Hiệu quả và an toàn của Pembrolizumab trong điều trị bước 1 ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa và di căn xa

Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN CỦA PEMBROLIZUMAB  
TRONG ĐIỀU TRỊ BƯỚC 1 UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ  
GIAI ĐOẠN TIẾN XA VÀ DI CĂN XA  
2
1
1
2
NGUYỄN TUẤN KHÔI , TRẦN NHƯ HƯNG VIỆT , NGUYỄN TUẤN ANH , LÊ THỊ NHIỀU ,  
1
1
1
1
TRẦN THỊ NGỌC MAI , LÊ TRUNG , PHAN ĐỖ PHƯƠNG THẢO , NGUYỄN THÀNH ĐƯỢC  
TÓM TẮT  
Đặt vấn đề: Pembrolizumab đã được áp dụng điều trị bước 1 ung thư phổi không tế bào nhỏ giai  
đoạn tiến xa và di căn xa tại Việt Nam từ năm 2018. Hiệu quả và an toàn của các phác đồ có  
pembrolizumab trong thực tế lâm sàng tại BV Ung Bướu ra sao là câu hỏi cần được trả lời sớm để có  
chiến lược áp dụng hợp lý hơn trong tương lai.  
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả và an toàn của phác đồ có pembrolizumab.  
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn di căn hoặc tiến xa điều  
trị bước 1 với pembrolizumab BV Ung Bướu TP HCM từ 2018 đến nay.  
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả loạt ca.  
Kết quả: Hồi cứu 12 ca, trong đó: pembrolizumab đơn trị, pembrolizumab kết hợp hóa trị, kết quả:  
đáp ứng: 9/12 ca. Tác dụng phụ liên quan đến miễn dịch: viêm phổi: 2/12 ca; cường giáp: 1/12 ca; tiểu  
đường type 1 dẫn đến hôn mê: 1/12 ca nhưng phát hiện kịp thời và hồi phục.  
Kết luận: Hiệu quả của các phác đồ có pembrolizumab là cao và tác dụng phụ là nguy hiểm nhưng  
có thể kiểm soát được.  
từ 2015 qua hai trường hợp trong nghiên cứu  
KEYNOTE-042[4] nhưng chính thức áp dụng vào  
thực tế lâm sàng bắt đầu vào năm 2018 khi thuốc  
được lưu hành chính thức tại Việt Nam.  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Năm 2016 pembrolizumab đã được FDA phê  
chuẩn để điều trị bước 1 ung thư phổi không tế bào  
nhỏ giai đoạn tiến xa và di căn xa có PD-L1 ≥50%  
[EGFR (-) và ALK (-)] dựa trên nghiên cứu  
KEYNOTE-024.[1]  
Khi áp dụng pembrolizumab vào thực tế lâm  
sàng để điều trị bước 1 ung thư phổi không tế bào  
nhỏ giai đoạn tiến xa và di căn xa chúng tôi tuân  
theo đúng hướng dẫn thực hành điều trị như sau:  
Năm 2018 pembrolizumab kết hợp với hóa trị  
được FDA phê chuẩn để điều trị bước 1 ung thư  
phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa và di căn xa  
[EGFR (-) và ALK (-)] bất chấp mức độ PD-L1 dựa  
trên nghiên cứu KEYNOTE-189 cho carcinoma  
không tế bào vảy[2] và KEYNOTE-407[3] cho  
carcinoma tế bào vảy.[3]  
Bệnh nhân phải được xác định có EGFR (-) và  
ALK (-). Sau đó quyết định cách thức điều trị đơn trị  
hay phối hợp tùy thuộc vào mức độ PD-L1:  
PD-L1 ≥50%: Pembrolizumab đơn độc hoặc  
pembrolizumab kết hợp với hóa trị.  
Mặc dù bệnh viện Ung Bướu đã từng điều trị  
pembrolizumab cho ung thư phổi không tế bào nhỏ  
PD-L1 < 50% hoặc không biết: Pembrolizumab  
kết hợp với hóa trị.  
