Giáo trình Tâm lý học trong kinh doanh - Ngành: Kế toán doanh nghiệp

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ KỸ THUẬT  
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  
  
GIÁO TRÌNH  
MÔN HỌC: TÂM LÝ HỌC TRONG KINH DOANH  
NGÀNH: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP  
TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP  
(Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐ-CĐKTKT ngày tháng năm 20 của  
Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh)  
Thành phố Hồ Chí Minh, năm  
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ KỸ THUẬT  
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  
  
GIÁO TRÌNH  
MÔN HỌC: TÂM LÝ HỌC TRONG KINH DOANH  
NGÀNH: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP  
TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP  
THÔNG TIN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI  
Họ tên: Hồ Thanh Phúc  
Học vị: Cử Nhân  
Đơn vị: Khoa Kế toán tài chính  
Email: hothanhphuc@hotec.edu.vn  
TRƯỞNG KHOA  
TỔ TRƯỞNG  
BỘ MÔN  
CHỦ NHIỆM  
ĐỀ TÀI  
HIỆU TRƯỞNG  
DUYỆT  
Thành phố Hồ Chí Minh, năm  
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN  
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép  
dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo.  
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh  
thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.  
LỜI GIỚI THIỆU  
Tâm lý là một ngành khoa học có vai trò quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực xã  
hội. Tâm lý học và tâm lý học trong kinh doanh theo hướng ứng dụng trong lĩnh vực xã  
hội, kinh doanh và quản trị kinh doanh, là công cụ không thể thiếu được trong hoạt động  
nghiên cứu và quản lý. Tâm lý học trong kinh doanh đã trở thành một môn học cơ sở  
trong ngành đào tạo thuộc khối kinh tế.  
Giáo trình này được biên soạn nhằm mục đích giúp cho bạn đọc am hiểu các vấn  
đề về lý thuyết, chuẩn bị cho những tiết thực hành có hiệu quả, là cơ sở quan trọng cho  
người học tiếp cận thực tế.  
Để đáp ứng nhu cầu trên, Tác giả thực hiện biên soạn quyển sách giáo trình Tâm  
lý học trong kinh doanh. Tài liệu này được viết trên cơ sở bạn đọc đã có kiến thức phổ  
thông, cho nên cuốn sách không đi sâu về mặt tâm lý học mà chú trọng đến kết quả và  
ứng dụng trong lĩnh vực kinh doanh và quản trị kinh doanh với các ví dụ gần gũi với thực  
tế.  
Giáo trình Tâm lý học trong kinh doanh gồm 5 chương:  
Chương 1: Khái quát về tâm lý học  
Chương 2: Những hiện tượng tâm lý cá nhân  
Chương 3: Tập thể - Đối tượng quản trị  
Chương 4: Tâm lý trong hoạt động quản trị  
Chương 5: Tâm lý trong hoạt động kinh doanh  
Với kinh nghiệm giảng dạy được tích lũy qua nhiều năm, tham gia thực hiện các  
đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội; cùng với sự phối hợp và hỗ trợ của đồng nghiệp,  
Tác giả hy vọng quyển sách này đáp ứng được nhu cầu học tập của các sinh viên và nhu  
cầu tham khảo của các bạn đọc có quan tâm đến Tâm lý học trong kinh doanh trong  
nghiên cứu kinh tế xã hội.  
Trong quá trình biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, Tác giả rất  
mong nhận được những ý kiến đóng góp quí báu của bạn đọc để lần tái bản sau quyển  
sách được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cám ơn.  
TP. HCM, ngày……tháng……năm  
Chủ biên  
Hồ Thanh Phúc  
MC LC  
GIỚI THIỆU  
GIÁO TRÌNH MÔN HỌC  
Tên môn học: Tâm lý hc trong kinh doanh  
Mã môn học: MH2105051  
Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học:  
- Vị trí: Môn học Tâm lý học trong kinh doanh thuộc nhóm các môn học cơ sở được bố  
trí giảng dạy sau khi đã học xong các môn học chung. Trong nhóm các môn học cơ sở, môn  
Tâm lý học trong kinh doanh chính được bố trí sau các môn kinh tế chính trị.  
- Tính chất: Môn học Tâm lý học trong kinh doanh cung cấp những kiến thức cơ bản,  
nền tảng về tâm lý trong kinh doanh làm cơ sở cho học sinh nhận thức các môn chuyên môn  
của nghề.  
- Ý nghĩa và vai trò của môn học:  
Ý nghĩa:  
Ở bất cứ nền kinh tế nào, nền văn minh nào, bất cứ ngành nghề nào, hễ đã có con  
người, người chỉ huy hay người thực hiện, người phục vụ hay người được phục vụ …thì  
hiệu quả hoạt động của ngành ấy tất yếu phụ thuộc vào những yếu tố tâm lý, thể chất của  
mỗi cá nhân với tư cách là một thành viên của một tập thể nhất định.  
Muốn quản lý, lãnh đạo tốt cần phải nắm vững tâm lý, tâm lý cá nhân và tâm lý  
tập thể. Nhưng để nắm vững tâm lý tập thể và tâm lý cá nhân cần phải có tri thức về tâm  
lý đại cương làm cơ sở. Tùy theo yêu cầu công việc mà mỗi người nhất là nhà quản lý,  
lãnh đạo cần phải có tri thức tâm lý học cần thiết. Muốn giảng dạy và giáo dục tốt các  
thầy cô giáo phải biết được tâm lý lứa tuổi, tâm lý sư phạm. Giám đốc doanh nghiệp, các  
nhà quản trị muốn quản lý tốt nhân lực, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh cần nghiên  
cứu tâm lý học sản xuất, tâm lý học kinh doanh, tâm lý học quản trị.  
