Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh 1 - Nghề: Kế toán doanh nghiệp

TRƯỜNG CAO ĐẲNG HÀNG HẢI  
KHOA: KINH TẾ  
GIÁO TRÌNH  
MÔN HỌC: PHÂN TÍCH HOẠT  
ĐỘNG KINH DOANH 1  
NGHỀ: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP  
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG, TRUNG CẤP  
(Ban hành kèm theo Quyết định số.....QĐ/ ngày......tháng........năm...  
.của ............................................)  
HẢI PHÒNG – 2017  
LỜI NÓI ĐẦU  
Ngày nay khi kinh tế càng phát triển thì vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động  
sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp càng được quan tâm hàng đầu, có nghĩa  
là người làm kinh tế đặt việc phát triển kinh tế theo chiều sâu để khai thác và phát huy  
tối đa các nguồn lực hiện có. Để làm được điều đó thì yêu cầu đặt ra đối với người  
làm kinh tế đó là cần hiểu và nhìn rõ đúng bản chất của sự vật hiện tượng kinh tế,  
nhận định đúng nguyên nhân để đề ra giải pháp và cách làm sao cho hiệu quả nhất.  
Với các sinh viên chuyên ngành kinh tế nói chung và chuyên ngành kế toán nói  
riêng, bên cạnh việc đào tạo các kỹ năng nghiệp vụ nghề nghiệp thì một yêu cầu đặt ra  
với các em đó là khả năng phân tích đánh giá các hiện tượng kinh tế, biết nhận định  
đúng sự vật hiện tượng kinh tế để hoàn thiện hơn kỹ năng nghề nghiệp cho tương lai.  
Để phục vụ cho các sinh viên chuyên ngành kế toán doanh nghiệp của trường  
Cao đẳng Hàng hải I khi học tập và nghiên cứu môn học “Phân tích hoạt động kinh  
doanh”, tác giả đã biên soạn cuốn giáo trình này. Nội dung của giáo trình đề cập đến  
các phương pháp được sử dụng cho việc phân tích hoạt đông kinh tế và cách thức tiến  
hành phân tích các nội dung, các chỉ tiêu kinh tế trong các doanh nghiệp.  
Mặc dù tác giả đã cố gắng biên soạn những nội dung chủ yếu của môn học, tuy  
nhiên khó tránh khỏi sai sót về nội dung và hình thức. Rất mong nhận được các ý kiến  
đóng góp từ sinh viên và người đọc để tài liệu sẽ được hoàn thiện hơn, ngày càng  
phục vụ tốt hơn cho việc học tập và nghiên cứu của các bạn sinh viên và độc giả. Trân  
trọng cám ơn.  
1
BÀI 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH TẾ  
TRONG CÁC DOANH NGHIP.  
Mục tiêu:  
- Trình bày được khái niệm phân tích hoạt động kinh tế, đối tượng và các  
phương pháp nghiên cứu phân tích kinh tế;  
- So sánh được các loại hình phân tích hoạt động kinh tế;  
- Áp dụng các phương pháp chi tiết hóa chỉ tiêu phân tích, phương pháp so sánh,  
phương pháp loại trừ, phương pháp liên hệ để làm được các ví dụ đơn giản;  
- Nghiêm túc, cẩn thận trong quá trình học và làm bài tập.  
1.1. Khái niệm và ý nghĩa phân tích hoạt động kinh tế.  
1.1.1. Khái niệm phân tích hoạt động kinh tế.  
Phân tích hiểu theo nghĩa chung nhất là sự chia nhỏ sự vật, hiện tượng thành  
nhiều bộ phận khác nhau, từ đó nghiên cứu chúng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các  
bộ phận cấu thành để thấy được bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong  
quá trình nghiên cứu. Trong các hiện tượng tự nhiên, việc chia nhỏ này được tiến  
hành bằng các phương tiện cụ thể như phân tích các chất hóa học bằng các phản ứng,  
phân tích các loại vi sinh vật bằng kính hiển vi… Nhưng trong hoạt động kinh tế, các  
hiện tượng cần phân tích chỉ tồn tại bằng những phạm trù kinh tế nên việc phân tích  
phải thực hiện bằng những phương pháp đặc thù.  
Vậy, phân tích hoạt động kinh tế là việc phân chia các hiện tượng, các quá trình  
và các kết quả kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, sử dụng các  
phương pháp: liên hệ, so sánh, đối chiếu... Và tổng hợp lại nhằm rút ra quy luật xu  
hướng phát triển các hiện tượng nghiên cứu, từ đó phục vụ cho hoạt động kinh doanh  
có hiệu quả.  
Phân tích hoạt động kinh tế gắn liền với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của  
con người. Khi xã hội chưa phát triển, yêu cầu thông tin cho quản lý chưa nhiều, công  
việc phân tích kinh doanh cũng được tiến hành bằng những phương pháp đơn giản  
như các phép cộng, trừ… Khi nền kinh tế càng phát triển, những đòi hỏi về quản lý  
nền kinh tế quốc dân không ngừng tăng lên, thông tin phục vụ cho kinh doanh ngày  
càng phức tạp. Để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh doanh ngày càng cao phù hợp với  
nền kinh tế thị trường, phân tích hoạt động kinh tế được hình thành và ngày càng hoàn  
thiện trở thành một ngành khoa học độc lập. Quá trình đó hoàn toàn phù hợp với yêu  
cầu khách quan của sự phát triển các ngành khoa học trong thời đại phát triển.  
1.1.2. Ý nghĩa của phân tích hoạt động kinh tế trong hệ thống quản lý doanh  
2
nghiệp.  
Trong cơ chế thị trường hiện nay, để tồn tại và phát triển bền vững, đòi hỏi các  
doanh nghiệp kinh doanh phải có lợi nhuận. Để đạt được lợi nhuận, kết quả cao nhất  
trong sản xuất và kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định các phương hướng,  
mục tiêu đầu tư, biện pháp sử dụng các yếu tố sản xuất một cách khoa học, hiệu quả.  
Muốn vậy, các doanh nghiệp cần phải nắm được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ và  
xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết quả SXKD. Điều này chỉ có thể thực hiện  
được trên cơ sở các quyết định kinh doanh phải dựa vào các thông tin của phân tích  
kinh doanh.  
