Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại Bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018-2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT KHÂU THỦNG Ổ LOÉT HÀNH TÁ TRÀNG
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI GIAI ĐOẠN 2018-2019
Trần Hiếu Học1,2, Nguyễn Huy Du1 và Trần Quế Sơn1,2,
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Bạch Mai
Thủng ổ loét tá tràng là một trong những bệnh lý ngoại khoa thường gặp, cần mổ cấp cứu. Phẫu thuật nội soi
khâu thủng ngày càng phổ biến trên những đối tượng được lựa chọn mang lại kết quả tốt như nằm viện ngắn ngày, ít
đau, giảm nguy cơ dính ruột, nhiễm trùng vết mổ. Nghiên cứu nhằm mô tả kết quả mổ nội soi và mổ mở khâu thủng
ổ loét tá tràng bằng phương pháp mô tả hồi cứu các bệnh nhân được phẫu thuật tại Bệnh viện Bạch Mai trong 2
năm từ 1/2018 đến 12/2019. Kết quả: 93 bệnh nhân được phẫu thuật gồm 31 ca mổ mở và 62 ca mổ nội soi. Nhóm
mổ nội soi, loét non (72,6%), kích thước ổ loét từ 5-10mm (85,5%), khâu đơn thuần (77,3%), đính mạc nối (22,7%).
Nhóm mổ nội soi sử dụng ít dịch rửa hơn nhóm mổ mở. Thời gian mổ nội soi là 69,3 ± 20,1 phút, mổ mở là 59,7 ±
5,4 phút. Biến chứng sau mổ chỉ gặp ở nhóm mổ mở gồm 3 nhiễm trùng vết mổ, 1 rò vết khâu thủng và 1 nặng xin
về. Thời gian nằm viện nhóm mổ nội soi 6,0 ± 1,1 ngày và nhóm mổ mở 8,5 ± 4,0 ngày. Kết luận: phẫu thuật nội soi
là phương pháp điều trị hiệu quả thủng ổ loét hành tá tràng, nằm viện ngắn ngày, không có biến chứng và tử vong.
Từ khóa: loét hành tá tràng, thủng ổ loét, phẫu thuật mở, phẫu thuật nội soi.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thủng là một biến chứng đe dọa tính mạng
của bệnh loét dạ dày tá tràng và cần can thiệp
phẫu thuật ngay trong hầu hết các trường
hợp.1,2 Tỷ lệ thủng ổ loét tá tràng trên thế giới
khoảng 3,77-10/100.000 dân/năm. Hiện nay,
nhờ những tiến bộ khoa học đáng kể trong
lĩnh vực ngoại khoa và hồi sức, tỷ lệ tử vong ở
những bệnh nhân thủng ổ loét tá tràng đã giảm
còn từ 2,9% đến 9,1%.3,4 Điều trị thủng ổ loét tá
tràng trong những thập niên gần đây có nhiều
thay đổi. Những hiểu biết về sinh bệnh học của
loét hành đã thay đổi thái độ điều trị, phương
pháp khâu lỗ thủng ổ loét kèm điều trị nội khoa
được áp dụng đối với hầu hết những trường
hợp thủng ổ loét tá tràng.1,3
phẫu thuật nội soi và mổ mở. Mỗi phương pháp
lại có các ưu và nhược điểm riêng. Hiện nay
với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, phẫu
thuật nội soi (PTNS) ngày càng được sử dụng
rộng rãi trong điều trị thủng ổ loét tá tràng. Tuy
nhiên mổ mở cũng có một số ưu điểm như thời
gian phẫu thuật ngắn, có thể áp dụng trong hầu
hết các trường hợp, đặc biệt là các trường hợp
bệnh nhân nặng và có chống chỉ định của phẫu
thuật nội soi.4,5,6,7,8
Tại khoa Ngoại Bệnh viện Bạch Mai trong
nhiều thập kỷ qua có nhiều nghiên cứu về các
phương pháp điều trị thủng ổ loét tá tràng cả
về mổ mở cũng như mổ nội soi.9 Phẫu thuật
nội soi là phương pháp được áp dụng phổ biến
hiện nay, với nhiều ưu điểm như vết mổ nhỏ,
thời gian nằm viện ngắn, vết mổ ít đau, người
bệnh có nhu động ruột và phục hồi sau mổ sớm
hơn. Các bệnh nhân đến Bệnh viện Bạch Mai
thường kèm theo nhiều bệnh phối hợp và do
vậy, tùy theo tình trạng bệnh nhân, các phẫu
thuật viên sẽ áp dụng các phương pháp phẫu
Trong khâu lỗ thủng có hai phương pháp là
Tác giả liên hệ: Trần Quế Sơn
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: tranqueson@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 24/03/2021
Ngày được chấp nhận: 22/04/2021
TCNCYH 142 (6) - 2021
37
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
thuật nội soi hay mổ mở khâu lỗ thủng. Nghiên
cứu này nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật
khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại Bệnh viện
Bạch Mai giai đoạn từ 1/2018 đến 12/2019.