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Tuấn Khôi  
Email: drnguyentuankhoi@gmail.com  
Ngày nhận bài: 08/10/2020  
Ngày phản biện: 03/11/2020  
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020  
1 Bác sĩ Khoa Nội phổi, phụ khoa - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM  
2 Bác sĩ Khoa Ngoại Lồng ngực Mạch máu - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định  
172  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
Đối với một thuốc rất mới nói chung, chúng tôi  
cần có đánh giá bước đầu để xem hiệu quả và độ an  
toàn trên thực tế điều trị như thế nào để từ đó có  
những chiến lược kế tiếp phù hợp và định hướng  
cho những nghiên cứu liên quan trong tương lai.  
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Đối tượng nghiên cứu  
Bệnh nhân phải thỏa các điều sau  
Được chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ  
giai đoạn tiến xa không thể phẫu thuật, không thể xạ  
trị hoặc giai đoạn di căn.  
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU  
Đánh giá hiệu quả và độ an toàn và cách kiểm  
soát an toàn của các phác đồ có Pembrolizumab.  
Nếu là loại carcinoma không tế bào vảy thì bắt  
buộc phải xác định EGFR âm tính; tình trạng ALK  
không bắt buộc.  
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả loạt ca.  
Thống kê bằng phương pháp chia tỉ lệ đơn giản.  
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
Đặc điểm của bệnh nhân  
Tất cả bệnh nhân đều là nam giới, tuổi: 40 - 78.  
Xét nghiệm EGFR và ALK theo giải phẫu bệnh  
Có 7/12 bệnh nhân carcinoma tuyến, trong đó 6/7 được xác định tình trạng EGFR âm tính, 1 bệnh nhân  
không thể xét nghiệm EGFR. 4/7 bệnh nhân được xét nghiệm ALK âm tính; 2/7 không được xét nghiệm ALK.  
Có 1/12 bệnh nhân carcinoma không biệt hóa có ALK và EGFR âm tính.  
Xét nghiệm PD-L1  
8/12 bệnh nhân được xét nghiệm PD-L1, 5/12 có PD-L1 >50%.  
BN  
001  
002  
003  
004  
005  
006  
007  
008  
009  
010  
011  
012  
Tuổi  
69  
59  
70  
78  
50  
40  
51  
62  
64  
65  
75  
62  
GPB  
SCC  
ACC  
SCC  
SCC  
ACC  
ACC  
ACC  
ACC  
SCC  
ACC  
ACC  
UCC  
Giai đoạn  
IV(phổi)  
PDL-1  
>50%  
EGFR  
Âm tính  
Âm tính  
Âm tính  
khôngXN  
Âm tính  
Âm tính  
khôngXN  
Âm tính  
Âm tính  
Âm tính  
Âm tính  
Âm tính  
ALK  
không XN  
không XN  
không XN  
không XN  
Âm tính  
IV (phổi)  
không XN  
không XN  
không XN  
>50%  
IV (màng phổi)  
IIIB  
IV (xương)  
IV(gan)  
10%  
không XN  
không XN  
Âm tính  
IIIc  
70%  
IV (phổi)  
5%  
IV (não)  
>60%  
Âm tính  
IV (phần mềm)  
IV (màng phổi, xương )  
tái phát  
60%  
không XN  
Âm tính  
không XN  
Âm tính  
Âm tính  
BN= bệnh nhân; GPB= giải phẫu bệnh; SCC= carcinoma tế bào vảy  
ACC= carcinoma tế bào tuyến; UCC= carcinoma không biệt hóa; XN= xét nghiệm  
Phác đồ điều trị  
4/12 được điều trị bằng phác đồ pembrolizumab đơn trị.  
8/12 bệnh nhân được điều trị với phác đồ pembrolizumab kết hợp hóa trị, trong đó kết hợp với phác đồ  
pemetrexed/carboplatin: 7/12, kết hợp với phác đồ paclitaxel/carboplatin là 1/12 bệnh nhân.  
173  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
Bệnh nhân 005 điều trị pembrolizumab đến chu kỳ 5 rồi tạm ngưng để chuyển sang phác đồ hóa trị  
pemetrexed/carboplatin x 2 chu kỳ rồi tiếp tục với điều trị pembrolizumab/ pemetrexed/ carboplatin.  