Như vậy, những kiến thức về tâm lý học sẽ là một cơ sở nền tảng khoa học quan trọng  
cho công tác quản lý xã hội nói chung và quản trị kinh doanh nói riêng.  
Vai trò:  
Về mặt lý thuyết tâm lý học quản lý giúp các nhà quản lý có được một hệ thống lý  
luận và nhận thức được các quy luật chung nhất trong việc quản lý con người trong đối  
nhân xử thế khi quản lý và lãnh đạo quần chúng. Mặt khác, nó còn giúp các nhà lãnh đạo  
tránh được những sai lầm trong tuyển chọn cán bộ, trong ứng xử, trong giao tiếp trong  
hoạch định chính sách và kế hoạch quản lý.  
Về mặt thực tiễn và ứng dụng, tâm lý học quản trị đã mang lại nhiều lợi ích cho  
công tác quản lý, tạo ra năng suất và hiệu quả lao động cao hơn, làm cho xã hội ngày  
càng văn minh và tiến bộ hơn. Có thể nêu một số tác động chính của tâm lý học quản trị  
trên các bình diện sau đây:  
Mục tiêu của môn học:  
- Về kiến thức:  
+ Trình bày được các khái niệm, hiện tượng tâm lý học trong kinh doanh.  
+ Trình bày được các phương pháp tìm hiểu tâm lý con người trong hoạt động quản  
trị kinh doanh.  
+ Trình bày được các hiện tượng tâm lý của cá nhân trong đời sống hàng ngày.  
+ Trình bày được cơ cấu tâm lý – xã hội của tập thể và những yếu tố tâm lý tập thể  
trong quản trị.  
+Trình bày được những khía cạnh tâm lý của uy tính nhà quản trị.  
+ Trình bày được các hiện tượng tâm lý trong kinh doanh.  
- Về kỹ năng:  
+ Vận dụng được hiện tượng tâm lý của cá nhân trong đời sống hàng ngày.  
+ Vận dụng được tâm lý học trong trong hoạt động nhóm và tập thể.  
+ Vận dụng được tâm lý học trong hoạt động quản trị.  
+ Vận dụng được tâm lý học trong hoạt động kinh doanh như tâm lý trong các chiến  
lược Marketing và tâm lý của các nhóm khách hàng khác nhau.  
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm:  
+ Nhận thức được tầm quan trọng của tâm lý học trong hoạt động của doanh  
nghiệp.  
+ Tự tin sử dụng tâm lý học trong hoạt động kinh doanh.  
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC  
Giới thiệu:  
Mô tả các đặc điểm cơ bản của tâm lý người. Phân tích chức năng của tâm lý trong  
đời sống con người. Nhận biết Tâm lý học là một khoa học có đối tượng nghiên cứu,  
nhiệm vụ, lịch sử hình thành, phương pháp nghiên cứu cụ thể và vai trò của tâm lý học  
trong đời sống xã hội. Nhận thức được ứng dụng của Tâm lý học có tính chất đa dạng và  
quan trọng đối với xã hội và các ngành nghề khác, đặc biệt trong lĩnh vực quản trị và áp  
dụng tâm lý học trong kinh doanh.  
Mục tiêu:  
- Trình bày được các khái niệm, hiện tượng tâm lý học trong kinh doanh.  
- Trình bày được các phương pháp tìm hiểu tâm lý con người trong hoạt động  
quản trị kinh doanh.  
Nội dung chính:  
1.1. Sơ lược về các hiện tượng tâm lý  
1.1.1. Tâm lý là gì?  
Trong đời sống hằng ngày, người ta quan niệm tâm lý chỉ là ý muốn, nguyện  
vọng, sự cư xử hoặc cách xử lý tình huống của người nào đó. Đôi khi người ta còn dùng  
từ tâm lý như là khả năng chinh phục đối tượng. Thực tế, tâm lý đâu chỉ là ý muốn, nhu  
cầu nguyện vọng, thị hiếu và cách cư xử của con người, mà nó còn bao hàm vô vàn các  
hiện tượng khác nữa. Tâm lý con người luôn luôn gắn liền với hoạt động của họ. Tâm lý  
của con người rất đa dạng, phong phú, nó có thể xuất hiện ở con người cả khi thức lẫn  
khi ngủ.  
Khi đã nhận thức được sự vật, hiện tượng xung quanh mình, chúng ta thường tỏ  
thái độ với chúng. Hiện tượng này làm cho chúng ta buồn rầu, hiện tượng kia làm cho  
chúng ta sung sướng, có lúc lại làm cho chúng ta đau khổ, tức giận. Đó chính là tình cảm  
của con người.  
Trong quá trình hoạt động, chúng ta thường gặp những khó khăn trở ngại làm hao  
tổn sức lực, thậm chí có thể bị đau khổ hoặc nguy hiểm đến tính mạng. Lúc đó có một  
hiện tượng tâm lý khác xuất hiện, đó là hoạt động ý chí, nó giúp chúng ta vượt qua những  
khó khăn, trở ngại để đạt đến mục đích của hoạt động.  
Có một loại hiện tượng tâm lý cao cấp khác giúp con người không những phản  
ánh thế giới bên ngoài mà còn phản ánh được chính mình giúp cho chúng ta nhận biết  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
1
     
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
mình, đánh giá được hành vi, thái độ, đánh giá được tình cảm, đạo đức, tài năng cũng như  
vị trí, vai trò, trách nhiệm, của mình. Đó là ý thức và tự ý thức. Và cũng chính nhờ có ý  
thức và tự ý thức mà ở con người hình thành một hiện tượng tâm lý cao cấp khác đó là  
nhân cách.  