Thực tế cho thấy rằng, mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều có mối quan  
hệ hữu cơ với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể tiến hành phân tích các hoạt động kinh doanh  
một cách toàn diện mới có thể giúp cho các nhà doanh nghiệp đánh giá một cách đầy  
đủ và đúng bản chất mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ  
sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu được biểu hiện  
bằng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế của doanh nghiệp, đồng thời, phân tích sâu sắc các  
nguyên nhân hoàn thành hay không hoàn thành các chỉ tiêu đó trong sự tác động lẫn  
nhau giữa chúng. Từ đó, có thể đánh giá đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu trong công tác  
quản lý của doanh nghiệp. Mặt khác, qua phân tích kinh doanh giúp cho các nhà  
doanh nghiệp và các đối tượng khác tìm ra biện pháp đích thực để tăng cường các  
hoạt động kinh doanh và quản lý doanh và doanh nghiệp nhằm khai thác tối đa các  
yếu tố quá trình sản xuất, nâng cao kết quả kinh doanh. Thông tin từ hoạt động phân  
tích kinh doanh còn là những căn cứ quan trọng phục vụ cho việc dự đoán, dự báo xu  
thế phát triển sản xuất kinh doanh củadoanh nghiệp.  
Trong cơ chế thị trường, thông tin từ kết quả của việc phân tích hoạt động kinh  
tế không những chỉ cung cấp cho các nhà quản trị doanh nghiệp mà còn cung cấp cho  
các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng, các cơ quan chức năng nhà nước nhằm đưa ra  
các quyết định hữu ích cho từng đối tượng. Các nhà đầu tư căn cứ vào thông tin từ  
việc phân tích hoạt động kinh doanh để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và là yếu tố  
đưa ra quyết định đầu tư cho phù hợp. Các tổ chức tín dụng căn cứ vào thông tin từ  
việc phân tích hoạt động kinh doanh để đánh giá khả năng thanh toán của doanh  
nghiệp nhằm đưa ra quyết định cho vay ngắn hạn, dài hạn phù hợp. Các cơ quan chức  
năng nhà nước như: Cơ quan kiểm tra, thanh toán, thống kê thông qua việc phân tích  
kinh doanh để biết được tình hình chấp hành nghĩa vụ doanh nghiệp đối với nhà nước  
về các chính sách, luật pháp trong môi trường kinh doanh.  
Bên cạnh việc cung cấp thông tin cho mọi đối tượng, thông tin từ hoạt động  
phân tích kinh doanh còn có ý nghĩa kiểm tra các hoạt động kinh doanh nhằm củng  
3
cố hoạt động tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp.  
1.2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của phân tích hoạt động kinh tế.  
1.2.1. Đối tượng nghiên cứu phân tích hoạt động kinh tế.  
Phân tích hoạt động kinh tế là một ngành khoa học độc lập, có đối tượng nghiên  
cứu riêng. Nói chung, lĩnh vực nghiên cứu của phân tích hoạt động kinh tế không  
ngoài các hoạt động sản xuất kinh doanh của con người. Để phân chia, tổng hợp và  
đánh giá các hiện tượng hoạt động kinh doanh, đối tượng nghiên cứu phân tích hoạt  
động kinh tế trong doanh nghiệp là những kết quả kinh doanh cụ thể, được biểu hiện  
bằng các chỉ tiêu kinh tế, dưới sự tác động các nhân tố kinh tế.  
Kết quả kinh doanh thuộc đối tượng phân tích có thể là kết quả riêng biệt từng  
khâu, từng giai đoạn quá trình sản xuất kinh doanh, như: mua vật tư, hàng hóa, sản  
xuất ra sản phẩm, bán sản phẩm, dịch vụ hoặc có thể là kết quả tổng hợp của cả một  
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một chu kỳ kinh doanh.  
Những kết quả kinh doanh cụ thể của quá trình sản xuất kinh doanh được biểu  
hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế. Chỉ tiêu kinh tế thường có nội dung kinh tế tương đối  
ổn định, như: doanh thu bán hàng, tổng mức lợi nhuận…còn trị số chỉ tiêu luôn thay  
đổi theo thời gian và địa điểm cụ thể gắn với quá trình phân tích.  
Những chỉ tiêu kinh tế cụ thể chịu sự tác động các nhân tố kinh tế, như là quá  
trình sử dụng các yếu tố sản xuất kinh doanh đã ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh  
như thế nào.  
Ví dụ: Doanh thu bán hàng là một chỉ tiêu kinh tế dưới sự ảnh hưởng các nhân  
tố kinh tế như là số lượng hàng bán, đơn giá bán, cơ cấu mặt hàng bán, chất lượng  
mặt hàng và các điều kiện khác liên quan đến quá trình tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm.  
a) Các chỉ tiêu và hệ thống chỉ tiêu thường dùng trong phân tích hoạt động kinh  
tế  
Đối tượng nghiên cứu phân tích hoạt động kinh tế chính là các kết quả kinh  
doanh biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế dưới sự tác động các nhân tố kinh tế. Các  
chỉ tiêu kinh tế dùng để phân tích rất phong phú, đa dạng và có nhiều tiêu thức phân  
tích khác nhau.  
* Theo tính chất chỉ tiêu, bao gồm:  
- Chỉ tiêu số lượng: Phản ánh quy mô kết quả hay điều kiện kinh doanh, như:  
doanh thu bán hàng, số lượng vốn đầu tư, diện tích sản xuất, số lượng công nhân…  
- Chỉ tiêu chất lượng: Phản ánh kết quả kinh doanh hay hiệu quả sử dụng các  
yếu tố sản xuất kinh doanh, như: giá thành đơn vị sản phẩm hàng hóa, mức doanh lợi,  
năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn…  
4
* Theo phương pháp tính toán, bao gồm:  
- Chỉ tiêu tuyệt đối: Thường dùng để đánh giá quy mô sản xuất và kết quả kinh  
doanh tại thời gian và không gian cụ thể như: doanh số bán hàng, giá trị sản lượng  
hàng hóa sản xuất, lượng vốn, lượng lao động… Chỉ tiêu tuyệt đối thường là kết quả  
phép cộng, trừ.  
- Chỉ tiêu tương đối: Thường dùng trong phân tích các quan hệ kinh tế giữa các  
bộ phận, cơ cấu bộ phận trong tổng thể cho biết xu hướng phát triển của chỉ tiêu.  
Chẳng hạn, chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch về doanh thu bán hàng năm N doanh nghiệp  
X bằng 120%; tổng mức lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh bằng  
80%.  
- Chỉ tiêu bình quân: Là dạng đặc biệt chỉ tiêu tuyệt đối, nhằm phản ánh trình độ  
phổ biến hiện tượng nghiên cứu, như năng suất bình quân một lao động, thu nhập bình  
quân một lao động…  
* Theo tính chất khái quát và chi tiết chỉ tiêu, bao gồm:  
- Chỉ tiêu khái quát dùng để phản ánh kết quả chung doanh nghiệp như lợi  
nhuận thu về sau một kỳ kinh doanh…  
- Chỉ tiêu chi tiết dùng để phản ánh cụ thể từng kết quả kinh doanh như tỷ suất  
lợi nhuận so với doanh thu bán hàng, hệ số khả năng thanh toán ngay…  
* Theo nội dung kinh tế chỉ tiêu, bao gồm:  
- Chỉ tiêu phản ánh các điều kiện quá trình sản xuất như: số lượng công nhân, số  
vốn đầu tư, số máy móc thiết bị…  
- Chỉ tiêu phản ánh các kết quả tài chính như: lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận kinh  
tế, tỷ suất doanh thu tài chính…  
Tùy theo mục đích và nội dung phân tích có thể dùng chỉ tiêu biểu hiện bằng  
thước đo hiện vật, như sản lượng từng mặt hàng sản xuất, mức cung ứng từng loại  
nguyên vật liệu (kg, m, chiếc…) hoặc biểu hiện bằng thước đo giá trị, như giá thành  
sản phẩm sản xuất, doanh thu bán hàng (đồng), hoặc biểu hiện bằng thước đo thời  
gian, như tổng số ngày công, giờ công làm việc thực tế.  
