉnh Đồng Nai có đất đỏ bazan, rất thuận lợi để trồng cà  
phê vối và các tỉnh miền Bắc, với độ cao phù hợp (khoảng 600-800m) phù hợp  
10  
với cà phê chè. Việt Nam trồng hai loại cà phê chính: cà phê vối và cà phê chè,  
trong đó diện tích cà phê vối chiếm tới hơn 95% tổng diện tích gieo trồng.  
Cà phê chủ yếu được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc và Tây Nguyên.  
Diện tích cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên, tại các tỉnh như Đắk  
Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà phê vối. Diện  
tích cà phê của khu vực này chiếm tới 72% tổng diện tích cả nước và sản lượng  
cũng chiếm khoảng 92% tổng sản lượng cả nước. Cà phê chè trồng chủ yếu ở  
vùng Nam Trung Bộ, vùng núi phía Bắc do các vùng này ở vùng cao hơn,  
nhưng với diện tích và sản lượng rất khiêm tốn, tập trung nhiều ở các tỉnh  
Quảng Trị, Sơn La và Điện Biên.  
Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tănlên trên 20%/năm (và các  
năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là  
48,5%, 45,8% và 33%). Tăng trưởng cà phê Việt Nam những năm đầu thập  
niên 90 chủ yếu dựa trên tăng diện tích. Sau đó, tăng năng suất trở thành yếu tố  
chính đóng góp cho tăng trưởng sản lượng cà phê ở Việt Nam. Cùng với xu  
hướng đó, cà phê dần trở thành mặt hàng nông sản quan trọng của Việt Nam  
trong thập kỷ 90 chỉ trong vòng 7 năm, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu  
cà phê đứng thứ 2, sarazin với diện tích cà phê lên tới 520.000 ha đạt mức  
sản lượng 900.000 tấn.  
Trong 10 năm trở lại đây Ngành cà phê đã có những bước phát triển  
nhanh chóđưa sản lượng cà phê tăng lên hàng trăm lần. Hội nhập kinh tế  
quã tạo ra những cơ hội lớn cho ngành nông nghiệp nước ta phát huy lợi  
thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái để phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh  
cao như cà phê.  
Xem xét diễn biến tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam qua các niên vụ  
2005/2006 - 2007/2008 gần đây có thể thấy được sự tăng trưởng nhanh chóng  
cả về sản lượng lẫn kim ngạch xuất khẩu bên cạnh sự biến động về giá cả.  
Trong niên vụ 2005/2006 cả nước xuất khẩu 775.458 tấn (12,9 triệu  
bao), giảm 7,3% so với năm trước và tăng 35% về trị giá xuất khẩu với kim  
11  
ngạch xuất khẩu đạt 1,40 tỷ USD. Sở dĩ sản lượng cà phê giảm xuống là do cà  
phê mất mùa vì thời tiết khô hạn kéo dài, cây cà phê sinh trưởng và phát dục  
khó khăn. Tiếp đến niên vụ 2006/2007, sản lượng xuất khẩu tăng 74% so với  
niên vụ 2005/2006, đạt 1.200.000 tấn với kim ngạch xuất khẩu cà phê cả nước  
đã đạt 1,50 tỷ USD.  
Bảng 1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu niên vụ từ 2005-2009  
Chỉ tiêu  
ĐVT  
Niên vụ  
Niên vụ  
Niên vụ  
Niên vụ  
2005/2006 2006/2007 2007/2008 2008/2009  
Khối lượng  
Tấn  
775.458  
1,40  
1.200.000  
1,50  
1.077.375  
2,09  
954.000  
1,95  
Kim ngạch Tỷ USD  
Ngun : Tổng cục thống kê 2009  
Điều đó đã cho thấy, cây cà phê ngày càng chứng tỏ thế mạnh của mình  
trong sản xuất nông nghiệp. Trong niên vụ 2007/2008, cả nước xuất khẩu được  
1.077.375 tấn cà phê nhân giảm chút ít về lượng so với niên vụ 2006/2007  
nhưng tăng 31% về giá trị, đạt giá trị kim ngạch khoảng trên 2,09 tỷ USD. Đây  
cũng là năm đạt kim ngạch xuất khẩu cà phê cao nhất từ trước đến nay. Giá  
xuất khẩu bình quân đạt 1.937 USD/tấn, tăng 16% so với niên vụ trước. Do giá  
cà phê thế giới tăng cao nên giá bán cà phê trong nước đạt mức bình quân  
29.000-30.000đ/kg, có thời điểm đạt gần 40.000đ/kg. Với mức giá này, người  
sản xuất bù đắp được chi phí và sản xuất có lãi. Điều đáng chú ý là trong niên  
vc doanh nghiệp đã phối hợp với nhau khá tốt, bán rải đều cà phê trong  
suốt nên vụ nên không để xảy ra tình trạng đầu vụ bán và giao hàng ồ ạt gây  
tác động xấu tới thị trường, tránh tình trạng bị khách hàng ép giá.  