Tất cả những hiện tượng kể trên đều là những hiện tượng tâm lý. Như vậy thuật  
ngữ “tâm lý” trong khoa học là rất rộng, đó là tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra  
trong đầu óc của con người, gắn liền và điều hành mọi hoạt động, hành động của con  
người. Theo cách hiểu này thì tâm lý con người là nhận thức, trí tuệ, cảm xúc, tình cảm, ý  
chí đến tính cách, ý thức và tự ý thức, là nhu cầu, năng lực, đến các động cơ hành vi, đến  
các hứng thú và khả năng sáng tạo, khả năng lao động đến các tâm thế xã hội và những  
định hướng giá trị v.v… Tất cả những hiện tượng đó tạo ra 4 lĩnh vực tâm lý cơ bản của  
con người, đó là nhận thức, tình cảm-ý chí, giao tiếp và nhân cách.  
1.1.2. Chức năng của hiện tượng tâm lý  
Hiện tượng tâm lý có những chức năng sau:  
Trước hết tâm lý giúp con người nhận biết được thế giới khách quan, giúp con  
người phân tích, đánh giá các sự vật hiện tượng xảy ra xung quanh họ - đó là chức năng  
nhận thức của tâm lý.  
Tâm lý giúp con người định hướng khi bắt đầu hoạt động: trước hết ở con người  
xuất hiện các nhu cầu và nảy sinh động cơ và mục đích hoạt động. Động cơ, mục đích đó  
có thể là một lý tưởng, niềm tin, cũng có thể là lương tâm, danh dự, danh vọng, tiền  
tài…, mà cũng có thể là một tình cảm, tư tưởng, khái niệm, biểu tượng v.v… hoặc một  
kỷ niệm thậm chí một ảo tưởng…  
Tâm lý thực hiện chức năng là động lực thúc đẩy hành động hoạt động: thông  
thường thì động lực của hoạt động là những tình cảm nhất định (say mê, tình yêu, căm  
thù…), trong nhiều trường hợp khác cũng có thể là những hiện tượng tâm lý khác còn  
kèm theo cảm xúc như biểu tượng của tưởng tượng, ám thị, sự hụt hẫng, ấm ức…  
Tâm lý điều khiển kiểm soát quá trình hoạt động bằng một mẫu hình, chương  
trình, kế hoạch, phương thức hay một cách thức, thao tác.  
Tâm lý còn giúp con người điều chỉnh hoạt động của mình. Để thực hiện chức  
năng này con người có trí nhớ và khả năng phân tích, so sánh.  
Tâm lý có nhiều chức năng quan trọng như vậy cho nên để giao tiếp với con  
người, quản lý con người, tác động đến con người nhà quản lý phải nắm vừng tâm lý, tác  
động phù hợp với qui luật tâm lý của họ mới có thể đạt hiệu quả cao nhất trong lao động  
SX, trong hoạt động và trong quản lý con người, quản lý xã hội.  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
2
 
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
1.1.3. Đặc điểm chung của các hiện tượng tâm lý  
Các hiện tượng tâm lý có một số đặc điểm cơ bản chung sau đây:  
- Các hiện tượng tâm lý vô cùng phong phú, phức tạp và đầy bí ẩn- và có tính tiềm  
tàng. Tâm lý là hiện tượng rất quen thuộc, rất gần gũi nhưng cũng rất mênh mông, xa vời.  
Tâm lý là “Thế giới bên trong” vô cùng phức tạp, hấp dẫn, kỳ diệu, thậm chí kỳ lạ, huyền  
bí…. Nó huyền bí, kỳ lạ đến mức, đã có thời người ta qui các hiện tượng tâm lý là hiện  
tượng thần linh, không giải thích nổi – “tâm lý là lĩnh vực khả cảm nhưng bất khả tri”.  
Do chưa hiểu bản chất thực sự của tâm lý con người cho nên trong thực tế cuộc sống còn  
những hiện tượng: hoặc thần bí hóa tâm lý dẫn đến mê tín dị đoan, hoặc phủ nhận sạch  
trơn những hiện tượng tâm lý phức tạp dẫn đến những việc làm phi nhân tính.  
Trong thực tế người ta đã bắt gặp rất nhiều người có khả năng ngoại cảm. Ví dụ:  
hiện tượng thấu thị khả năng tác động bằng ý chí tới một vật từ xa, khả năng hấp dẫn các  
đồ vật… Chính vì tính chất tiềm tàng đó của bộ não con người mà làm cho lĩnh vực tâm  
lý của chúng ta càng them phức tạp .  
- Các hiện tượng tâm lý quan hệ với nhau rất chặt chẽ.  
Các hiện tượng tâm lý tuy phong phú, đa dạng nhưng chúng không tách rời nhau,  
mà chúng tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau.  
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đều có thể cảm nhận được sự tác động lẫn  
nhau giữa hai lĩnh vực tâm lý- nhận thức và tình cảm: khi chúng ta nhận xét, đánh giá  
một người (tức là chúng ta nhận thức về họ) thường bị chi phối bởi tình cảm của mình  
đối với người đó. Hiện tượng “yêu nên tốt, ghét nên xấu” là rất phổ biến, vì vậy khi đánh  
giá, nhận xét một nhân viên nào đó, nhà quản trị cần lưu ý rằng tình cảm hay ác cảm của  
mình đối với họ cũng có thể làm cho chúng ta nhìn nhận, đánh giá họ một cách sai lệch  
đi. Hay giữa các cảm giác của con người cũng có sự tác động lẫn nhau rất chặt chẽ : “Nhà  
sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”, ở đây có sự tác động qua lại giữa thị giác tới cảm giác  
cơ thể, và từ thị giác tới vị giác.  