Như vậy, để phân tích kết quả kinh doanh, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu  
phân tích tương đối hoàn chỉnh để phù hợp với từng cấp quản lý phục vụ cho hoạt  
động kinh doanh mang lại hiệu quả cao nhất.  
Hệ thống chỉ tiêu kinh tế là tổng thể các chỉ tiêu kinh tế sắp xếp theo một trình  
tự nhất định để đáp ứng nhu cầu phân tích phục vụ cho hoạt động kinh doanh.  
b) Nhân tố và phân loại nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích  
Nhân tố là những yếu tố bên trong mỗi chỉ tiêu, sự biến động mỗi nhân tố có  
tác động trực tiếp đến độ lớn, tính chất và xu hướng biến động chỉ tiêu nghiên cứu.  
5
Ví dụ:  
- Chỉ tiêu lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc vào các nhân tố:  
+ Lượng hàng hóa bán ra (biểu hiện bằng đơn vị hiện vật)  
+ Kết cấu về khối lượng sản phẩm hàng hóa  
+ Giá bán, giá mỗi đơn vị sản phẩm  
+ Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp  
- Chỉ tiêu giá thành đơn vị sản phẩm phụ thuộc vào các nhân tố:  
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất  
chung.  
+ Số lượng sản phẩm xuất ra (đơn vị hiện vật)  
Bởi vậy, khi phân tích kết quả kinh doanh thì không chỉ dừng lại ở việc đánh giá  
qua các chỉ tiêu, mà còn đi sâu phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh  
doanh. Trên cơ sở đó, tìm ra những biện pháp nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh  
trong doanh nghiệp.  
Nhân tố tác động đến kết quả quá trình sản xuất kinh doanh có rất nhiều, có thể  
phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.  
* Theo nội dung kinh tế nhân tố, bao gồm hai nhân tố sau đây:  
- Những nhân tố thuộc về điều kiện kinh doanh, đó là: số lượng lao động, số  
lượng vật tư, tiền vốn… Những nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất  
kinh doanh doanh nghiệp.  
* Theo tính tất yếu nhân tố, bao gồm hai loại:  
- Nhân tố chủ quan phát sinh và chi phối đến kết quả sản xuất kinh doanh là do  
sự chi phối bản thân doanh nghiệp. Chẳng hạn, như: giảm chi phí sản xuất, hạ giá  
thành sản phẩm, tăng thời gian lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu…là tùy thuộc vào  
sự nỗ lực chủ quan chính bản thân doanh nghiệp.  
- Nhân tố khách quan phát sinh và tác động đến kết quả kinh doanh như là một  
yêu cầu tất yếu, ngoài sự chi phối bản thân doanh nghiệp. Chẳng hạn như, giá cả thị  
trường, thuế suất…  
Việc phân tích kết quả kinh doanh theo sự tác động các nhân tố chủ quan và  
khách quan giúp cho doanh nghiệp đánh giá đúng đắn những nỗ lực bản thân doanh  
nghiệp và tìm hướng tăng nhanh hiệu quả kinh doanh.  
* Theo tính chất nhân tố, bao gồm hai loại:  
- Nhân tố số lượng: thường phản ánh quy mô sản xuất và kết quả kinh doanh,  
như số lượng lao động, số lượng vật tư, khối lượng sản phẩm hàng hóa sản xuất,  
doanh thu bán hàng…  
- Nhân tố chất lượng thường phản ánh hiệu suất kinh doanh, như giá thành đơn  
6
vị sản phẩm, lãi suất, mức doanh lợi, hiệu quả sử dụng vốn…  
Phân tích kết quả kinh doanh theo hướng tác động các nhân tố số lượng và chất  
lượng vừa giúp ích cho việc đánh giá phương hướng kinh doanh, chất lượng kịnh  
doanh, vừa có tác dụng trong việc xác định trình tự sắp xếp và thay thế các nhân tố  
khi tính toán mức độ ảnh hưởng từng nhân tố đến kết quả kinh doanh.  
* Theo xu hướng tác động nhân tố, bao gồm hai loại:  
- Nhân tố tích cực thường có tác dụng làm tăng quy mô kết quả sản xuất kinh  
doanh.  
- Nhân tố tiêu cực thường phát sinh và tác động làm ảnh hưởng xấu đến kết quả  
kinh doanh (làm giảm quy mô kết quả kinh doanh).  
Phân tích kết quả kinh doanh theo hướng tác động các nhân tố tích cực và tiêu  
cực, giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động tìm mọi biện pháp để phát huy những  
nhân tố tích cực, tăng kết quả kinh doanh. Đồng thời hạn chế tới mức tối đa những  
nhân tố tiêu cực, có tác động xấu đến kết quả quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.  
Trong phân tích, cần xác định xu hướng và sự bù trừ về độ lớn các loại nhân tố  
tích cực và tiêu cực để xác định sự ảnh hưởng tổng hợp tất cả các loại nhân tố đến chỉ  
tiêu phân tích.  
Việc phân loại nhân tố phải tùy thuộc mối quan hệ cụ thể nhân tố với chỉ tiêu  
phân tích trong các trường hợp cụ thể. Sự phân biệt giữa chúng chỉ có ý nghĩa tương  
đối trong quá trình phân tích và chúng có thể chuyển hóa cho nhau phụ thuộc vào mục  
đích việc nghiên cứu.  
Ví dụ: Doanh thu hàng hóa tiêu thụ là chỉ tiêu phân tích khi đánh giá kết quả  
tiêu thụ, nhưng lại là nhân tố khi phân tích mức lợi nhuận về tiêu thụ hàng hóa…  
Cũng cần lưu ý rằng, đối tượng nghiên cứu phân tích hoạt động kinh tế trong  
một doanh nghiệp là kết quả kinh doanh, biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế, dưới sự  
tác động các nhân tố kinh tế là quá trình (định tính). Do vậy, để phân tích cần lượng  
hóa tất cả các chỉ tiêu phân tích dưới sự ảnh hưởng những nhân tố bằng trị số xác  
định cụ thể (định lượng). Như vậy, trong quá trình phân tích, định tính và định lượng  
là những công việc chủ yếu kỹ thuật phân tích. Để thực hiện được công việc đó, cần  
nghiên cứu khái quát các phương pháp phân tích chủ yếu thường dùng trong phân tích  
kinh doanh.  