định lượng được tính và so sánh dưới dạng X ±
SD, thống kê tần số và tỷ lệ phần trăm với các
biến ngẫu nhiên.
4. Đạo đức nghiên cứu
Thông tin về bệnh tật của bệnh nhân được
bảo mật và chỉ được sử dụng cho mục đích
nghiên cứu.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bệnh nhân thủng ổ loét tá tràng, được mổ
khâu lỗ thủng tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng
1/2018 – tháng 12/2019.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung và chẩn đoán
Tiêu chuẩn lựa chọn: Các ca bệnh có hồ sơ
bệnh án đủ thông tin cần thiết cho nghiên cứu
lấy tại phòng lưu trữ hồ sơ Bệnh viện Bạch Mai,
được chẩn đoán sau mổ là thủng ổ loét hành tá
tràng, được phẫu thuật khâu lỗ thủng bằng phẫu
thuật nội soi hoặc mổ mở.
Có 93 bệnh nhân gồm 72 nam và 21 nữ
(nam/nữ = 3,4/1), tuổi trung bình 53,85 ± 19,35
(16 - 98), có 31 mổ mở (trong đó có 2 nội soi
chuyển mở), 62 mổ nội soi.
Độ tuổi ≥ 60 tuổi mổ mở chiếm ưu thế với
67,7% còn nhóm PTNS chủ yếu trong độ tuổi
lao động (20 – 60) với 67,8%.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân có hẹp môn
vị kèm theo, không có hồ sơ trên phòng lưu trữ
hoặc hồ sơ không có đủ thông tin cần thu thập.
Bệnh nội khoa kèm theo: nhóm mổ mở có
29/31 BN (93,5%), nhóm phẫu thuật nội soi có
tỷ lệ thấp hơn 27/62 (43,5%).
2. Phương pháp
Phương pháp nghiên cứu: mô tả hồi cứu, cỡ
mẫu thuận tiện.
Tiền sử viêm loét dạ dày – tá tràng: nhóm mổ
mở 16/31 (51,6%) và nhóm nội soi 18/62 (29,0%).
Thu thập thông tin từ bệnh án gốc vào mẫu
bệnh án nghiên cứu với các biến số được chia
theo nhóm mổ mở (bao gồm cả nội soi thăm dò
thấy không thể làm nội soi chuyển mổ mở) và
nội soi. Đặc điểm chung bao gồm tuổi và giới
tính, tiền sử nội ngoại khoa. Đặc điểm lâm sàng:
thời gian từ khi thủng đến khi mổ, dấu hiệu lâm
sàng, cận lâm sàng chính (xét nghiệm sinh hóa
huyết học, Xquang, siêu âm, cắt lớp vi tính. Kết
quả phẫu thuật: thời gian phẫu thuật, tình trạng
và kích thước ổ loét thủng, tình trạng ổ bụng,
phương pháp khâu lỗ thủng (khâu đơn thuần,
mũi rời hay chữ X, có hay không đắp mạc nối),
lượng dịch rửa, số lượng và vị trí dẫn lưu, tai
biến trong mổ và diễn biến, biến chứng sau mổ.