- Tâm lý là hiện tượng tinh thần, nó tồn tại trong đầu óc của ta, chúng ta không  
thể nhìn thấy nó, không thể sờ thấy, không thể cân đong, đo, đếm một cách trực tiếp như  
những hiện tượng vật chất khác. Tuy nhiên tâm lý lại được thể hiện ra bên ngoài thông  
qua hoạt động, hành động, hành vi cử chỉ, nét mặt. Chính vì thế mà chúng ta có thể  
nghiên cứu nó bằng cách quan sát những hành vi, cử chỉ, biểu hiện bên ngoài của con  
người, nghiên cứu tâm lý con người thông qua các sản phẩm hoạt động.  
Chẳng hạn, chúng ta không thể nhìn thấy tình cảm của một người là to hay nhỏ, là  
dài hay ngắn, không thể bắc nó lên cân xem bao nhiêu cân, bao nhiêu lạng, bởi vì tình  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
3
 
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
cảm là tinh thần là vô hình là vô sắc, tuy nhiên ta có thể nhận biết được tình cảm của họ  
đối với ta “nặng nề, sâu sắc như thế nào thông qua ánh mắt, nụ cười, những hành vi biểu  
cảm khi học tiếp xúc với ta”. Nhưng cũng cần lưu ý rằng, khi chúng ta tìm hiểu tâm lý  
của một người là chúng ta chỉ có thể tìm hiểu thông qua những biểu hiện bên ngoài  
không phải bao giờ cũng thống nhất với những tâm lý bên trong: cũng có khi “ngoài thì  
xơn xớt nói cười, còn trong nham hiểm giết người không dao” hoặc cũng có khi “khẩu xà  
nhưng tâm phật”… Vì thế khi tìm hiểu tâm lý của một người chúng ta cần phải thận trọng  
kẻo dễ bị vẻ bên ngoài của họ đánh lừa.  
- Các hiện tượng tâm lý có sức mạnh vô cùng to lớn trong đời sống con người, nó  
có thể làm cho chúng ta trở nên khỏe mạnh hơn, sung sức hơn và hiệu quả hơn. Tuy  
nhiên, tâm lý cũng có thể làm cho chúng ta trở nên yếu đuối đi, nhu nhược đi và mất hết  
sức lực.  
Khi đánh giá sức mạnh của một người chúng ta không những chú ý tới thể lực của anh ta,  
mà còn xét xem anh ta có khả năng ổn định tâm lý giúp cho anh ta huy động được them  
sức mạnh tiềm tàng của mình trong những tình huống khó khăn.  
Ngược lại, nếu khả năng ổn định tâm lý kém thì khi gặp những tình huống bất trắc, anh ta  
trở nên yếu đuối đi và mất hết tính hiệu quả.  
Từ những đặc điểm trên của các hiện tượng tâm lý, trong cuộc sống cũng như trong hoạt  
đọng quản trị cần chú ý:  
* Không nên phủ nhận sạch trơn những hiện tượng tâm lý phức tạp, khó hiểu, mà cần  
phải để ý, nghiên cứu chúng một cách thận trọng và khoa học.  
* Chống các hiện tượng mê tín, dị đoan, hoặc tin tưởng quá vào những hiện tượng “thần  
linh” để rồi thần bí hóa chúng dẫn đến sai lầm, gây hậu quả khó lường cho cá nhân và xã  
hội.  
* Khi nhìn nhận đánh giá một người chúng ta cần xem xét tới tận bản chất của họ, chứ  
không nên chỉ đánh giá thông qua vẻ bên ngoài một cách hời hợt, dễ dấn đến sai lầm.  
* Cần tạo ra những hiện tượng tâm lý tích cực, bầu không khí tâm lý thoải mái trong tập  
thể giúp con người tạo thêm sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất của họ, góp phần  
tang hiệu quả lao động của tập thể.  
1.1.4. Phân loại các hiện tượng tâm lý  
*Trước hết người ta phân biệt hiện tượng tâm lý cá nhân với hiện tượng tâm lý xã  
hội. Tâm lý cá nhân điều hành hành động, hoạt động của cá nhân người có tâm lý đó và  
phản ánh hiện thực khách quan trong hoạt động của người đó mà thôi. Nhưng thường khi  
tham gia vào hoạt động không phải chỉ có một cá nhân mà có nhiều người, từ một nhóm  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
4
 
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
nhỏ cho đến cộng đồng xã hội rộng lớn khác nhau. Hiện tượng tâm lý nảy sinh trong  
trường hợp đó sẽ điều hành những hành động, hoạt động tương đối giống nhau của cả  
cộng đồng người ấy và phản ánh hiện thực khách quan bao hàm trong hoạt động này một  
cách tương đối giống nhau. Đó là những hiện tượng tâm lý xã hội. Ví dụ, nhà quản trị cần  
quan tâm đến những hiện tượng tâm lý xã hội xảy ra trong tập thể như: phong tục, tập  
quán, dư luận xã hội, hiện tượng lực áp lực nhóm, lây lan tâm lý,…  
*Cũng có khi người ta phân biệt tâm lý về phương diện là chức năng, là sự vận  
động, là quá trình với tâm lý về phương diện là cấu tạo, một sản phẩm. Ví dụ: Tư duy là  
một quá trình, một chức năng tâm lý, một sựu vận động để đi đến những cấu tạo tâm lý là  
những khái niệm, phán đoán, suy lí, ý nghĩ v.v…cũng như thế tưởng tượng là một quá  
trình, một chức năng còn biểu tượng của tưởng tượng, ước mơ, sáng chế phát minh là  
những cấu tạo tâm lý.  
*Căn cứ vào sự diễn biến và thời gian tồn tại của các hiện tượng tâm lý, ta chia  
chúng ra làm 3 loại chính sau đây:  
-Các quá trình tâm lý: là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong một thời gian tương đối  
ngắn và có mở đầu, diễn biến và kết thúc. Đó là quá trình nhận thức, đó là quá trình cảm  
xúc, đó là quá trình ý chí, đó là quá trình giao tiếp, bắt chước và lây lan tâm lý… Các quá  
trình tâm lý nguồn gốc của tất cả đời sống tâm lý cá nhân và tâm lý của tập thể.  