1.2.2. Nội dung nghiên cứu phân tích hoạt động kinh tế.  
Đối tượng nghiên cứu phân tích hoạt động kinh tế chính là kết quả kinh doanh  
các quá trình được thể hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế, ta có thể chi tiết nội dung phân  
tích hoạt động kinh tế trong doanh nghiệp như sau:  
- Phân tích các chỉ tiêu về kết quả kinh doanh như: sản lượng sản phẩm sản xuất,  
7
doanh thu bán hàng, giá thành sản phẩm, lợi nhuận thu được... Phân tích tình hình sử  
dụng các yếu tố sản xuất như lao động, TSCĐ, nguyên vật liệu và công nghệ sản  
xuất... trong mối quan hệ hữư cơ với các chỉ tiêu kết quả kinh doanh.  
- Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các Báo cáo tài chính.  
Để thực hiện nội dung trên, phân tích kinh doanh cần xác định các đặc trưng về  
mặt lượng các giai đoạn, các quá trình kinh doanh (số lượng, kết cấu, quan hệ, tỷ  
lệ…) nhằm xác định xu hướng và nhịp độ phát triển, xác định những nguyên nhân ảnh  
hưởng đến sự biến động các quá trình kinh doanh và mối liên hệ giữa kết quả kinh  
doanh với các điều kiện sản xuất kinh doanh. Thông qua phân tích để đưa ra các biện  
pháp phù hợp nhằm tăng cường hiệu quả các hoạt động kinh doanh.  
1.3. Các phương pháp nghiên cứu phân tích hoạt động kinh tế.  
1.3.1 Phương pháp chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích.  
Mọi kết quả kinh doanh đều cần thiết và có thể chi tiết theo những hướng khác  
nhau. Thông thường trong phân tích, phương pháp chi tiết thường được phân loại theo  
các hướng sau:  
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu (nội dung kinh tế chỉ tiêu): Mọi kết  
quả kinh doanh biểu hiện trên các chỉ tiêu đều bao gồm nhiều bộ phận cấu thành. Chi  
tiết các chỉ tiêu theo các bộ phận cùng với sự biểu hiện về lượng các bộ phận đó sẽ  
giúp ích rất nhiều trong việc đánh giá chính xác kết quả đạt được. Với ý nghĩa đó,  
phương pháp chi tiết theo bộ phận cấu thành được sử dụng rộng rãi trong phân tích  
mọi mặt kết quả kinh doanh.  
Ví dụ: Khi phân tích các chỉ tiêu phản ánh giá thành sản xuất đợn vị sản phẩm,  
ta có thể chi tiết theo ba khoản mục chi phí: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí  
nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung, nhằm xác định sự biến động từng  
khoản mục chi phí tới sự biến động chỉ tiêu giá thành sản xuất sản phẩm.  
- Chi tiết theo thời gian: Kết quả kinh doanh bao giờ cũng là kết quả một  
khoảng thời gian dài, dưới sự ảnh hưởng nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan  
khác nhau, tác động tới tiến độ thực hiện chỉ tiêu phân tích. Chi tiết theo thời gian sẽ  
giúp ích cho việc đánh giá kết quả kinh doanh được sát đúng và tìm được các giải  
pháp có hiệu lực cho công việc kinh doanh. Tuỳ vào đặc điểm quá trình kinh doanh,  
nội dung kinh tế chỉ tiêu phân tích và mục đích phân tích... khác nhau có thể lựa chọn  
khoảng thời gian cần chi tiết khác nhau và chỉ tiêu khác nhau phải chi tiết.  
Ví dụ: Khi nghiên cứu chỉ tiêu doanh thu bán hang của doanh nghiệp ta có thể  
phân chia doanh thu theo từng ngày, từng tháng hoặc từng quý để xem xét đánh giá,  
phân tích và chỉ rõ nguyên nhân biến động đó.  
8
- Chi tiết theo địa điểm phát sinh chỉ tiêu: Thông thường các kết quả sản xuất  
kinh doanh của doanh nghiệp là do các bộ phận thực hiện như phân xưởng, đội, tổ sản  
xuất kinh doanh. Do vậy, chi tiết theo địa điểm nhằm đánh giá các kết quả kinh doanh  
từng bộ phận phát sinh từ đó góp phần tăng cường công tác hạch toán kinh doanh nội  
bộ, qua đó phát hiện các cơ sở, đơn vị tiên tiến hoặc lạc hậu trong thực hiện các mục  
tiêu kinh doanh để có các chế độ khen thưởng, xử phạt thích đáng. Thông qua phân  
tích nhằm khai thác các khả năng tiềm tàng về sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn, đất  
đai…để nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh.  
1.3.2. Phương pháp so sánh.  
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích kinh doanh nói  
chung đặc biệt trong phân tích tài chính nói riêng. So sánh nhằm xác định xu hướng,  
mức độ biến động chỉ tiêu phân tích. Do đó, để đảm bảo ý nghĩa chỉ tiêu khi so sánh,  
cần phải thực hiện các vấn đề cơ bản như: xác định số định gốc để so sánh, xác định  
điều kiện để so sánh và xác định mục tiêu để so sánh.  
* Xác định số gốc để so sánh phụ thuộc vào mục đích cụ thể phân tích:  
- Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng các chỉ tiêu, gốc để so  
sánh là trị số chỉ tiêu kỳ trước (thực tế năm nay so với thực tế năm trước…).  
- Khi đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch các chỉ tiêu phân tích, số gốc để so  
sánh là trị số chỉ tiêu ở kỳ kế hoạch (thực hiện năm nay so với kế hoạch đưa ra).  
- Khi nghiên cứu khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường có thể so sánh số thực tế  
với mức độ hợp đồng hoặc tổng nhu cầu thị trường....  
Các trị số chỉ tiêu kỳ trước, kế hoạch hoặc thực tế năm trước gọi chung là trị số  
kỳ gốc và thời kỳ chọn làm gốc so sánh đó gọi chung là kỳ gốc. Trị số chỉ tiêu ở kỳ  
thực hiện, thực tế năm nay gọi là trị số kỳ phân tích, thời kỳ chọn để phân tích gọi tắt  
là kỳ phân tích.  
Ngoài việc so sánh theo thời gian, phân tích kinh doanh còn tiến hành so sánh  
kết quả kinh doanh theo không gian giữa các đơn vị, các bộ phận.  
* Xác định điều kiện để so sánh  
Điều kiện so sánh cần được quan tâm khác nhau khi so sánh theo thời gian và  
khi so sánh theo không gian. Khi so sánh theo thời gian cần chú ý các điều kiện:  
- Đảm bảo tính thống nhất về nội dung kinh tế, cách tính, phương pháp tính, đơn  
vị tính các chỉ tiêu kinh tế.  