Mặc dù chịu ảnh hưởng của sản lượng thế giới tăng, cộng thêm tác động  
xấu của thị trường tài chính thế giới và suy thoái của nền kinh tế Mỹ. Tuy vậy  
niên vụ 2008/2009 vẫn xuất khẩu được 954.000 tấn, đạt kim ngạch 1,95 tỷ  
USD (giảm 22,4% về lượng, nhưng tăng 2,1% về giá trị so với cùng kỳ năm  
2007). Tính trung bình cả năm 2008, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt  
12  
2.044 USD/tấn, tăng 31% so với năm 2007, trong đó lúc lên đỉnh điểm là  
2.240 USD/tấn.  
Tuy nhiên, điều đáng buồn là giá cà phê xuất khẩu lại liên tục rớt mạnh,  
đặc biệt là từ cuối quý I đầu quý II giá tụt thê thảm khiến mức giá trung bình  
xuất khẩu của 11 tháng giảm khoảng 350 USD/tấn so với cùng kỳ. Nguyên  
nhân giá cà phê xuống thấp, ngoài tác động của khủng hoảng tài chính và suy  
thoái kinh tế toàn cầu, yếu tố đầu cơ của các quỹ đầu tư, còn nguyên nhân quan  
trọng là trong thời gian 8 tháng đầu vụ 2008/2009 các nước xuất khẩu cà phê  
đã xuất 65,7 triệu bao so với 63,8 triệu bao cùng kỳ vụ trước. Chính vì được  
cung cấp dồi dào, lượng dự trữ của các nhà rang xay đã đủ nên giá cà phê  
không giữ được ở mức cao.  
Theo Vicofa, qua diễn biến giá cả của vụ 2008/2009 cũng lộ ra những  
điểm yếu của ngành cà phê Việt Nam, đặc biệt là chúng ta chưa có chiến lược  
chủ động trong khâu tiêu thụ sản phẩm. “Vào đầu vụ chúng ta đã xuất ra một  
lượng khá lớn cà phê nên không giữ được giá. Việc xuất khẩu chưa có sự điều  
hành thống nhất trong khi nông dân cần tiền để trang trải cho các nhu cầu về  
đời sống và sản xuất.  
Nhìn lại tình hNgành cà phê Việt Nam những năm qua chúng ta thấy  
rõ sự phát triển đạt tốc độ rất cao đáng ca ngợi, tự hào và thị trường xuất khẩu  
cà phê Việt Nam ra thế giới ngày càng mở rộng. Hiện nay, cả nước có khoảng  
520.000 ha à phê (riêng các tỉnh Tây Nguyên chiếm 90% diện tích). Hiệp hội  
Ca cao Việt Nam dự báo, xuất khẩu cà phê Việt Nam trong năm 2009  
ước đạt 980.000 tấn với giá trung bình khoảng 1.800 USD/Tấn, tương đương  
với kim ngạch khoảng 1,764 tỷ USD, giảm 8,6% về lượng và giảm 17,4% về  
trị giá so với năm 2008. Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam ngày càng  
mở rộng, ngoài các nước ở châu Âu và Hoa Kỳ, cà phê Việt Nam còn xuất  
khẩu sang vùng Trung Cận Đông, châu Phi, một số nước trong Hiệp hội  
ASEAN và vùng Trung Mỹ. Trong đó phải kể đến 10 nước nhập khẩu hàng  
đầu cà phê Việt Nam gồm: Bỉ, Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Italia, Ba Lan,  
13  
Pháp, Hàn Quốc, Anh, Nhật Bản. Trong nhóm 10 nước này chiếm thị phần rất  
lớn khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam.  
Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, trong 10 tháng đầu năm  
2009 xuất khẩu cà phê của cả nước đạt 942.000 tấn với kim ngạch 1,39 tỷ  
USD, tăng 17,4% về lượng nhưng vẫn giảm 17,1% về trị giá so với cùng kỳ  
năm 2008. Những số liệu cho thấy nếu như năm 2008, Hoa Kỳ - thị trường giữ  
vị trí quán quân về thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam, thì sang năm  
2009 và cụ thể là 10 tháng đầu năm 2009 đã nhường vị trí này cho thị trường  
Bỉ và đứng thứ 3 về thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam.  
Trong 10 tháng đầu năm 2009, Bỉ là thị trường dẫn đầu nhập khẩu cà  
phê của Việt Nam, với lượng nhập 123.786 tấn, tị giá 179.020 nghìn USD,  
tăng 171,32% về lượng và tăng 85,56% về trị giá so với cùng kỳ năm trước;  
tiếp đến là thị trường Đức, với lượng nhập 105.429 tấn, trị giá 156.409 nghìn  
USD, tăng 3,92% về lượng, nhưng giảm 27,20% về trị giá; đứng thứ 3 là thị  
trường Mỹ, với lượng nhập 97.477 tấn, trị giá 147.828 nghìn USD, tăng  
24,07% về lượng và giảm 9,55% về trị giá. Đứng thứ 4 là thị trường Ialia với  
lượng nhập 86.754 tấn, trị giá 129.447 nghìn USD, tăng 40,60% về lượng và  
giảm 0,26% về trị giếp đến là các thị trường như Tây Ban Nha, Pháp,  
Philippine, Malaxia, Trung Quốc,...  
Đáng chú ý trong 10 tháng đầu năm 2009, xuất khẩu cà phê của Việt  
Nam sang trường Ấn Độ tăng mạnh, tăng 259,51% về lượng và 153,40% về  
trới lượng xuất 12.094 tấn, trị giá 17.003 nghìn USD.  
Tuy nước ta có sản lượng xuất khẩu cà phê là lớn và có thị trường xuất  
khẩu khá rộng trên thế giới, nhưng cà phê Việt Nam xuất khẩu mới chỉ ở dạng  
xuất khẩu thô. Xuất khẩu cà phê thô chưa tinh chế chiếm tới 95% trong tổng  
sản lượng xuất khẩu, do đó giá trị đem lại là không cao.  
14  
Bảng 2: Thị trường xuất khẩu cà phê trong tháng 10 và 10 tháng năm 2009  
So với 10T/08  
10T/09  
(%)  
Nước  
Lượng  
(Tấn)  
Trị giá  
(Tỷ USD)  
179.020  
156.409  
147.828  
129.447  
99.083  
82.670  
44.021  
38.862  
36.288  
33.753  
23.670  
24.965  
24.531  
18.992  
18.263  
17.003  
16.555  
12.858  
9.690  
Lượng  
(Tấn)  
171,32  
3,92  
Trị giá  
(Tỷ USD)  
85,56  
Bỉ  
Đức  
123.786  
105.429  
97.477  
86.754  
67.622  
52.559  
30.686  
26.221  
24.889  
22.898  
16.657  
16.495  
438  
12.998  
12.412  
12.094  
11.162  
8.938  
-27,20  
-9,55  
Mỹ  
24,07  
40,60  
13,41  
4,32  
Italia  
-0,26  
Tây Ban Nha  
Nhật Bản  
Hà Lan  
Hàn Quốc  
Anh  
-21,27  
-25,99  
83,11  
169,08  
-23,21  
-9,75  
23,55  
64,82  
-23,26  
14,21  
12,64  
-31,40  
259,51  
-20,93  
-4,74  
*
-44,31  
-36,55  
-10,93  
4,37  
Pháp  
Philippine  
Thụy Sĩ  
Malaixia  
Trung Quốc  
Singapore  
độ  
-39,67  
-20,40  
-17,66  
-51,90  
153,40  
-43,46  
-34,14  
*
ga  
Ba Lan  
Mehico  
6.995  
Nguồn: Tổng cục thống kê 2009  
Vì vậy mà ngành cà phê cần phải có biện pháp nhằm nâng cao sản xuất  
cà phê tinh chế và xây dựng cho cà phê những thương hiệu vững chắc để có thể  
đứng vững và cạnh tranh lâu dài trên thị trường thế giới.  