BN  
001  
010  
009  
005  
007  
002  
004  
006  
008  
011  
012  
003  
PDL-1  
>50%  
PHÁC ĐỒ  
DỰA TRÊN N/C  
K024  
Pembrolizumab  
Pembrolizumab  
Pembrolizumab  
60%  
K024  
>60%  
K024  
>50%  
Pembrolizumab rồi pembro/HT  
K024/K189  
K189  
70%  
Pembrolizumab/carboplatin/pemetrexed  
Pembrolizumab /carboplatin/pemetrexed  
Pembrolizumab/carboplatin/pemetrexed  
Pembrolizumab/carboplatin/pemetrexed  
Pembrolizumab/carboplatin/pemetrexed  
Pembro/carboplatin/pemetrexed  
Không thử  
Không thử  
10%  
K189  
K189  
K189  
5%  
K189  
Không thử  
Âm tính  
Không thử  
K189  
Pembro/carboplatin/pemetrexed  
K189  
Pembro/carboplatin/paclitaxel  
K407  
Số chu kỳ điều trị  
Đáp ứng điều trị  
Tỉ lệ đáp ứng: 9/12 bệnh nhân đáp ứng một phần, 2/12 bệnh nhân bệnh không đổi, 1/12 bệnh nhân bệnh  
tiến triển.  
Mức độ đáp ứng: Chúng tôi đánh giá đáp ứng kích thước bướu vào thời điểm đáp ứng tốt nhất và lập  
thành bảng biểu diễn như sau:  
174  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
Biến cố bất lợi liên quan đến miễn dịch  
Tác dụng phụ liên quan đến miễn dịch  
Viêm phổi: 2/12 ca.  
Sau chu kỳ  
Độ  
2
Điều trị  
Gián đoạn  
6 tuần  
Hồi phục  
4 ngày  
Ca thứ 1  
Ca thứ 2  
5
methylprenisolone  
methylprenisolone  
13  
2
6 tuần  
3 ngày  
Cường giáp: 1/12 ca xảy ra sau chu kỳ 3, không triệu chứng lâm sàng, điều trị với thyrozole và không gián  
đoạn điều trị. Cũng bệnh nhân này, sau chu kỳ 9 bệnh nhân đột ngột hôn mê, đường huyết tăng cao phải nhập  
cấp cứu và điều trị insulin. Bệnh nhân hồi phục sau 5 giờ hôn mê và đường huyết bình thường sau 3 ngày điều  
trị. Gián đoạn điều trị 2 tháng.  
BÀN LUẬN  
Vấn đề xét nghiệm PD-L1  
Sau khi đã xác định tình trạng âm tính của  
EGFR và ALK, việc xác định PD-L1 là cần thiết để  
lựa chọn cách thức điều trị pembrolizumab.  
Đặc điểm bệnh nhân  
Vấn đề xét nghiệm EGFR và ALK trước khi quyết  
định điều trị với pembrolizumab  
PD-L1 ≥50%: Pembrolizumab đơn độc hoặc  
pembrolizumab kết hợp với hóa trị.  
Điều kiện để điều trị với phác đồ có  
pembrolizumab là phải xác định EGFR âm tính và  
ALK âm tính cho những bệnh nhân có giải phẫu  
bệnh là carcinoma không tế bào vảy.  
PD-L1 < 50% hoặc không biết: Pembrolizumab  
kết hợp với hóa trị.  
Lý do? Trong các nghiên cứu KEYNOTE-024[1]  
và KEYNOTE-189[2] các bệnh nhân có EGFR (+)  
hoặc ALK(+) đều bị loại trừ vì những nghiên cứu  
trước đó (KEYNOTE-010[4] và KEYNOTE-001) cho  
thấy pembrolizumab có hiệu quả thấp trong nhóm  
khi các thuốc EGFR TKI và ALK TKI lại có hiệu quả  
điều trị rất tốt trên phân nhóm bệnh nhân này.  
Nghiên cứu này có 8/12 ca được xét nghiệm  
PD-L1; 5/12 ca có PD-L1 >50%. Trong 5 ca này có 4  
ca được điều trị đơn độc pembrolizumab, 1 ca được  
điều trị kết hợp với hóa trị.  