Thông thường nội dung kinh tế các chỉ tiêu có tính ổn định và thường được  
thống nhất theo quy định cơ chế tài chính mỗi thời kỳ và mỗi quốc gia. Tuy nhiên, do  
sự phát triển hoạt động SXKD và nền kinh tế chung, nên nội dung kinh tế chỉ tiêu có  
thể thay đổi theo các chiều hướng khác nhau phụ thuộc vào tính hội nhập kinh tế  
9
trong khu vực và thế giới mỗi đất nước.  
- Bảo đảm tính thống nhất về phương pháp tính toán các chỉ tiêu.  
Trong kinh doanh, các chỉ tiêu có thể được tính theo các phương pháp khác  
nhau. Từ các chỉ tiêu giá trị sản lượng, doanh thu, lợi nhuận đến các chỉ tiêu năng suất  
lao động, khấu hao TSCĐ... có thể được tính toán theo các kỹ thuật khác nhau. Khi so  
sánh cần lựa chọn một phương pháp thống nhẩt.  
- Bảo đảm tính thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu cả về số lượng thời gian và  
giá trị.  
Khi so sánh mức đạt được trên các chỉ tiêu ở các đơn vị khác nhau, ngoài các  
điều kiện đã nêu, cần đảm bảo các điều kiện khác như: cùng hoạt động và cùng ngành  
nghề kinh doanh, có điều kiện kinh doanh tương tự nhau.  
Tất cả các điều kiện trên gọi chung là đặc tính “có thể so sánh” hay tính “so  
sánh được” chỉ tiêu phân tích.  
* Xác định mục tiêu so sánh  
Mục tiêu so sánh trong phân tích hoạt động kinh tế là xác định mức biến động  
tuyệt đối và mức biến động tương đối, xu hướng biến động chỉ tiêu phân tích (năng  
suất tăng nên giá thành giảm...).  
Mức biến động tuyệt đối được xác định trên cơ sở so sánh trị số chỉ tiêu giữa hai  
kỳ: kỳ phân tích và kỳ gốc hay so sánh giữa số phân tích và số gốc.  
Giả sử Q1, Q0 là trị số của chỉ tiêu ở kỳ phân tích và kỳ so sánh, khi đó  
ΔQ = Q1 Q0  
Được gọi là mức biến động tuyệt đối của chỉ tiêu Q  
Mức biến động tương đối được xác định trên cơ sở so sánh trị số các chỉ tiêu  
kinh tế nhưng có liên hệ với các chỉ tiêu kết quả hoặc điều kiện kinh doanh để thấy  
được bản chất các hiện tượng nghiên cứu, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm khai thác  
tối đa các yếu tố sản xuất.  
Trị số ΔQ/Q được gọi là mức độ biến động tương đối của chỉ tiêu Q  
Ví dụ: Hãy phân tích tình hình quỹ tiền lương công nhân doanh nghiệp X, căn  
cứ vào tài liệu sau:  
BẢNG PHÂN TÍCH QUỸ TIỀN LƯƠNG CỦA CÔNG NHÂN SẢN XUẤT  
Chênh lệch  
Kế  
hoạch  
Thực  
hiện  
Chỉ tiêu  
+/-  
%
1. Quỹ tiền lương công nhân  
500  
600  
100  
20  
10  
(đơn vị: triệu đồng)  
2. Khối lượng sản phẩm sản xuất  
(đơn vị: tấn)  
300  
480  
180  
60  
11  
Bài giải  
Căn cứ vào kết quả tính toán trên cho thấy: Tổng mức tiền lương công nhân sản  
xuất kỳ thực hiện tăng so với kỳ kế hoạch là 100 triệu đồng, tương ứng tốc độ tăng là  
20%, điều đó cho thấy chi phí của doanh nghiệp tăng lên. Mặt khác khi so sánh liên  
hệ với chỉ tiêu kết quả sản xuất ta thấy: tốc độ tăng của khối lượng sản phẩm sản xuất  
ra tăng nhanh hơn so với chi phí tiền lương. Điều này cho thấy, thực chất doanh  
nghiệp đã sử dụng tiết kiệm chi phí tiền lương so với kế hoạch đề ra.  
Phương pháp phân tích trên được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực, như:  
phân tích tình hình sử dụng lao động, tình hình sử dụng vật tư, tiền vốn, lợi nhuận…  
1.3.3. Phương pháp loại trừ (phương pháp phân tích ảnh hưởng các nhân  
tố).  
Trong phân tích hoạt động kinh tế, nhiều trường hợp cần xác định ảnh hưởng  
các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích bằng định lượng, sau đó kết hợp với định tính để  
đưa ra các biện pháp nhằm tăng quy mô hoạt động kinh doanh.  
Loại trừ là phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng từng nhân tố đến kết  
quả kinh doanh, bằng cách khi xác định sự ảnh hưởng nhân tố này thì loại trừ ảnh  
hưởng các nhân tố khác.  
Chẳng hạn, khi phân tích tổng doanh thu thu được từ một hoạt động sản xuất  
kinh doanh, một loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ một doanh nghiệp có thể xét đến sự  
ảnh hưởng hai nhân tố:  
- Số lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ bán ra.  
- Doanh thu trên một đơn vị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ đó là giá bán  
đơn vị sản phẩm hàng hóa.  
Cả hai nhân tố trên cùng đồng thời ảnh hưởng đến tổng doanh thu tiêu thụ,  
nhưng để xác định mức độ ảnh hưởng một nhân tố này thì phải loại trừ ảnh hưởng  
nhân tó khác, điều này có thể thực hiện bằng hai phương pháp chi tiết:  
- Phương pháp thứ nhất, dựa trực tiếp vào mức biến động từng nhân tố được gọi  
là phương pháp “ số chênh lệch”  
- Phương pháp thứ hai, dựa vào phép thay thế sự ảnh hưởng lần lượt từng nhân  
tố và được gọi là phương pháp ‘thay thế liên hoàn”  
a) Phương pháp số chênh lệch.  
Gọi Q0, Q1 là các chỉ tiêu kinh tế cần phân tích ở kỳ kế hoạch và kỳ thực hiện.  
a0, b0, c0, a1, b1, c1 là các nhân tố kinh tế có quan hệ với các chỉ tiêu dạng tích ở  
kỳ kế hoạch, kỳ thực hiện.  
Ta có:  
Q0 = a0 x b0 x c0  
Q1 = a1 x b1 x c1  
12  
Vậy đối tượng phân tích là: ∆Q = Q1 - Q0  
∆Q: thể hiện quy mô tăng, giảm của chỉ tiêu kinh tế cần nghiên cứu.  