15  
1.2.2 Tình hình sản xuất cà phê trên địa bàn nghiên cứu  
1.2.2.1 Tình hình sản xuất cà phê ở tỉnh Đắk Lắk  
Đắk Lắk được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho nguồn tài nguyên đất khá  
dồi dào, trong đó có 311.000 héc-ta đất đỏ Bazan, chiếm 55,6% tổng diện tích  
đất đỏ bazan toàn Tây Nguyên, điều kiện sinh thái khá thuận lợi cho phát triển  
các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu...  
Nhận thức được những tiềm năng, lợi thế đó từ sau ngày giải phóng, tỉnh Đắk  
Lắk luôn chú trọng đến việc phát triển nhanh cây cà phê cả về quy mô, số  
lượng cũng như chất lượng và xác định đây là cây công nghiệp chủ lực của địa  
phương. Số liệu điều tra được thể hiện qua bảng 3 như sau:  
Bảng 3: Diện tích và sản lượng thu hoạch cà phê của toàn Tỉnh  
Chỉ tiêu  
ĐVT  
Niên vụ  
(2003/2004)  
165.500  
Niên vụ  
(2006/2007)  
178.900  
Niên vụ  
(2008/2009)  
178.196  
Diện tích  
Ha  
Sản lượng  
Tấn  
284.000  
450.000  
415.494  
Nguồn: Tổng cục thống kê Đắk Lắk 2008  
Năm 1975, toàn Tỉnh chỉ có trên 3.700 ha cà phê, năm 1985 tăng lên  
15.000 ha, năm 1990 l6.000 ha. Có thể nói trong 6 năm trở lại đây khi giá cà  
phê trên thị trường có chiều hướng tích cực thì diện tích cây cà phê ở trong  
Tỉnh cũng biến động theo chiều hướng gia tăng.  
ua biểu đồ cho ta thấy được nếu trong niên vụ 2003/2004 toàn Tỉnh chỉ  
có 16500 ha, thì đến sau 2 năm tiếp theo là niên vụ 2006/2007 diện tích đã  
tăng lên thêm 13.000 ha tương đương với diện tích là 178.900 ha. Sự tăng lên  
quá nhanh về diện tích không chỉ dừng lại ở con số đó mà kết qủa là đến niên  
vụ 2008/2009 diện tích trồng cà phê của tỉnh là 178.196 ha, bình quân mỗi năm  
tăng 2.400 ha.  
16  
450000  
400000  
350000  
300000  
250000  
200000  
150000  
100000  
50000  
0
Diện tích  
Sản lượng  
2003/2004 2006/2007 2008/2009  
Biểu đồ 1: Biểu đồ diện tích và sản lượng cà phê tỉnh Đắk Lắk qua các  
niên vụ  
(2003/2004, 2006/2007, 2008/2009)  
Đồng thời sản lượng cũng có phần tăng lên, nếu trong niên vụ  
2003/2004 là 284.000 tấn tiếp đến đầu năm 2006 giá cà phê thế giới tăng khá  
nhanh cùng với thời tiết khá thuận lợi, mưa đều, không xảy ra hạn hán và sâu  
bệnh. Nên năng suất và sản lượng cà phê của Đắk Lắk tính hết niên vụ  
2006/2007 tăng lên h 450.000 tấn, đây được coi là niên vụ đạt cao nhất  
của Đắk Lắk. Với giá thành sản xuất khoảng 10.000 đồng/kg cà phê nhân thì  
đây được đánh giá là vụ cà phê người nông dân thu lợi nhuận cao nhất kể từ  
năm 1998 ở lại đây. Và niên vụ 2008/2009 vừa rồi sản lượng thu được  
415tấn nhưng lại là vụ cà phê giá bán thấp nhất, chỉ trên dưới 25.000  
đồng/kg, thấp hơn niên vụ trước 22%. Sản lượng xuất khẩu đạt 326.738 tấn,  
tăng 6% nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt gần 500 triệu USD, giảm hơn 21%  
so với niên vụ trước.  
Cùng với tăng nhanh về diện tích, việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật  
thâm canh như: chọn giống, bón phân, tưới nước, tạo tán,... đã làm năng suất và  
sản lượng cà phê tăng mạnh. Trước năm 1990, năng suất bình quân cà phê kinh  
doanh chỉ đạt 8 tạ - 9 tạ nhân/ha/năm, đến năm 1994 năng suất đạt 18,5 tạ/ha.  