-Các trạng thái tâm lý: là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối dài,  
thường đi kèm với các quá trình tâm lý và chi phối chúng. Ví dụ: trạng thái chú ý, tâm  
trạng, trạng thái do dự, trạng thái nghi hoặc, tâm trạng tập thể, bầu không khí tâm lý tập  
thể…  
-Các thuộc tính tâm lý: là những hiện tương tâm lý đã trở nên ổn định và bền vững tạo  
nên nét riêng biệt của chủ thể mang hiện tượng tâm lý đó và chi phối tới các quá trình  
tâm lý và trạng thái tâm lý.  
-Các thuộc tính tâm lý hình thành lâu dài và kéo dài rất lâu Ví dụ: tính cách, tình cảm,  
quan điểm, lý tưởng, phong tục tập quán, truyền thống … .  
*Căn cứ vào sự tham gia của ý thức, ta có thể chia các hiện tượng tâm lý ra làm 2  
loại lớn sau đây:  
-Những hiện tượng tâm lý có ý thức: là những hiện tượng tâm lý có sự tham gia, điều  
chỉnh của ý thức. Đó những hiện tượng tâm lý được nhận thức, tức là chúng ta có thể  
nhận biết được sự diễn biến của chúng, đó là những hiện tượng tâm lý có chủ định, chủ  
tâm, có dự tính trước. Ở con người trưởng thành và bình thường, hầu hết các hiện tượng  
tâm lý ít nhiều đều có ý thức. Ở họ, các hành vi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói v.v…đều có sự  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
5
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
tham gia của ý thức và kết quả của sự chi phối của ý thức. Vì thế mà hoạt động của con  
người khác về chất so với loài vật.  
-Những hiện tượng tâm lý không ý thức (vô thức): là những hiện tượng tâm lý xảy ra  
không có sự tham gia của ý thức và con người không nhận thức được, ví dụ.  
+ Những hiện tượng tâm lý có tính chất bệnh lý như hiện tượng hoang tưởng, ảo giác,  
bệnh tâm thần, những hành vi trong lúc say rượu…  
+ Những hiện tượng tâm lý xảy ra trong trạng thái ức chế của hệ thần kinh như: mơ,  
mộng du, thôi miên...  
+ Những hiện tượng xuất phát từ bản năng, nhưng ở con người loại này đã được ý thức  
hóa một phần như. Chớp mắt, ngủ gật, ngáp.  
+ Tiềm thức: là những hiện tương ban đầu là có ý thức, nhưng sau đó không được lặp đi,  
lặp lại và ý thức “ẩn” đi, “lặn sâu” vào bên trong, không còn bộc lộ rõ nữa, chẳng hạn các  
thói quen, kỷ xảo.  
+ Hiện tượng vụt sáng: là sự xuất hiện những ý tưởng bất ngờ, khi chúng ta không hề  
nghĩ tới. Chúng có ý nghĩa rất lớn trong lĩnh vực sáng tạo. Chẳng hạn sự vụt sáng của  
Acsimete về qui luật sức đẩy của nước, vụt sáng của Mendelep về bảng hệ thống tuần  
hoàn…  
Trong đời sống tâm lý con người thì lĩnh vực tâm lý có ý thức đóng vai trò chủ  
đạo, tuy nhiên các hiện tượng vô thức cũng có ý nghĩa nhất định, chúng cũng tham gia  
vào điều khiển các hành vi của con người. Mối quan hệ giữa ý thức và vô thức là mối  
quan hệ biện chứng, chuyển hóa cho nhau, bổ sung cho nhau, giúp cho tâm lý không phải  
căng thẳng quá tải mà vẫn đảm bảo hoạt động một cách tối ưu.  
1.2. TÂM LÝ HỌC VÀ TÂM LÝ HỌC TRONG KD  
Tâm lý học là một khoa học nghiên cứu về tâm lý. Nó nghiên cứu các sự kiện của  
đời sống tâm lý, các qui luật nảy sinh, diễn biến và phát triển của các sự kiện đó, cũng  
như cơ chế hình thành của những hiện tượng tâm lý.  
Đối tượng của tâm lý học đó là:  
- Tất cả các hiện tượng tâm lý người các quá trình, các trạng thái các thuộc tính, cả  
những hiện tượng tâm lý có ý thức cả những hiện tượng tâm lý vô thức, cả những hiện  
tượng tâm lý cá nhân cả những hiện tượng tâm lý xã hội…  
- Các qui luật nảy sinh, biểu hiện và phát triển của các hiện tượng đó. Cơ sở sinh lý thần  
kinh và cơ chế hình thành các hiện tượng tâm lý.  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
6
 
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
Với nội dung nghiên cứu trên, tâm lý học đặt ra cho mình những hiện nhiệm vụ cơ bản  
như:  
- Làm rõ những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến sự hình thành đời sống  
tâm lý con người.  
- Mô tả và nhận diện các hiện tượng tâm lý.  
- Làm rõ mối quan hệ, liên hệ qua lại giữa các hiện tượng tâm lý.  
- Tham gia vào giải quyết các vấn đề thực tiễn mà xã hội đặt ra (trong đó có cả lĩnh vực  
sản xuất kinh doanh, giáo dục, chăm lo sức khỏe con người v.v…)  
Ngày nay tâm lý học đã tách ra rất nhiều chuyên ngành đáp ứng nhu cầu ngày càng đa  
dạng của thực tiễn xã hội, đó là: Tâm lý học đại cương, tâm lý xã hội, tâm lý học y học,  
tâm lý học sư phạm, tâm lý học kỹ sư, tâm lý học lao động, tâm lý học quân sự, tâm lý  
học tội phạm, tâm lý học vũ trụ, tâm lý học thể thao, tâm lý học quản trị và kinh doanh  
v.v…  
Tâm lý học quản trị kinh doanh là một trong hơn bao chục chuyên ngành của tâm lý học.  