Q  
Q
x 100%: thể hiện tốc độ tăng, giảm của chỉ tiêu kinh tế cần nghiên cứu .  
Từ đây ta xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới đối tượng cần phân  
tích:  
- Ảnh hưởng nhân tố a:  
Qa = (a1 - a0) x b0 x c0  
- Ảnh hưởng nhân tố b:  
Qb = (b1 - b0) x a1 x c0  
- Ảnh hưởng nhân tố c:  
Qc = (c1 - c0) x c1 x a1  
-
Tổng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố  
∆Q = ∆Qa + Qb + Qc  
Tổng hợp các kết quả phân tích để đưa ra nhận xét cho từng nhân tố, đâu là  
nhân tố tích cực cần phát huy và đâu là nhân tố tiêu cực cần đưa ra các biện pháp  
tương ứng nhằm nâng cao kết quả của chỉ tiêu phân tích.  
dụ: Hãy chỉ rõ nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ sản phẩm A của  
Doanh nghiệp X và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó đến tổng doanh  
thu tiêu thụ (bằng phương pháp số chênh lệch) căn cứ vào những thông tin sau:  
BẢNG PHÂN TÍCH DOANH THU THEO QUAN HỆ VỚI KHỐI LƯỢNG TIÊU THỤ VÀ  
GIÁ BÁN  
Chênh lệch  
+/-  
Thực  
hiện  
Chỉ tiêu – Nhân tố Đơn vị tính Kế hoạch  
%
1. Khối lượng sản  
phẩm, hàng hóa tiêu  
thụ  
Tấn  
500  
480  
-20  
-4  
1.000  
đồng/tấn  
2. Đơn giá bán  
40  
45  
5
12,5  
8
3. Tổng doanh thu  
1000 đồng  
20.000  
21.600  
1.600  
Bài giải  
Căn cứ vào kết quả tính toán trên cho thấy: Tổng doanh thu tiêu thụ kỳ thực hiện  
tăng so với kỳ kế hoạch là 1600 (nghìn đồng), tương ứng 8%.  
Cho thấy trong kỳ thực hiện doanh nghiệp đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đề  
13  
ra về tổng doanh thu. Đây sẽ là điều kiện để doanh nghiệp hoàn thành các mục tiêu  
tăng trưởng, phát triển và tăng tích lũy giá trị.  
Tổng doanh thu tiêu thụ tăng là do ảnh hưởng của các nhân tố đơn giá bán và  
khối lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ, thể hiện thông qua phương trình kinh tế sau:  
Tổng doanh thu = Đơn giá bán x Khối lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ  
DT = G x SL  
- Ảnh hưởng của giá bán (G) đến tổng doanh thu (DT):  
DT G = (G 1 G 0) x SL 0 = (45 -40) x 500 = 2.500 (nghìn đồng)  
Kê hoạch doanh nghiệp xây dựng mức giá bán 40 nghìn đồng, tuy nhiên thực tế  
thực hiện giá bán đơn vị tăng lên 45 nghìn đồng ( tăng 5 nghìn đồng/sản phẩm, tương  
ứng với tốc độ tăng 12,5%) Biến động tích cực này đã đảy tổng doanh thu trong kỳ  
thực hiện tăng 2.500 nghìn đồng. Nguyên nhân giá bán sản phẩm tăng là do: +  
Nguyên nhân khách quan: Do giá bán của loại sản phẩm này trên thị trường tăng nên  
doanh nghiệp tăng giá theo giá thị trường, do giá thành sản xuất sản phẩm tăng do chi  
phí đầu vào tăng nên doanh nghiệp phải tăng giá để tìm kiếm lợi nhuận, do xu hướng  
tiêu dùng trên thị trường tăng lên với sản phẩm nên doanh nghiệp đã tận dụng cơ hội  
này để tăng giá….  
+ Nguyên nhân chủ quan; do doanh nghiệp chủ động đẩy giá lên để tìm kiếm lợi  
nhuận, do doanh nghiệp đã đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị, đào tạo nâng cao tay  
nghề công nhân, tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào chất lượng… từ đó nâng cao  
chất lượng sản phẩm, nên có cơ sở để đẩy giá bán sản phẩm tăng lên…..  
- Ảnh hưởng của sản lượng tiêu thụ (SL) đến tổng doanh thu (DT)  
DTSL = (SL1 - SL0) x G1 = (480 500) x 45 = - 900 (nghìn đồng)  
Sản lượng tiêu thụ doanh nghiệp xây dựng trong kế hoạch là 500 sản phẩm, tuy  
nhiên, thực tế thực hiện thì lượng sản phẩm tiêu thụ không đạt được như kế hoạch đề  
ra. Lượng sản phẩm doanh nghiệp thực tế bán được là 480 sản phẩm (giảm 20 sản  
phẩm tương ứng tốc độ giảm 4%). Biến động này đã làm cho tổng doanh thu của  
doanh nghiệp trong kỳ thực hiện giảm 900 nghìn đồng. Như vậy doanh nghiệp đã  
không biết taamnj dụng cơ hội giá bán đơn vị tăng để đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ. Vì  
vậy mà giá bán sản phẩm tăng nhưng không phát huy hết tác dụng trong việc tăng  
tổng doanh thu.  
- Nguyên nhân làm cho sản lượng tiêu thụ giảm:  
+ Nguyên nhân khách quan: Do giá bán tăng nên người tiêu dung đã hạn chế  
việc mua sản phẩm để tiết kiệm chi tiêu gia đình, Do việc tiêu dung sản phẩm trên thị  
trường đã bão hòa nên nhu cầu về sản phẩm không còn được duy trì như dự tính của  
14  
doanh nghiệp. Do trên thị trường xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh mới cũng sản  
xuất và cung ứng loại sản phẩm của doanh nghiệp…  
+ Nguyên nhân chủ quan: Do trong kỳ thực hiện doanh nghiệp nhận được ít đơn  
hàng hơn so với dự tính trong kế hoạch. Do doanh nghiệp dự tính giảm sản lượng để  
gây lên sự khan hiếm để có cơ sở tăng giá. Do doanh nghiệp không tìm đươc nguồn  
đầu vào kịp thời làm quá trình sản xuất bị gián đoạn….  