17  
Những năm qua năng suất bình quân đạt 25 tạ - 28 tạ/ha/năm; cá biệt ở một số  
vùng sản xuất đã cho năng suất bình quân đạt 35 tạ - 40 tạ/ha, vườn cà phê của  
một số hộ gia đình đạt trên 50 tạ/ha. Hàng năm, sản lượng cà phê nhân của  
Tỉnh bình quân đạt 430.000 tấn; cà phê qua chế biến rang xay đạt trên 15.000  
tấn và cà phê hòa tan trên 1.000 tấn. Hơn 90% sản lượng cà phê ở Đắk Lắk  
dành cho xuất khẩu tới 56 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu đạt  
hơn 600 triệu USD/năm, chiếm gần 90% tổng kim ngạch xuất khẩu và đóng  
góp hơn 40% GDP của Tỉnh, tạo việc làm ổn định cho 400 nghìn lao động.  
Chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là trên 33 thị trường truyền thống, trong đó có 10  
nước có kim ngạch nhập khẩu trên 10 triệu USD, chiếm 70% tổng số lượng cà  
phê xuất khẩu của tỉnh (tương đương với 228451 tn) như: Nhật Bản trên 65,3  
triệu USD, Đức 59,9 triệu USD, Italia 48,2 triệu USD,....  
Sản xuất cà phê bền vững, cho chất lượng cao đang là mục tiêu mà các  
doanh nghiệp và nhóm hộ nông dân ở Đắk Lắk hướng tới. Trong tổng số 30  
doanh nghiệp sản xuất cà phê trên địa bàn Đắk Lắk, hiện có 5 doanh nghiệp sản  
xuất được cấp chứng chỉ “Sản xuất cà phê bền vững và có trách nhiệm” theo bộ  
tiêu chuẩn UTZ, gồm các công ty cà phê: Ea Pốk, Thắng Lợi, Tháng Mười và  
Krông Ana, đặc biệt ông ty cà phê Phước An. Ngoài việc đẩy mạnh xuất  
khẩu, các doanh nghiệp cà phê của Đắk Lắk còn chú trọng đến việc mở rộng thị  
trường tiêu thụ cà phê nội địa, theo tính toán của các doanh nghiệp thì trong  
niên vụ vừqua, tổng số lượng cà phê tiêu thụ nội địa của các doanh nghiệp  
tỉnh Lắk đạt 77.662 tấn, tăng 61% so với niên vụ trước và chiếm khoảng  
18,7% tổng sản lượng cà phê nhân của tỉnh. Cũng trong niên vụ qua, các doanh  
nghiệp của tỉnh Đắk Lắk đã nhập khoảng 40 - 50 ngàn tấn cà phê của các tỉnh  
lân cận như Lâm Đồng, Đắk Nông và Gia Lai để chế biến.  
Sự phát triển nhanh về diện tích, năng suất, sản lượng cà phê đã đem lại  
lợi ích to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh và người trồng cà phê.  
Từ kết quả và thực tiễn trên, nhằm hướng tới phát triển cà phê bền vững trong  
thời kỳ mới, Tỉnh ủy Đắk Lắk vừa ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát  
18  
triển cà phê bền vững đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 với mục tiêu  
phát triển cà phê theo tiêu chí của thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột: ổn định  
về năng suất, sản lượng, chất lượng, phát triển cà phê phải gắn chặt với phát  
triển kinh tế, văn hóa - xã hội, du lịch, bảo vệ môi trường.  
1.2.2.2 Tình hình sản xuất cà phê tại huyện Krông Pắk – Đắk Lắk  
Krông Pắk là 1 trong 12 huyện của tỉnh Đắck Lắk, trung tâm huyện là  
Thtrấn Phước An. Hiện tại, huyện đang xây dựng khu công nghiệp phía Đông  
Nam Thị trấn Phước An. Được hưởng thế mạnh mà thiên nhiên đem tặng cho  
khu vục Đắk lắk, vì vậy mà huyện Krông Pắk được nằm giữa hai cao nguyên  
Buôn Ma Thuột và M’Đrắk, địa hình thoải theo hướng Tây Bắc – Đông Nam,  
có đồng bằng phù sa tốt để phát triển cây cà phê vnhiều lợi cây công nghiệp  
khác. Kinh tế Huyện chủ yếu là: trồng cây cà phê, hồ tiêu, cao su, đậu tương,  
điều, lúa, cơ khí sửa chữa, vật liệu xây dựng và chế biến lâm sản. Huyện có  
tuyến giao thông chính là quốc lộ 21 chạy qua.  