Lâm sàng khá điển hình: đau bụng dữ dội
đột ngột 66,5%; bụng co cứng toàn bộ nhóm
mổ mở 64,5%, nhóm nội soi 61,3% còn lại là
co cứng khu trú thượng vị hay nửa bụng phải.
Thời gian từ khi có dấu hiệu thủng đến khi
phẫu thuật từ 12 đến 24 giờ chiếm tỷ lệ cao
nhất với 60,2% tương đương giữa 2 nhóm.
Tình trạng toàn thân hầu như không có biến
đổi ở cả hai nhóm.
Bạch cầu tăng 100% trong nhóm mổ mở và
77,4% ở nhóm bệnh nhân phẫu thuật nội soi.
Xquang có liềm hơi dưới cơ hoành của
nhóm phẫu thuật nội soi là 72,6% tương đồng
với nhóm mổ mở là 70,1%.
Siêu âm ổ bụng có dịch khí tự do ổ bụng
chiếm đa số trong cả 2 nhóm phẫu thuật nội soi
(95,1%) và mổ mở (93,5%).
3. Xử lý số liệu
Thông tin được quản lý bằng phần mềm
SPSS 20.0 (SPSS Inc., Chicago, IL, USA). Biến
38
TCNCYH 142 (6) - 2021
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Chụp cắt lớp vi tính 14/31 BN nhóm mổ mở và 26/62 nhóm phẫu thuật nội soi đều có hình ảnh
dịch, khí tự do ổ bụng.
Phân loại ASA: nhóm mổ mở có ASA 3 và 4 chiếm 67,7% còn nhóm phẫu thuật nội soi có ASA 1
và 2 chiếm đa số 88,7%.
2. Đặc điểm trong mổ
Bảng 1. Đặc điểm lỗ thủng ổ loét hành tá tràng
Mổ mở (n = 31)
PTNS (n = 62)
Đặc điểm lỗ thủng
Mặt trước tá tràng
n
31
15
16
0
%
100
48,4
51,6
0
n
62
45
17
7
%
Vị trí
100
72,6
27,4
11,3
85,5
3,2
Ổ loét non
Ổ loét xơ chai
< 5mm
Đặc điểm
Kích thước
5 -10 mm
>10mm
29
2
93,5
6,5
53
2
100% có một lỗ thủng, tỷ lệ ổ loét non của nhóm phẫu thuật nội soi chiếm đa số 72,6%, kích thước
tương tự nhau ở cả hai nhóm.
Bảng 2. Tình trạng ổ bụng
Mổ mở (n = 31)
PTNS (n = 62)
Tình trạng ổ bụng
n
%
0
n
%
9,7
58
Sạch, ít dịch
Dịch bẩn, đục
Mủ, giả mạc
Tổng
0
6
13
18
31
41,9
58,1
100
36
20
62
32,3
100
Nhóm mổ mở ổ bụng có mủ và giả mạc nhiều hơn nhóm PTNS.
Bảng 3. Phương pháp khâu lỗ thủng
Mổ mở (n = 31)
Phương pháp
PTNS (n = 62)
n
%
n
%
Mũi chữ X đơn thuần
Mũi chữ X có đắp mạc nối
Khâu mũi rời
13
5
41,9
16,2
41,9
100
36
17
9
58,1
27,4
14,5
100
13
31
Tổng
62
Trong mổ nội soi, lỗ thủng thường được khâu bằng các mũi chữ X (85,5%), tỷ lệ này ở nhóm mổ
mở là 58,1%.