- Tổng mức độ ảnh hưởng của hai nhân tố:  
DT = DT G + DTSL = 2.500 + (-900) = 1.600 (nghìn đồng)  
Với tác động của giá bán và sản lượng tiêu thụ đã làm cho tổng doanh thu trong  
kỳ thực hiện hoàn thành vươt mức kế hoạch đề ra ( tăng 1600 nghìn đồng, tương ứng  
tốc độ tăng 8%, trong đó giá bán sản phẩm tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ giảm  
của sản lượng. Mặc dù doanh thu tăng nhưng nguyên nhân lại là do tăng giá bán. Biến  
động này là tốt nhưng không bền vững do giá bán là nhân tố nhạy cảm ảnh hưởng đến  
tâm lý và lựa chọn của người tiêu dung. Do vậy trong kỳ tiếp theo doanh nghiệp cần  
thực thi chính sách giá phù hợp sao cho tăng doanh thu nhưng giá bán ổn định và tìm  
kiếm lợi nhuận từ nội lục của doanh nghiệp. Một số giải pháp doanh nghiệp có thể  
thực thi:  
+ Tăng năng suất sản xuất bằng việc đầu tư đào tạo tay nghề công nhân, nâng  
cấp máy móc thiết bị. Từ đó hạ giá thành sản phẩm để tìm kiếm lợi nhuận ngay cả khi  
giá bán không tăng  
+ Tìm kiếm và phát triển thị trường tiêu thụ mới, thực thi các chính sách khuyến  
thị, khuyến mại để tăng sức mua của người tiêu dùng.  
+ Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng lòng tin người tiêu dung an tâm  
về chất lượng để làm cơ sở cho việc thực thi chính sách tăng giá nếu cần thiết.  
………..  
* Điều kiện để vận dụng phương pháp số chênh lệch là:  
- Các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng  
phương trình tích.  
- Việc sắp xếp và trình tự xác định ảnh hưởng của các nhân tố cần tuân theo  
quy luật “chất biến dẫn đến lượng biến”.  
b) Phương pháp thay thế liên hoàn  
Ta có thể xác định ảnh hưởng của các nhân tố qua thay thế lần lượt và liên tiếp  
các nhân tố để xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó lấy kết quả  
trừ đi chỉ tiêu khi chưa có biến đổi nhân tố nghiên cứu sẽ xác định được ảnh hưởng  
nhân tố này.  
15  
Điều kiện vận dụng phương pháp thay thế liên hoàn khi các nhân tố có quan  
hệ với chỉ tiêu dưới dạnh biểu thức đại số, khi phân tích ta chỉ việc thay thế liên tiếp  
các nhân tố để xác định trị số ảnh hưởng của mỗi nhân tố tới kết quả phân tích.  
Phương pháp số chênh lệch là trường hợp đặc biệt phương pháp loại trừ,  
phương pháp thay thế liên hoàn có thể sử dụng cho tất cả mọi trường hợp, khi ta  
muốn xác định ảnh hưởng của các nhân tố tới chỉ tiêu phân tích.  
Gọi Q0, Q1 là các chỉ tiêu kinh tế cần phân tích ở kỳ kế hoạch và kỳ thực hiện.  
a0, b0, c0, a1, b1, c1 là các nhân tố kinh tế có quan hệ với các chỉ tiêu dưới dạng  
biểu thức đại số ở kỳ kế hoạch, kỳ thực hiện.  
Ta có:  
Q0 = a0 + b0 x c0  
Q1 = a1 + b1 x c1  
Vậy đối tượng phân tích là: ∆Q = Q1 - Q0  
∆Q: thể hiện quy mô tăng, giảm của chỉ tiêu kinh tế cần nghiên cứu.  
Q  
Q
x 100%: thể hiện tốc độ tăng, giảm của chỉ tiêu kinh tế cần nghiên cứu.  
Từ đây ta xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới đối tượng cần phân  
tích:  
- Ảnh hưởng nhân tố a:  
∆Qa = (a1 + b0 x c0) - Q0  
- Ảnh hưởng nhân tố b:  
Qb = (a1 + b1 x c0) - (a1 + b0 x c0)  
- Ảnh hưởng nhân tố c:  
Qc = Q1 - (a1 + b1x c0)  
- Tổng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố  
∆Q = ∆Qa + Qb + Qc  
Tổng hợp các kết quả phân tích để đưa ra nhận xét cho từng nhân tố, đâu là  
nhân tố tích cực cần phát huy và đâu là nhân tố tiêu cực cần đưa ra các biện pháp  
tương ứng nhằm nâng cao kết quả của chỉ tiêu phân tích.  
Ví dụ: Hãy chỉ rõ nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ sản phẩm A của  
Doanh nghiệp X và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó đến tổng doanh  
thu tiêu thụ (bằng phương pháp số chênh lệch) căn cứ vào những thông tin sau:  
BẢNG PHÂN TÍCH DOANH THU THEO QUAN HỆ VỚI KHỐI LƯỢNG TIÊU THỤ VÀ  
GIÁ BÁN  
Chênh lệch  
+/-  
Thực  
hiện  
Chỉ tiêu – Nhân tố Đơn vị tính Kế hoạch  
%
16  
1. Khối lượng sản  
phẩm, hàng hóa tiêu  
thụ  
Tấn  
500  
480  
-20  
-4  
1000  
đồng/tấn  
2. Đơn giá bán  
40  
45  
5
12,5  
8
3. Tổng doanh thu  
Bài giải  
1000 đồng  
20.000  
21.600  
1.600  
Căn cứ vào kết quả tính toán trên cho thấy: Tổng doanh thu tiêu thụ kỳ thực  
hiện tăng so với kỳ kế hoạch là 1600 (nghìn đồng), tương ứng 8%. Tổng doanh thu  
tiêu thụ tăng là do ảnh hưởng của các nhân tố đơn giá bán và khối lượng sản phẩm  
hàng hóa tiêu thụ, thể hiện thông qua phương trình kinh tế sau:  
Tổng doanh thu = Đơn giá bán x Khối lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ  
DT = G x SL  
- Ảnh hưởng của giá bán (G) đến tổng doanh thu (DT):  
DT G = (G 1 G 0) x SL 0 = (45 -40) x 500 = 2.500  
- Ảnh hưởng của sản lượng tiêu thụ (SL) đến tổng doanh thu (DT)  
DTSL = G1 x (SL1 - SL0) = 45 x (480 500) = - 900  
- Tổng mức độ ảnh hưởng của hai nhân tố:  
DT = DT G + DTSL = 2.500 + (-900) = 1.600  
* Điều kiện để vận dụng phương pháp thay thế liên hoàn:  
Các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu hiện dưới dạng biểu  
thức đại số, gồm nhiều các phép tính khác nhau.  
* Chú ý: Nếu các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích được thể hiện qua  
phương trình thương số thì khi xác định mức độ ảnh hưởng các nhân tố lên chỉ tiêu  
phân tích, nhân tố trên tử số sẽ thay đổi trước, nhân tố dưới mẫu số sẽ thay đổi sau.  
Trường hợp tử số hoặc mẫu số có nhiều nhân tố chi tiết hơn khác thì trât tư thay thế  
và sáp xếp các nhân tố tuân theo quy tắc sắp xếp các nhân tố như đã nêu ở trên.  