Krông Pk có lịch sử trồng cà phê từ những năm đầu thế kỷ XX. Năm  
1922 đã lập nhiều đồn điền cà phê tại Huyện, điển hình là đồn điền CaDa do  
người Pháp xây dựng, đây là một trong những nơi đầu tiên được du nhập cây cà  
phê với diện tích 4.00cà phê kinh doanh. Sau giải phóng 1954, số diện tích  
cà phê đó được giao lại theo quyết định số 109/QĐ-UB về việc thành lập Nông  
trường quốc doanh địa phương, lấy tên là Nông trường Phước An huyện Krông  
Pk (hiện ny là Công ty cà phê Phước An). Đến nay cây cà phê vẫn chiếm một  
vị tan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các nông trường  
quốc doanh.  
Hai  
Huyện Krông Pắk hôm nay đã phát triển theo chiều hướng đi lên.  
năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế của Krông Pắk luôn đứng trong nhóm  
dẫn đầu của Tỉnh. Năm 2007, thu ngân sách của huyện đạt gần 100 tỷ đồng.  
Thu nhập bình quân đạt gần 11 triệu đồng/người/năm. Kinh tế Krông Pắk đang  
được đánh giá là phát triển nhanh theo hướng bền vững, đa dạng  
.
19  
Hiện nay, tổng diện tích cà phê của huyện Krông Pắk khoảng trên 18.195  
ha cho tổng sản lượng trên 45.200 tấn, là địa phương thuộc diện có diện tích cà  
phê, sản lượng cà phê lớn nhất của tỉnh Đắk Lắk. Mỗi mùa thu hoạch cà phê,  
nhất là khi được mùa, được giá đối với người dân nơi đây như là dịp lễ hội. Chỉ  
ở một thị trấn như thị trần Phước An diện tích cà phê đã lên tới trên 3.800 ha,  
trong đó khoảng 1.400 ha là cà phê nhân dân, diện tích còn lại chủ yếu thuộc  
Công ty cà phê Phước An quản lý, số ít diện tích thuộc Nông trường khác.  
Có thể nói niềm vui không chỉ đến với những công nhân làm cà phê,  
những gia đình có diện tích gieo trồng, đối với mỗi người dân lao động nơi đây  
khi mùa thu hoạch cà phê đến họ lại có thêm công ăn việc làm, có thêm thu  
nhập, mỗi ngày công lao động thu hái cà phê lên đến cả trăm nghìn đồng. Cà  
phê vừa mang ý nghĩa kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt xã hội, góp phần làm thay  
đổi đời sống tạo sự ổn định cho nhiều người dân ở địa phương.  
1.3 TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA CÔNG TY CÀ PHÊ PHƯỚC AN,  
HUYỆN KRÔNG PẮK, TỈNH ĐẮK LẮK  
1.3.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty  
Công ty cà phê Phước An được xây dựng và phát triển trên vùng đất  
CADA. Với cao nguđất đỏ Bazan rộng lớn và khí hậu đặc trưng phù hợp  
cho cây cà phê phát triển. Công ty cà phê Phước An tiền thân là Nông trường  
cà phê Phước An thành lập năm 1977 là Doanh nghiệp nhà nước được thành  
lập theo qut định số 649/QĐ-UB ngày 27/10/1992 của UBND Tỉnh Đắk Lắk,  
Qunh đổi tên doanh nghiệp số 1044/QĐ-UB ngày 05/6/1996 của UBND  
Tỉnh Đắk Lắk.  
Trong hơn 30 năm qua, Công ty luôn được sự quan tâm của lãnh đạo  
Tỉnh ủy, UBND Tỉnh Đắk Lk và các ban ngành liên quan, cùng với sự nỗ lực  
và quyết tâm của toàn thể CBCNV của công ty đã không ngừng vươn lên phấn  
đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đạt kết quả cao trong kinh doanh, góp  
phần vào sự nghiệp phát triển của toàn Tỉnh.  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 79 trang yennguyen 04/04/2022 4080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán thuộc Công ty cà phê Phước An, huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_danh_gia_hieu_qua_kinh_te_san_xuat_ca_phe_cua_cac.pdf