TCNCYH 142 (6) - 2021
39
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 4. Lượng dịch rửa ổ bụng
Mổ mở (n = 31)
PTNS (n = 62)
Lượng dịch rửa (ml)
n
(%)
(n = 62)
(%)
(n = 93)
(n = 31) (%) (n = 93)
n
Từ 1 – 3 lít
Từ 3 – 5 lít
Trên 5 lít
Tổng
3
21
7
9,6
67,8
22,6
100
3,2
22,6
7,6
39
23
0
62,9
37,1
0
41,9
24,7
0
31
33,3
62
100
66,7
Hầu hết lượng dịch sử dụng từ 1 – 5 lít chiếm 92,4%. Nhóm mổ mở sử dụng nhiều dịch rửa hơn
nhóm PTNS.
Số lượng và vị trí dẫn lưu: Phẫu thuật nội soi: thường đặt 2 dẫn lưu (dưới gan + douglas) chiếm
56,5%, có 11,3% thêm dẫn lưu dưới hoành trái còn 32,2% đặt 1 dẫn lưu dưới gan. Phẫu thuật mở:
58% đặt 1 dẫn lưu dưới gan và 42% đặt 2 dẫn lưu. Không có trường hợp nào đặt 3 dẫn lưu.
Thời gian phẫu thuật trung bình với nội soi là 69,3 ± 20,1 phút (35-150), mổ mở 59,7 ± 5,4 phút (60-
125). Thời gian nằm nội soi (6,0 ± 1,1 ngày) ngắn hơn thời gian nằm viện của mổ mở (8,45 ± 4 ngày).
Thời gian rút dẫn lưu thường vào ngày 4 - 5 sau mổ
Thời gian có trung tiện mổ nội soi nhanh hơn mổ mở: mổ nội soi 93,5% ngày thứ 2 và ngày thứ
3 là 6,5%, mổ mở vào ngày thứ 3 chiếm 67,7%, còn 22,6% trong 2 ngày đầu và 9,7% sau 3 ngày.
Bảng 5. Biến chứng sớm sau mổ
Mổ mở (n = 31)
PTNS (n = 62)
Biến chứng sớm
n
%
n
0
0
0
0
0
%
Chảy máu
0
3
0
1
1
0%
0%
0%
0%
0%
0%
Nhiễm trùng vết mổ
Áp xe dưới cơ hoành
Rò vị trí khâu lỗ thủng
Nặng xin về
9,7%
0%
3,2%
3,2%
Nhóm phẫu thuật nội soi không có biến chứng, nhóm mổ mở có 1 BN nặng xin về (3,2%) được
coi là tử vong sau mổ.
IV. BÀN LUẬN
soi (46,7%) và 3 chuyển mở (2,5%).1 Lunevicius
R và cộng sự (2005) có 60/222 phẫu thuật nội
soi (27%) và 162/222 mổ mở (73%).3 Phương
pháp phẫu thuật nội soi khâu lỗ thủng hành tá
tràng ngày càng được áp dụng phổ biến trên thế
giới vì giúp bệnh nhân phục hồi sớm sau mổ.
Kết quả cho thấy phẫu thuật nội soi chiếm
tỷ lệ cao 66,6% so với mổ mở 31,2% và 2 ca
chuyển mở, cao hơn so với một số nghiên cứu
khác trên thế giới. Stepannian SA và cộng sự
(2019) với 120 trường hợp, có 61 bệnh nhân
được phẫu thuật mở (50,8%), 56 phẫu thuật nội
40
TCNCYH 142 (6) - 2021
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Nghiên cứu cho thấy hướng phát triển đúng đắn
trong kĩ thuật phẫu thuật xử lý tổn thương. Các
trường hợp mổ mở của chúng tôi thường do có
các bệnh nội khoa kết hợp hoặc do khi phẫu
thuật nội soi thấy ổ bụng nhiều dịch đục và giả
mạc ở khắp ổ bụng khó xử lý triệt để nên phẫu
thuật viên đã quyết định chuyển mổ mở để xử trí
tổn thương nhanh chóng hơn, tránh nguy cơ sốc
nhiễm trùng, nhiễm độc.