Gọi Q0, Q1 là các chỉ tiêu kinh tế cần phân tích ở kỳ kế hoạch và kỳ thực hiện.  
a0, b0, a1, b1 là các nhân tố kinh tế có quan hệ với các chỉ tiêu dưới dạng thương  
số ở kỳ kế hoạch, kỳ thực hiện.  
a0  
Ta có:  
Q0 =  
b0  
a1  
b1  
Q1 =  
Vậy đối tượng phân tích là: ∆Q = Q1 - Q0  
17  
∆Q: thể hiện quy mô tăng, giảm của chỉ tiêu kinh tế cần nghiên cứu.  
Q  
Q
x 100%: thể hiện tốc độ tăng, giảm của chỉ tiêu kinh tế cần nghiên cứu.  
Từ đây ta xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới đối tượng cần phân  
tích:  
a1 a0  
- Ảnh hưởng nhân tố a: ∆Qa =  
-
b0 b0  
a1  
a1  
- Ảnh hưởng nhân tố b: Qb =  
-
b1 b0  
- Tổng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố  
∆Q = ∆Qa + Qb  
Tổng hợp các kết quả phân tích để đưa ra nhận xét cho từng nhân tố, đâu là  
nhân tố tích cực cần phát huy và đâu là nhân tố tiêu cực cần đưa ra các biện pháp  
tương ứng nhằm nâng cao kết quả của chỉ tiêu phân tích.  
1.3.4. Phương pháp liên hệ.  
Mọi kết quả sản xuất kinh doanh đều có mối liên hệ, cân đối mật thiết với nhau  
giữa các mặt, các bộ phận…Để lượng hóa các mối liên hệ, cân đối đó, ngoài các  
phương pháp đã nêu, trong phân tích kinh doanh, còn sử dụng phổ biến các cách  
nghiên cứu liên hệ phổ biến, như: liên hệ cân đối, liên hệ tuyến tính, liên hệ phi tuyến  
tính.  
a)Liên hệ cân đối.  
Liên hệ cân đối có cơ sở là sự cân bằng về lượng giữa hai mặt của các yếu tố và  
quá trình kinh doanh. Ví dụ: giữa tổng số tài sản cân bằng với tổng số nguồn vốn;  
giữa tình hình huy động và sử dụng các nguồn vốn, quỹ; giữa nhu cầu và khả năng  
thanh toán; giữa nguồn mua sắm và tình hình sử dụng các loại vật tư; giữa thu, chi và  
kết quả kinh doanh... Mối liên hệ cân đối vốn có về lượng của các yếu tố dẫn tới sự  
ảnh hưởng của các yếu tố tới chỉ tiêu phân tích... Dựa vào nguyên tắc đó, cũng có thể  
c định mức ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu phân tích.  
b) Liên hệ trực tuyến.  
Liên hệ trực tuyến thường là mối liên hệ theo một hướng xác định giữa các chỉ  
tiêu cần phân tích với các nhân tố ảnh hưởng. Ví dụ: doanh thu có quan hệ cùng chiều  
với lượng hàng bán ra; lợi nhuận có quan hệ ngược chiều với chi phí... Trong mối  
quan hệ trực tuyến này, tuỳ theo mức độ phụ thuộc giữa các chỉ tiêu có thể phân ra  
làm 2 loại quan hệ chủ yếu sau:  
- Liên hệ trực tiếp giữa các chỉ tiêu. Ví dụ: doanh thu một loại sản phẩm và  
khối lượng sản phẩm tiêu thụ, lợi nhuận và chi phí của doanh nghiệp... Trong trường  
18  
hợp này, các mối liên hệ không qua một chỉ tiêu liên quan nào.  
- Liên hệ gián tiếp là quan hệ giữa các chỉ tiêu, trong đó mức phụ thuộc giữa  
chúng được xác định bằng một hệ số điều chỉnh. Ví dụ: mức tăng chi phí sản xuất  
chung của phân xưởng phụ thuộc vào tỷ lệ hoàn thành kế hoạch sản xuất chung  
doanh nghiệp.  
Sự phân biệt quan hệ trực tiếp và gián tiếp chỉ là tương đối, chúng có thể  
chuyển hóa cho nhau tùy theo mục đích của việc nghiên cứu các chỉ tiêu kinh tế.  
c) Phương pháp hồi quy và tương quan.  
Phương pháp tương quan là quan sát mối liên hệ giữa 1 tiêu thức kết quả và 1  
hoặc nhiều tiêu thức nguyên nhân ở dạng liên hệ thực. Còn hồi quy là một phương  
pháp xác định độ biến thiên của tiêu thức kết quả theo sự biến thiên tiêu thức nguyên  
nhân. Bởi vậy, 2 phương pháp này có liên quan chặt chẽ với nhau và gọi tắt là phương  
pháp tương quan.  
Nếu quan sát, đánh giá mối liên hệ giữa 1 tiêu thức kết quả và một tiêu thức  
nguyên nhân gọi là tương quan đơn. Nếu quan sát, đánh giá mối liên hệ giữa 1 tiêu  
thức kết quả với nhiều tiêu thức nguyên nhân gọi là tương quan bội.  
1.4. Tổ chức phân tích hoạt động kinh tế.  
1.4.1 Khái quát chung về tổ chức phân tích hoạt động kinh tế.  
Sau khi nghiên cứu nội dung và phương pháp phân tích có thể thấy hệ thống  
phân tích bao gồm nhiều yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau: Từ đối tượng khái  
quát đến nội dung chi tiết và các phương pháp phân tích như: chi tiết, so sánh, liên hệ,  
loại trừ… Nhiệm vụ của tổ chức phân tích kinh tế là tạo ra mối liên hệ giữa các yếu tố  
này trong từng nội dung phân tích cụ thể như: sản xuất, cung ứng và tiêu thụ, chi phí,  
tài chính…nhằm đánh giá tốt tình hình kinh doanh đơn vị và vạch ra những tiềm  
năng có thể khai thác được trong kỳ kinh doanh tới. Như vậy, tổ chức phân tích kinh  
tế là vận dụng tổng hợp các phương pháp phân tích để đánh giá đúng kết quả, chỉ rõ  
những nhân tố tích cực và tiêu cực, từ đó đưa ra các biện pháp ứng xử cho phù hợp  
trong từng tình huống kinh doanh cụ thể. Vậy tổ chức phân tích kinh tế là một nội  
dung cơ bản của hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp và có ý nghĩa thực tiễn  
đối với các nhà quản trị.  
Trong thực tế, các nhà phân tích không chỉ thảo ra những kế hoạch phân tích  
chung chung, mà phải phân tích thực sự từ các tài liệu kế toán, tài chính của doanh  
nghiệp. Thông tin từ việc phân tích là căn cứ để đưa ra các quyết định phục vụ cho  
hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao.  
19  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 115 trang yennguyen 26/03/2022 5881
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh 1 - Nghề: Kế toán doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phan_tich_hoat_dong_kinh_doanh_1_nghe_ke_toan_doa.pdf