Đối tượng của nó là nghiên cứu ứng dụng các qui luật tâm lý vào hoạt động quản trị và  
kinh doanh, mà cụ thể là:  
- Nghiên cứu sự thích ứng của công việc SXKD với con người. Theo hướng này  
TLH QTKD chú ý tới các khía cạnh tâm lý của việc tổ chức quá trình sản xuất, kinh  
doanh: Đặc biệt là các vấn đề phân công lao động, tổ chức chế độ làm việc và nghỉ ngơi  
hợp lý, đưa yếu tố thẩm mỹ vào SXKD.  
- Nghiên cứu mối quan hệ con người với nghề nghiệp. Theo hướng này các nhà  
TLH đã nghiên cứu cơ sở tâm lý và các phương pháp tâm lý học của việc phát hiện, sử  
dụng và bồi dưỡng nhân tài góp phần đắc lực cho công tác quản trị nhân sự. Ứng dụng  
các dạng trắc nghiệm tâm lý để đo năng lực trí tuệ phẩm chất nhân cách, ý chí… của con  
người, giúp cho các nhà quản trị trong việc tuyển chọn, đánh giá, đề bạt cán bộ, nhân  
viên của mình.  
- Nghiên cứu sự thích ứng của con người với con người trong SXKD. Theo hướng  
này TLH QTKD nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với con người trong tập thể, cụ  
thể là bầu không khí tâm lý tập thể, sự hòa hợp hay không hòa hợp giữa các thành viên;  
quan hệ giữa nhà quản trị với nhân viên (vấn đề tìm hiểu, đánh giá, đối xử với nhân viên,  
vấn đề kích thích lao động…). Tâm lý học QTKD cũng giải quyết nhiều vấn đề khác như:  
vấn đề về mối tương quan giữa phóng các luận lý và hiệu quả hoạt động của tập thể, vấn  
đề uy tín của nhà quản trị…  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
7
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
- Nghiên cứu những vấn đề tâm lý trong việc tiêu thụ sản phẩm. Theo hướng này  
TLH QTKD tìm hiểu những qui luật tâm lý người trong các vấn đề như: tìm hiểu nhu  
cầu, thị hiếu của khách hàng; phong tục tập quán của thị trường để nhà kinh doanh lập kế  
hoạch sản xuất, thiết kế kiểu dáng, mẫu mã…; nghiên cứu những qui luật tâm lý áp dụng  
trong nghệ thuật quảng cáo để giới thiệu, hướng dẫn và kích thích hành vi mua hang của  
khách hàng…  
1.3. SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÂM LÝ HỌC KD  
1.3.1. Vài nét về lịch sử hình thành của khoa học tâm lý  
Từ khi ra đời, lịch sử phát triển những tư tưởng tâm lý học cùng với những tư  
tưởng triết học là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Thời cổ  
đại, Đemocrite (460-370 TCN) đại diện cho dòng phái duy vật, Platon (428-318 TCN)  
đại diện cho dòng phái duy tâm. Về thế giới tâm lý, các nhà duy vật cổ đại đi tìm cơ sở  
ban đầu của chúng trong lửa, khí và nước. Họ đưa ra quan niệm rằng các hiện tượng tâm  
lý cũng tuân theo những quy luật của thế giới tự nhiên. Các nhà duy tâm cho rằng tư  
tưởng, tâm lý là cái có trước, thực tại là cái có sau. Tâm lý tồn tại phụ thuộc vào Thượng  
đế chứ không phụ thuộc vào con người và thế giới xung quanh.  
Những tư tưởng duy tâm phản khoa học đã bị Arixtote (384-322 TCN), học trò  
của Platon, phê phán. Arixtote là tác giả của tác phẩm lớn đầu tiên về thế giới tâm hồn  
con người- “Bàn về tâm hồn”. Trong cuốn sách này ông đã trình bày một luận điểm hết  
sức tiến bộ so với thời bấy giờ. Đó là tồn tại mối quan hệ giữa tâm lý và cơ thể với thế  
giới xung quanh, tâm lý phụ thuộc vào con người và tự nhiên, xã hội.  
Đến nửa đầu thế kỷ XVII tâm lý học khoa học lại có thêm một phát kiến mới cực  
kỳ quan trọng- đó là phát kiến ra phản xạ của Decac (1596-1650). Tuy nhiên ông lại đi  
theo thuyết nhị nguyên luận đáng phê phán. Cũng trong khoảng thời gian này nhiều học  
thuyết mới xuất hiện như: “Tâm lý học kinh nghiệm” của J. Lov (1632-1701), “Tâm lý  
học duy vật máy móc” của Didro (1713-1781)...  
Mặc dù đến năm 1732 tên gọi “Tâm lý học” đã ra đời trong cuốn sách “Tâm lý  
học kinh nghiệm” của Volf (Đức), nhưng tâm lý học vẫn chỉ là một bộ phận của triết học  
mà thôi. Chỉ đến năm 1879, khi nhà tâm lý học Vung (Đức) sáng lập ra phòng thí nghiệm  
tâm lý đầu tiên trên thế giới (sau này là Viện tâm lý học của Đức) thì tâm lý học mới thực  
sự trở thành một môn khoa học độc lập.  