người bệnh để tiên lượng cuộc mổ, lựa chọn
phương pháp điều trị, vừa giúp bệnh nhân được
giải quyết tổn thương nhanh chóng lại vừa triệt
để, ít để lại các biến chứng sau mổ.1,11 Có sự
khác biệt về lượng dịch rửa giữa 2 phương pháp
phẫu thuật, trong mổ mở thường sử dụng nhiều
hơn. Phẫu thuật nội soi có thể quan sát được rõ
các khoang chỉ cần bơm một lượng nước vừa
đủ là đã có thể rửa sạch những dịch bẩn nên có
thể tiết kiệm dịch rửa hơn so với mổ mở.
Về đặc điểm lỗ thủng ổ loét tá tràng thấy tất
cả các bệnh nhân chỉ có một lỗ thủng đơn thuần
và đều ở vị trí mặt trước hành tá tràng, không
có sự khác biệt trong hai nhóm kỹ thuật. Kết
quả này cũng tương tự với nhiều kết quả khác
nghiên cứu về thủng ổ loét hành tá tràng như
của Trần Mạnh Cường và Trần Bình Giang. 9,10
Nhóm mổ mở có tỷ lệ ổ loét non và xơ chai xấp
xỉ nhau (48,4% và 51,6%). Trong khi đó, nhóm
mổ nội soi tỷ lệ thủng ổ loét non chiếm 72,6%
nhiều hơn thủng ổ loét xơ chai (27,4%). Với 33
ca thủng ổ loét xơ chai thì 19 bệnh nhân được
khâu lỗ thủng bằng mũi chữ X có đắp mạc nối
và 14 khâu mũi rời.
Thời gian phẫu thuật rất được quan tâm,
được đề cập đến trong hầu hết các báo cáo
về phẫu thuật khâu lỗ thủng ổ loét da dày -
tá tràng. Trong nghiên cứu của chúng tôi thời
gian phẫu thuật nội soi trung bình là 69,3 ±
20,1 phút, không có sự chênh lệch nhiều so
với nhóm mổ mở 59,7 ± 5,4 phút. Thời gian
phẫu thuật nội soi tương đương của Trần
Mạnh Cường 62,63 ± 19,43, của Lunevicius
R là 76,2 ± 35,3 phút, của Rita Laforgia (2017)
là 72 phút.3,4,9 Tác giả Bergamaschi R và CS
(1999) thấy mổ mở nhanh hơn mổ nội soi (65
phút so với 92 phút, p < 0,01).13 Phẫu thuật nội
soi ngày càng được sử dụng thường quy nên
thời gian mổ được rút ngắn nhờ kinh nghiệm
của phẫu thuật viên.7,12
Hầu hết lỗ thủng kích thước 5 – 10mm (29/31
nhóm mổ mở và 53/62 nhóm mổ nội soi), chỉ 4
trường hợp > 10mm và đều được khâu mũi rời
(2 mổ mở và 2 mổ nội soi) đều diễn biến ổn định
sau mổ. Nguyễn Hữu Trí (2017) với 72 bệnh
nhân thì lỗ thủng trung bình 4,1 ± 2,6mm và
98,6% nhỏ hơn 10mm.12 Có thể thấy mặc dù
kĩ thuật khó nhưng các phẫu thuật viên có kinh
nghiệm vẫn có thể xử trí tốt tổn thương bằng
phẫu thuật nội soi. Kinh nghiệm của Siu cũng
thường khâu và đính mạc nối khi lỗ thủng lớn.1
Số lượng dịch rửa sử dụng ở nhóm mổ nội
soi ít hơn nhóm mổ mở (Bảng 4) vì trong phẫu
thuật nội soi khi bơm một lượng nước vào khu
trú một vùng rồi hút ra và có thể quan sát được
rõ các khoang. Do đó, chỉ cần bơm một lượng
nước vừa đủ là đã có thể rửa trôi đi những dịch
bẩn. Phẫu thuật nội soi có thể tiết kiệm dịch rửa
hơn so với mổ mở. Nguyễn Hữu Trí (2017) cũng
có lượng dịch rửa trung bình 1368,3 ± 758,2ml.12