Mặc dù đối với những bệnh nhân có PD-L1  
≥50% có thể dùng pembrolizumab đơn trị  
(KEYNOTE-024) hoặc kết hợp với hóa trị  
(KEYNOTE-189 và KEYNOTE-407). Các dữ liệu từ  
các nghiên cứu trên cho thấy PFS của các nghiên  
cứu kết hợp tốt hơn là trị. Tuy nhiên bất lợi của dùng  
kết hợp là:  
Tuy nhiên trong nghiên cứu này có 1/8 bệnh  
nhân không được xác định tình trạng EGFR và 3/8  
bệnh nhân không được xác định tình trạng ALK vì  
không đủ bệnh phẩm để tiếp tục xét nghiệm. Nếu  
không xét nghiệm EGFR trước khi điều trị  
pembrolizumab, xác xuất thất bại sẽ cao (khoảng  
64% bệnh nhân Việt Nam có EGFR dương tính[5]).  
Do đó chúng tôi vẫn khuyến cáo bắt buộc phải xét  
nghiệm EGFR trước khi điều trị pembrolizumab.  
Tác dụng phụ nhiều hơn làm giảm chất lượng  
cuộc sống  
Nếu bệnh tiến triển, bệnh nhân sẽ không có cơ hội  
điều trị bước 2 bằng phác đồ hóa trị có platin như  
những trường hợp đơn trị pembrolizumab.  
Nghiên cứu cũng ghi nhận 4/8 bệnh nhân  
không được xét nghiệm ALK. Lý do: vào thời điểm  
cách đây 1 năm, việc xét nghiệm ALK chưa có sẵn  
tại nhiều trung tâm. Tuy nhiên, tỉ lệ ALK dương tính  
< 5% nên việc không xét nghiệm ALK trước điều trị  
pembrolizumab ít đưa đến thất bại so với không xét  
nghiệm EGFR. Tuy nhiên, hiện nay việc xét nghiệm  
ALK tại bệnh viện Ung Bướu là rất dễ dàng và giá  
không quá cao cho nên chúng tôi vẫn khuyến cáo  
nên xét nghiệm cho tất cả bệnh nhân có giải phẫu  
bệnh carcinoma không tế bào vảy.  
Chính vì vậy trong thực hành lâm sàng chúng  
tôi thường đơn trị pembrolizumab cho những trường  
hợp PD-L1 ≥50% và chỉ điều trị kết hợp với hóa trị  
khi bệnh nhân có triệu chứng nặng cần phải có đáp  
ứng sớm. Trong nghiên cứu này có bệnh 007 có  
PD-L1 ≥70% nhưng được điều trị kết hợp với 3 chu  
kỳ đầu tiên tại Singapore nên chúng tôi không rõ tình  
trạng ban đầu nhưng theo hỏi bệnh cho thấy, lúc  
khởi đầu điều trị, bệnh nhân khó thở, bướu lại ở  
trung tâm nên việc kết hợp điều trị là cần thiết để có  
đáp ứng tốt nhất.  
Số chu kỳ điều trị  
175  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
Nghiên cứu này có 1/12 bệnh nhân đạt 35 chu  
kỳ và kết thúc điều trị theo khuyến cáo và chuyển  
sang theo dõi. 10/12 ca vẫn đang tiếp tục điều trị.  
Điều này cho thấy pembrolizumab đơn trị hay kết  
hợp đều dung nạp tốt cho bệnh nhân và hứa hẹn có  
thời gian duy trì đáp ứng (DoR) lâu dài.  
cao, tác dụng phụ viêm phổi, cường giáp,tiểu đường  
type-1 là có thể kiểm soát được tuy nhiên việc phát  
hiện kịp thời tác dụng phụ là khó khăn.  
Do vậy, chúng tôi đề nghị các phác đồ có  
pembrolizumab nên tiếp tục trong thực tế điều trị tại  
bệnh viện Ung Bướu. Bệnh nhân cần được thông tin  
đầy đủ về các biến cố bất lợi có thể xảy ra để tái  
khám kịp thời.  
Biến cố bất lợi liên quan đến miễn dịch  
Các thuốc thuộc nhóm ức chế PD-1 hoặc ức  
chế PD-1 đều có thể làm cho hệ thống miễn dịch bị  
hoạt hóa quá mức và gây nên phản ứng trên nhiều  
cơ quan giống như bệnh tự miễn.  
Trong tương lai, hiệu quả của phác đồ có  
pembrolizumab trên ung thư phổi không tế bào nhỏ  
sẽ tiếp tục được nghiên cứu với các dữ liệu về PFS,  
OS.  