Trong vòng 10 năm đầu thế kỷ XX xuất hiện ba trường phái tâm lý học khách  
quan, đó là “Tâm lý học hành vi” của Watson (1878-1958), “Tâm lý học cấu trúc” của  
các nhà tâm lý học Đức – Wertheimer (1880-1943), Kohler (1887-1967) và Kofka (1886-  
1947), và “Phân tâm học” do Z.Freud (1856-1936) sáng lập.  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
8
   
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
Tâm lý học hành vi không mô tả hay giải thích các trạng thái của ý thức bỏ qua  
các mối quan hệ bản chất của con trong xã hội lịch sử nhất định. Mục đích chính là  
nghiên cứu hành vi của con người. Hành vi có nghĩa là những cử chỉ, động tác đáp lại của  
người ta khi có một kích thích từ bên ngoài nào đó theo công thức S (Stimul)-R  
(Response), hễ có kích thích thì có phản ứng và kích thích nào thì phản ứng đó. Do đó chỉ  
cần nghiên cứu tính chất của kích thích thì sẽ dự đoán được tâm lý của một người.  
Trường phái tâm lý học cấu trúc đề xuất một chương trình nghiên cứu tâm lý từ  
góc độ các cấu trúc chỉnh thể. Nó đã phát hiện hàng loạt các thuộc tính quan trọng của tri  
giác như: tính ổn định, tính cấu trúc...  
Luận điểm cơ bản của trường phái phân tâm học là giải thích mối quan hệ giữa  
một bên là các nhu cầu vô thức tiềm ẩn chủ yếu là bản năng tình dục và một bên là sự  
cấm kỵ và ràng buộc của xã hội để điều chỉnh cái Tôi hiện thực.  
Theo G.Freud thì cấu trúc của nhân cách gồm 3 hệ thống: cái Ấy (ID) hay là tầng  
vô thức tập hợp tất cả những bản năng như là: tình dục, xâm kích, đói khát... Cái ấy chính  
là động lực thúc đẩy mọi hoạt động của con người, nó hoạt động theo nguyên tắc thỏa  
mãn tối đa. Tần thứ hai- cái Siêu tôi (Superego), bao gồm các chuẩn mực xã hội, nó hoạt  
động theo nguyên tắc chèn ép, kiểm duyệt, nó chèn ép, kiểm duyệt – các bản năng của  
con người. Tầng thứ ba- cái Tôi(ego), chính là phần ý thức của cá nhân được kiểm soát,  
hoạt động theo nguyên tắc hiện thực, nó có chức năng điều hòa giữa cái ấy và cái Siêu  
Tôi. Mối quan hệ giữa ba hệ thống trong cấu trúc nhân cách lầ mối quan hệ ràng buộc  
nhưng luôn luôn mâu thuẫn và xung đột lẫn nhau cho nên trong con người sinh ra các  
hoạt động tâm lý phức tạp. Cả ba trường phái trên đều tự gọi là tâm lý học khách quan,  
nhưng đều bỏ qua các mối quan hệ bản chất của con người, bỏ qua việc nghiên cứu đời  
sống tâm lý con người và coi con người như một cái máy, như một sinh vật, bỏ qua mặt  
hội của con người. Chính vì thế mà cả ba trường phái này đều đi vào chỗ bế tắc.  
Phải chờ đến tâm lý học Macxit do các nhà tâm lý học Xô-viết có tên tuổi như  
Coocnhilop (1879-1957), Vygotsky (1896-1934), Rubinstein (1889-1960), Leonchep  
(1903-1979)... cùng với các nhà tâm lý khác xây dựng nên thì chúng ta mới có một nền  
tâm lý học thực sự khoa học và khách quan.  
Tâm lý học Macxit đưa ra những luận điểm sau đây để nói về bản chất tâm lý con người:  
- Tâm lý con người chính là sự phản ánh hiện thực khách quan bằng hành động và  
hoạt động của mình. “ Tâm lý là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” (V.I.Lênin),  
tức là những sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan tác động vào cơ quan cảm giác  
của ta và được ta phản ánh, tạo nên hình ảnh tâm lý về các sự vật hiện tượng đó. Cho nên  
nguồn gốc của tâm lý không phải là từ Thượng đế, mà cũng không chỉ từ “lửa, khí, nước”  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
9
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
mà là từ hiện thực khách quan, trong đó gồm có thế giới tự nhiên, thế giới xã hội và bản  
thân con người.  
- Tâm lý con người là kinh nghiệm xã hội-lịch sử của loài người được biến thành  
của riêng mỗi người thông qua hoạt động và giao lưu. Khác với động vật, con người có  
lao động, sống thành xã hội và có ngôn ngữ, nên tâm lý con người có mức độ phát triển  
mới về chất so với tâm lý động vật Ngoài những bản năng được truyền lại trong gien, con  
người còn tiếp thu kinh nghiệm của loài người để lại trong sách, vở, tài liệu, các tác phẩm  
văn học, nghệ thuật... thông qua quá trình hoạt động và giao lưu. Tuy nhiên tâm lý mỗi  
các nhân không phải là sự “copy”một cách máy móc biến đổi thông qua đời sống tâm lý  
của mỗi người. Chính vì thế tâm lý của mỗi cá nhân con người vừa mang những nét  
chung đặc trưng cho xã hội, lịch sử vừa mang những nét riêng biệt tạo nên cá tính của  
mỗi cá nhân.  
- Tâm lý là chức năng, là sản phẩm hoạt động não. Sự vật và hiện tượng tác động  
vào các giác quan, vào não chúng ta tạo nên hình ảnh tri giác, bắt ta phải suy nghĩ, đánh  
giá tưởng tượng và tỏ thái độ với chúng...Tất cả những quá trình đó đều diễn ra trong hệ  
thần kinh, trong não và trên võ não. Não tiếp nhận các tác động từ thế giới bên ngoài  
dưới dạng các xung động thần kinh cùng những biến đổi lý hoasowr từng tế bào thần  
kinh, từng xi-náp, các trung khu thần kinh, làm cho bộ não trở nên hoạt động theo các qui  
luật của hệ thần kinh và tạo nên những hiện tượng tâm lý tương ứng. Như vậy là hiện  
thực khách quan tác động vào hệ thần kinh, não hoạt động nên con người có tâm lý.  