Tình trạng ổ bụng nhóm mổ mở có phần
nghiêm trọng hơn so với nhóm được PTNS
(bảng 2) do bệnh nhân đến muộn hơn, ổ bụng
nhiều dịch và giả mạc, và nhất là bụng trướng
nhiều nên hạn chế chỉ định PTNS. Việc lựa chọn
phương án phẫu thuật đối với từng tổn thương
cụ thể là rất quan trọng. Đánh giá đúng tình trạng
Về vấn đề đặt dẫn lưu ổ bụng có nhiều ý kiến
khác nhau, có tác giả không đặt dẫn lưu, có tác
giả đặt một dẫn lưu dưới gan, có tác giả đặt hai
dẫn lưu dưới gan và Douglas, thậm chí có tác
giả còn đặt nhiều vị trí hơn nữa. Katkhouda N
và Siu WT chỉ rửa sạch ổ bụng mà không cần
TCNCYH 142 (6) - 2021
41
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
đặt dẫn lưu. 2,11 Nghiên cứu này cho thấy, đối
với phẫu thuật mở, các phẫu thuật viên có
thể kiểm soát được tổn thương tốt hơn nên
số dẫn lưu đặt ít hơn so với mổ nội soi. Có 7
trường hợp sau mổ nội soi phải đặt 3 dẫn lưu
là các trường hợp khắp ổ bụng nhiều dịch mủ
đục và giả mạc, quá trình rửa ổ bụng có khó
khăn, mất nhiều thời gian nên các phẫu thuật
viên đã đặt nhiều dẫn lưu để dễ dàng theo dõi
diễn biến sau mổ.
Đây là trường hợp có lỗ thủng lớn (> 10 mm),
mổ mở và khâu mũi rời. Vào ngày thứ 5 sau
mổ, dẫn lưu dưới gan ra dịch tiêu hóa nhưng
không có viêm phúc mạc nên bệnh nhân được
lưu dẫn lưu, điều trị nội chờ thời gian lành vị trí
bị rò. Theo Lenuvicius R thì tỷ lệ rò chỗ khâu
trong phẫu thuật nội soi là 6,9% và mổ mở là
2% - là nguyên nhân chính chỉ định mổ lại.
Tỷ lệ tử vong là 9% và tất cả đều là các bệnh
nhân trong nhóm mổ mở.3 Nghiên cứu của
Bergamaschi R có có 2 bệnh nhân tử vong,
chiếm tỷ lệ 11,8%.13 Chúng tôi có 1 trường
hợp xin về được coi như tử vong thuộc nhóm
mổ mở. Phân tích gộp của Quah G.S. thấy
không có sự khác nhau về tỷ lệ biến chứng
sau mổ giữa 2 nhóm mổ mở và nội soi.8
Thời gian nằm viện của nhóm phẫu thuật nội
soi là 6,0 ± 1,1 ngày (4 - 10 ngày) và với phẫu
thuật mở là 8,45 ± 4 ngày (4 – 28) cho thấy
mổ nội soi giúp người bệnh phục hồi nhanh và
có thể trở về với cuộc sống sinh hoạt thường
ngày sớm hơn. Hầu hết các tác giả cũng có kết
quả và nhận xét tương tự, như của Trần Mạnh
Cường có thời gian là 6,65 ± 1,63 ngày, hay
của tác giả Nguyễn Hữu Trí là 5,7 ± 1,2 ngày,
của Alijiohahi H là 5 ngày.5,9,12 Nghiên cứu của
Lanevicius R trên 226 bệnh nhân cho thấy thời
gian nằm viện sau PTNS là 7,8 ± 5,3 ngày còn
mổ mở là 10,3 ngày.3 Vakayil và cộng sự thực
hiện trên 616 bệnh nhân được điều trị thủng ổ
loét tá tràng bằng phương pháp nội soi so sánh
với nhóm chứng là 5644 bệnh nhân được phẫu
thuật mổ mở, kết quả cho thấy bệnh nhân được
phẫu thuật nội soi có thời gian nằm viện ngắn
hơn, tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ, biến chứng và