Viêm phổi  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Nghiên cứu này ghi nhận 2 trường hợp viêm  
phổi với triệu chứng ho và khó thở. Thời điểm phát  
hiện là lúc bệnh nhân tái khám chuẩn bị cho chu kỳ  
kế tiếp trong khitrước đó 3 - 4 ngày đã có triệu  
chứng này.  
1. Reck M, Rodríguez-Abreu D, Robinson AG, Hui  
R, Csőszi T, Fülöp A, et al. Pembrolizumab  
versus Chemotherapy for PD-L1-Positive Non-  
Small-Cell Lung Cancer. N Engl J Med. 2016  
Oct 8  
Triệu chứng ho và khó thở là cũng là triệu  
chứng của bệnh ung thư phổi nên dễ làm cho bác sĩ  
bỏ qua và không tìm cách xác định nguyên nhân  
viêm phổi. Thời điểm bắt đầu viêm phổi là lúc bệnh  
nhân không có tại bệnh viện. Do vậy việc chẩn đoán  
viêm phổi là khó khan, dễ bỏ qua và chẩn đoán trễ.  
Do đó việc thông tin trước cho bệnh nhân những tác  
dụng phụ có thể xảy ra là hết sức cần thiết.  
2. Gandhi L, Rodriguez-Abreu D, Gadgeel S, et al.  
Pembrolizumab plus chemotherapy in metastatic  
non-small-cell lung cancer. N Engl J Med  
2018;378:2078 - 2092  
3. Paz-Ares L. Luft A, Vincente D, et al.  
Pembrolizumab  
plus  
chemotherapy  
for  
squamous non-small-cell lung cancer. N Engl J  
Med 2018; 379: 2040 - 2051  
Chẩn đoán xác định viêm phổi do  
pembrolizumab dựa trên CT ngực 2/12 ca.  
4. Spigel D, de Marinis F, Giaccone G et al.  
IMpower110: Interim overall survival (OS)  
analysis of a phase III study of atezolizumab  
(atezo) vs platinum-based chemotherapy  
(chemo) as first-line (1L) treatment (tx) in PD-L1-  
selected NSCLC Ann Oncol 2019; 30(Suppl 5):  
v851 - v934  
Điều trị với methylprednisone uống, noại trú và  
hồi phục nhanh sau 3 - 4 ngày. Cho thấy việc xử trí  
viêm phổi là hiệu quả và dễ dàng.  
Tiểu đường type-1  
Nghiên cứu này ghi nhận 1/12 ca bị tiểu đường  
type-1 với triệu chứng hôn mê với glucose/máu là  
43mmol/L. Tuy nhiên bệnh nhân đã được phát hiện  
kịp thời và nhanh hồi phục với điều trị bằng insulin.  
5. Yuankai Shi, et al. A prospective, molecular  
epidemiology study of EGFR mutations in Asian  
patients with advanced non-small-cell lung  
cancer of adenocarcinoma histology (PIONEER).  
J Thorac Oncol. 2014 Feb;9(2):154 - 62.  
KẾT LUẬN  
Qua khảo sát 12 bệnh nhân ung thư phổi không  
tế bào nhỏ được điều trị với phác đồ có  
pembrolizumab chúng tôi nhận thấy tỉ lệ đáp ứng  
176  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
ABSTRACT  
Efficacy and safety of pembrolizumab in first line treatment of advanced and metastatic  
non small cell lung cancer  
Background: Pembrolizumab has been applied as first line therapy of advanced and distant metastatic  
non-small cell lung cancer in Vietnam since 2018. The early evaluation of pembrolizumab-containing regimens  
in clinical practice at our hospital is necessary.  
Objectives: Assessment of efficacy and safety of pembrolizumab. Methods: case series study. Twenty  
cases of advanced or distant metastatic non-small cell lung cancer treated with pembrolizumab containing  
regimens as first line. Results: ORR: 9/12 cases.  
AE: Pneumonitis 2/12 cases, hyperthyroidism 1/12 cases, type 1 dibabetes 1/12 cases.  
Conclusion: Pembrolizumab containing regimens have high response rate but adverse events must be  
careful.  
177  
pdf 6 trang yennguyen 15/04/2022 4040
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả và an toàn của Pembrolizumab trong điều trị bước 1 ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa và di căn xa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_va_an_toan_cua_pembrolizumab_trong_dieu_tri_buoc_1.pdf