1.3.2.Quá trình hình thành của tâm lý học QTKD.  
Cũng như tâm lý học nói chung, tâm lý học QTKD, một trong 30 chuyên ngành  
của nó, ra đời một cách muộn màng nhưng tốc độ phát triển rất nhanh. Năm 1912, nhà  
tâm lý học Đức là H.Munsterberg lần đầu tiên giảng một chương trình “Tâm lý học  
QTKD” lúc đầu là ở Đức, sau đó là ở Mỹ. Ý tưởng chính của ông là nên sử dụng những  
con người khác nhau về khí chất, về xu hướng, về năng lực phù hợp với từng loại công  
việc. Ông đã tiến hành hàng loạt công trình nghiên cứu và đã xây dựng nên những luận  
điểm mà sau này trở thành cơ sở cho môn xã hội học lao động và thực nghiệm xã hội.  
Sau này, khi qua Mỹ Munsterberg giảng dạy và nghiên cứu ra một hệ thống đo  
lường để lựa chọn những người vào học những nghề khác nhau, và đã chứng minh được  
hiệu quả của luận điểm của mình bằng một thwucj nghiệm ở công ty Mỹ “American  
Tobaco Company”. Ý tưởng của Munsterberg có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành  
môn tâm lý học quản lý sau này.  
Việc ứng dụng môn tâm lý học vào QTKD trong giai đoạn 1900-1930 chủ yếu dựa  
trên quan điểm “duy lý” hay “tính hợp lý” của Ph.Taylor và Max Werber. Theo quan  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
10  
 
Tâm lý hc trong kinh doanh  
Chương 1: Khái quát về tâm lý hc  
điểm này, người ta coi con người như một bộ phận của máy móc, của một dây chuyền  
sản xuất. Mỗi một người trong tổ chức lao động được qui định từng thao tác, từng chức  
năng khá chi tiết, chặt chẽ từng giờ, không có thao tác dư thừa, không có sự trùng lặp.  
Trường phái Werber, Taylor cố gắng chứng minh rằng, nếu có thể nghiên cứu tổng hợp  
được danh sách đầy đủ những thủ pháp và qui tắc cho phép phân tích công việc thiết lập  
kiểm soát tối đa, kết hợp với quyền lực và trách nhiệm, thì các vấn đề quan trọng nhất  
của quản lý tập thể coi như đã giải thích xong. Tuy nhiên cho đến năm 1930 thì lý thuyết  
này trở nên lạc hậu trước sự tiến bộ của KHKT và các tư tưởng tiến bộ, buộc phải có sự  
thay đổi.  
Lý thuyết của Werber và Taylor bị đánh bật bởi thuyết “ quan hệ con người- con  
người trong quản lý”, mà những người đứng đầu là E.Mayo, D.Mc Gregor, Barnard và  
Ph. Selznick.  
Từ năm 1927-1932 E.Mayo, một chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý học xã hội và  
xã hội học lao động đã tiến hành một thí nghiệm nổi tiếng ở xí nghiệp Hawthome  
(Chicago) để kiểm tra lại lý thuyết của Taylor : tăng độ chiếu sáng đèn trong phân xưởng  
thì năng suất lao động tăng, nhưng kỳ lạ thay giảm độ chiếu sang thì năng suất vẫn tiếp  
tục tăng. Thực nghiệm kéo dài nhiều năm, nhưng lại cho kết quả nản lòng. Mặc dù số liệu  
thực nghiệm thu được rất lớn, nhưng kết luận chủ yếu là: mối quan hệ giữa con người-  
con người trong sản xuất ảnh hưởng đến năng suất lao động hơn nhiều so với các điều  
kiện vật chất. Công trình nghiên cứu của Mayo đã góp phần thúc đẩy nghiên cứu và vận  
dụng tâm lý học một cách trực tiếp, khoa học vào quản lý SXKD, thúc đẩy việc ứng dụng  
tâm lý học vào QTKD.  
Chính từ kết quả của các thí nghiệm Hawthorne mà K.Lewin đã nảy sinh ý tưởng  
cho thuyết về động lực của nhóm. Theo ông thì trong cuộc sống của nhóm, bản thân nó  
cũng như các thành viên của nó sẽ hướng tới những gì tích cực hấp dẫn nó và xa lánh  
những gì tiêu cực. Hành vi này được hướng dẫn bởi những “trường động lực” trong  
nhóm. Vì vậy một đặc tính quan trọng của nhóm là: sự gắn bó của nhóm được coi là  
trường của toàn bộ các động lực tác động lên mỗi thành viên làm cho họ ở lại mãi mãi  
trong nhóm. Mức độ gắn bó của nhóm chịu ảnh hưởng bởi một loạt những điều kiện: đó  
là sự cộng tác hơn là cạnh tranh, bầu không khí dân chủ hơn là tự do độc đoán, đó là  
nhóm đã có sẵn một nền nếp tổ chức từ trước, ổn định, vững mạnh, mọi người quan tâm  
đến nhiệm vụ chung và tự hào về uy tính của nhóm v.v…  
Về sau lý thuyết lãnh đạo của K.Lewin được bổ sung them bởi lý thuyết “lãnh đạo  
theo hoàn cảnh” của E.Fiedler. Theo ông, không có một phong cách lãnh đạo nào tự bản  
thân nó là tối ưu cả. Phong cách tối ưu là phong cách tùy thuộc vào bầu không khí tâm lý  
KHOA KTOÁN TÀI CHÍNH  
11  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 118 trang yennguyen 18/04/2022 1640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tâm lý học trong kinh doanh - Ngành: Kế toán doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tam_ly_hoc_trong_kinh_doanh_nganh_ke_toan_doanh_n.pdf