tử vong đều thấp hơn so với nhóm chứng là
nhóm được mổ mở.6 Laforgia R và cộng sự với
59 bệnh nhân gồm 38 mổ mở, 21 PTNS thì thời
gian nằm viện của phẫu thuật nội soi cũng ngắn
hơn (7,5 so 13,1 ngày).4
Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả chung
khá tốt với tỷ lệ tử vong và biến chứng thấp,
nhất là với nhóm mổ nội soi do có sự cân nhắc
chọn lựa bệnh nhân phù hợp chỉ định. Nghiên
cứu của Tân S dựa trên 549 bệnh nhân (279
PTNS và 270 mổ mở) cho thấy không có sự
khác biệt giữa hai phương pháp phẫu thuật này
trên một số yếu tố bao gồm tỷ lệ biến chứng
sau phẫu thuật, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ tái phát.14
Phẫu thuật nội soi đã cho thấy được lợi thế lớn
hơn so với mổ mở đó, thời gian trung tiện, ngày
nằm viện ít hơn so với mổ mở.7,8
V. KẾT LUẬN
Thủng ổ loét hành tá tràng được xử trí cấp
cứu bằng phương pháp mổ mở hay mổ nội soi
phụ thuộc vào một số yếu tố như tình trạng bệnh
nhân đến sớm hay muộn, ổ bụng nhiễm khuẩn và
giả mạc nhiều hay ít, cũng như nguy cơ của gây
mê hồi sức và phẫu thuật, kỹ năng mổ nội soi.
Phẫu thuật nội soi khâu ổ loét hành tá tràng thủng
mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh khi chỉ định
đúng và kỹ năng của phẫu thuật viên tốt với tỷ lệ
biến chứng và tử vong thấp. Do vậy, cần cân nhắc
để lựa chọn phương pháp điều trị cho thích hợp.
Nhìn chung tỷ lệ biến chứng sau mổ thấp và
chủ yếu gặp ở nhóm mổ mở, thường liên quan
đến thể trạng kém hơn, toàn trạng nặng hơn,
bệnh nhân đến muộn hơn. Đây cũng là lý do
khiến bệnh nhân trong nhóm này không thể áp
dụng mổ nội soi được. Chúng tôi ghi nhận có
một trường hợp rò tiêu hóa do bục chỗ khâu.
42
TCNCYH 142 (6) - 2021
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
7. Gouta EL, Dougaz W, Khalfallah M,
et al. Management of perforated duodenal
peptic ulcer treated by suture. Tunis Med.
2018;96(7):424-429.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cám ơn các bệnh
nhân trong nghiên cứu, các khoa phòng Bệnh
viện Bạch mai và Bộ môn Ngoại Trường Đại
học Y Hà Nội đã tạo điều kiện cho việc thực
hiện nghiên cứu.
8. Quah GS, Eslick GD, Cox MR. Laparo-
scopic Repair for Perforated Peptic Ulcer Dis-
ease Has Betá trànger Outcomes Than Open
Repair. J Gastrointest Surg. 2019;23(3):618-
625.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Stepanyan SA, Petrosyan AA, Safaryan
HH, et al. Laparoscopic and open repair for
perforated duodenal ulcer: single-center expe-
rience. Wideochir Inne Tech Maloinwazyjne.
2019: 14(1), 60-69.
9. Trần Mạnh Cường. Đánh giá kết quả điều
trị phẫu thuật nội soi thủng ổ loét hành tá tràng
tại bệnh viện Bạch Mai từ năm 2013-2018.
Luận văn bác sĩ chuyên khoa II, Đại học Y Hà
Nội; 2018.
