Giải pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp cho sinh viên nước ngoài học tiếng Việt

TPCHÍKHOAHỌC VÀ CÔNG NGHỆ  
Trường Đại học Hùng Vương  
JOURNAL OF SCIENCEANDTECHNOLOGY
HUNG VUONG UNIVERSITY  
Tập 15, Số 2 (2019): 48-57  
Vol. 15, No. 2 (2019): 48 - 57  
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.hvu.edu.vn  
GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG GIAO TIẾP  
CHO SINH VIÊN NƯỚC NGOÀI HỌC TIẾNG VIỆT  
Nguyễn ị úy Hằng, Đặng Lê Tuyết Trinh, Hán ị u Hiền  
Khoa KHXH&VHDL – Trường Đại học Hùng Vương  
Ngày nhận bài: 10/6/2019; Ngày sửa chữa: 28/8/2019; Ngày duyệt đăng: 04/9/2019  
Tóm TắT  
ục tiêu lớn nhất của dạy tiếng Việt cho người nước ngoài chính là dạy cho người học có thể giao tiếp tốt.  
M
Dựa trên quan điểm dạy học theo hướng giao tiếp, đặc biệt xuất phát từ thực trạng dạy học tiếng Việt trong  
giao tiếp của lưu học sinh nước ngoài đang học tập tại Trường Đại học Hùng Vương, bài viết đề xuất một số  
giải pháp nâng cao hiệu quả giao tiếp cho người học tiếng Việt nhằm thúc đẩy năng lực sáng tạo cũng như khả  
năng tiếp cận ngôn ngữ đích một cách nhanh nhất, khoa học nhất đối với các lưu học sinh (LHS) nước ngoài.  
Từ khóa: Tiếng Việt, phương pháp, giao tiếp, kỹ năng giao tiếp, lưu học sinh nước ngoài.  
dụng những phương pháp thích hợp trong  
dạy - luyện - rèn đối với LHS nước ngoài.  
1. Đặt vấn đề  
Dạy tiếng Việt cho lưu học sinh nước  
ngoài là cả một vấn đề lớn đối với các giảng  
viên, các chuyên gia trong lĩnh vực này. Dạy  
tiếng Việt như thế nào để có thể đạt hiệu quả  
tốt nhất, để lưu học sinh (LHS) nước ngoài  
có thể tiếp cận và sử dụng tiếng Việt tốt nhất  
trong sinh hoạt, học tập và nghiên cứu tại  
Việt Nam? Tại các cơ sở giảng dạy tiếng Việt,  
các chuyên gia hàng đầu đều không thể phủ  
nhận: đích tới của dạy học tiếng Việt là sử  
dụng ngôn ngữ Việt trong mọi hoàn cảnh,  
song trước hết là dạy giao tiếp. Giao tiếp  
được coi là mấu chốt giải quyết mọi vấn đề  
cho LHS nước ngoài, từ sự thuận lợi trong  
ăn, ở, sinh hoạt đến việc tạo đà cho quá trình  
học tập và nghiên cứu. Tuy nhiên, thực tiễn  
giảng dạy, đào tạo tại một số trường đại học,  
cao đẳng hiện nay cho thấy, kỹ năng giao  
tiếp bằng tiếng Việt không phải lúc nào cũng  
được lưu ý trong quá trình giảng dạy. Hoặc  
giả có được lưu ý thì cũng chưa hẳn được áp  
Xuất phát từ vai trò của vấn đề giao tiếp  
bằng tiếng Việt đối với LHS nước ngoài, xuất  
phát từ những đòi hỏi thực tiễn của lưu học  
sinh nước ngoài tại Đại học Hùng Vương,  
chúng tôi muốn tìm kiếm giải pháp tối ưu  
trong giảng dạy tiếng Việt, trao cho lưu học  
sinh nước ngoài thêm một cơ hội để sống  
và học tập tại Việt Nam tốt nhất có thể. Bởi  
vậy, nội dung của bài viết sẽ hướng đến đích:  
tìm giải pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp cho  
lưu học sinh đang sống và học tập tại Đại  
học Hùng Vương (ĐHHV), mở rộng ra là  
các LHS đang sống và học tập tại các cơ sở  
giáo dục, dạy học tiếng Việt trong toàn quốc.  