2. Siu WT, Leong HT, Law BK, et al. Lap-
aroscopic repair for perforated peptic ulcer: a
randomized controlled trial. Ann Surg. 2002;
235(3):313-319.
10. Trần Bình Giang, Lê Việt Khánh,
Nguyễn Đức Tiến và cộng sự. Đánh giá khâu
lỗ thủng ổ loét dạ dày tá tràng qua soi ổ bụng
tại bệnh viện Việt Đức. Tạp chí Y học Việt
Nam. 2006:143 – 147.
3. Lunevicius R, Morkevicius M. Compar-
ison of laparoscopic versus open repair for
perforated duodenal ulcers. Surg Endosc.
2005;19(12):1565-1571.
11. Katkhouda N, Mavor E, Mason RJ, et al.
Laparoscopic repair of perforated duodenal ul-
cers: outcome and efficacy in 30 consecutive
patients. Arch Surg. 1999;134(8):845-848.
4. Laforgia R, Balducci G, Carbotá tràn-
ga G, et al. Laparoscopic and Open Surgical
Treatment in Gastroduodenal Perforations: Our
Experience. Surg Laparosc Endosc Percutan
Tech. 2017;27(2):113-115.
12. Nguyễn Hữu Trí. Nghiên cứu ứng dụng
phẫu thuật nội soi một cổng khâu lỗ thủng ổ loét
tá tràng. Luận án Tiến sỹ y học, Đại học Y Dược
Huế; 2017.
5. Aljohary H, Althani H, Elmabrok G, et
al. Outcome of laparoscopic repair of per-
forated duodenal ulcers. Singapore Med J.
2013;54(4):216-219.
13. Bergamaschi R, Marvik R, Johnsen G,
et al. Open vs laparoscopic repair of perforated
peptic ulcer. Surg Endosc. 1999;13(7):679-682.
14.TanS,WuG,ZhuangQ,etal.Laparoscopic
versus open repair for perforated peptic ulcer: A
meta analysis of randomized controlled trials. Int
J Surg. 2016;33 Pt A:124-132.
6. Vakayil V, Bauman B, Joppru K, et al.
Surgical repair of perforated peptic ulcers: lap-
aroscopic versus open approach. Surg Endosc.
2019;33(1):281-292.
TCNCYH 142 (6) - 2021
43
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Summary
SURGICAL RESULTS FOR REPAIR OF PERFORATED DUODENAL
ULCER AT BACHMAI HOSPITAL
Perforation of duodenal ulcers is one of the common diseases that require emergency operation.
Laparoscopic treatment is increasingly popular on selected subjects with good results such as short
hospital stay, less pain, reduced risk of intestinal adhesions and wound infection. The purpose of
this study is to compare the results of laparoscopic surgery and open method to repair perforated
duodenal ulcers by retrospective description method of patients at Bach Mai Hospital for 2 years
from 1/2018 to 12/2019. Results: from 93 patients, 31 had open operations and 62 laparoscopic
surgeries. Patients in the laparoscopic surgery group had premature ulcers (72.6%), ulcer size
5-10mm (85.5%), simple stitches (77.3%), conjunctival attachment (22.7%). The laparoscopic group
used less cleaning fluid than the open surgery group. The time for laparoscopic surgery was 69.3 ±
20.1 minutes, open surgery was 59.7 ± 5.4 minutes. Complications after surgery were only seen in
the open surgery group, including 3 wound infections, 1 postoperative leak, and 1 serious patient
asked to be discharged. Duration of hospital stay in the laparoscopic group was 6.0 ± 1.1 days
and the open group was 8.5 ± 4.0 days. Conclusion: laparoscopic surgery is an effective treatment
method for duodenal ulcers perforation with a short hospital stay, no complications and death.
Keywords: duodenal ulcer, ulcer perforation, open surgery, laparoscopic surgery.
44
TCNCYH 142 (6) - 2021
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại Bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018-2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- ket_qua_phau_thuat_khau_thung_o_loet_hanh_ta_trang_tai_benh.pdf