2. Phương pháp nghiên cứu  
Hướng tới đề xuất giải pháp nâng cao kỹ  
năng giao tiếp cho LHS nước ngoài, chúng  
Email: truongkhoa.nv@gmail.com  
48  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ  
Tập 15, Số 2 (2019): 48 - 57  
tôi vận dụng phối kết hợp các phương  
pháp sau:  
dựa trên những quy tắc nhất định trong hội  
thoại (luân phiên lượt lời, liên kết hội thoại,  
cộng tác hội thoại và tôn trọng thể diện).  
Những nguyên tắc hội thoại này chi phối và  
tác động mạnh mẽ tới quá trình hội thoại  
trong giao tiếp.  
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết (dạy  
tiếng Việt theo định hướng giao tiếp).  
- Phương pháp điều tra, khảo sát: dùng  
để xác thực các nội dung thông tin về thực  
trạng dạy – học tiếng Việt tại Trường Đại học  
Hùng Vương của lưu học sinh nước ngoài.  
Để giao tiếp đạt hiệu quả cao cần có kỹ  
năng giao tiếp. Đó chính là năng lực, khả  
năng chuyên biệt của một cá nhân về một  
hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng  
để giải quyết tình huống hoặc công việc  
phát sinh trong cuộc sống. Nó đồng thời  
là sản phẩm của một quá trình rèn luyện,  
học tập. Năng lực giao tiếp vượt trội, theo  
Saville - Troike, được xuất phát từ nền tảng  
kiến thức ngôn ngữ, kỹ năng tương tác,  
kiến thức văn hóa (người viết nhấn mạnh).  
Ba yếu tố nói trên phụ thuộc vào quá trình  
tích lũy, là kết quả quá trình rèn luyện lâu  
dài của mỗi cá nhân.  
- Phương pháp chuyên gia: dùng để tập  
hợp ý kiến chuyên gia về dạy học Tiếng Việt,  
đặc biệt là dạy giao tiếp bằng tiếng Việt cho  
người nước ngoài.  
3. Kết quả nghiên cứu  
3.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp  
3.1.1. Quan điểm tiếp cận dạy học theo  
hướng giao tiếp  
Giao tiếp có vai trò và chức năng rất quan  
trọng đối với mỗi cá nhân và xã hội, là điều  
kiện của sự tồn tại và phát triển xã hội. Trong  
đời sống, giao tiếp là điều kiện thỏa mãn nhu  
cầu, hình thành nhân cách con người. Hoạt  
động giao tiếp được tiến hành bằng nhiều  
phương tiện khác nhau (hệ thống tín hiệu,  
ký hiệu, các cử chỉ, hành động, ngôn ngữ cơ  
thể...), tuy nhiên ngôn ngữ là phương tiện  
giao tiếp tốt nhất. Các phương tiện giao tiếp  
khác chỉ mang tính bổ sung vào những điểm  
yếu của ngôn ngữ mà thôi.  
Tiếp cận dạy tiếng Việt như một ngoại  
ngữ, định hướng dạy học giao tiếp được  
nhấn mạnh. eo đó, giáo viên (GV) chú  
trọng phương pháp giao tiếp, hướng tới khả  
năng ứng dụng luật ngữ pháp để hình thành  
câu đúng, biết sử dụng nó đúng lúc, đúng  
nơi, đúng đối tượng, đồng thời thoả mãn  
được ba yêu cầu: trôi chảy (fluency), chính  
xác (accuracy), và phù hợp (appropriacy).  
Vi phương pháp này, người học luôn đóng  
vai trò làm trung tâm. Giáo viên thường  
thiết kế chương trình dựa trên việc phân tích  
nhu cầu của người học. Các hoạt động trên  
lớp gắn liền với việc sử dụng tiếng, thông  
qua đó, học viên nắm thành thạo các chiến  
lược giao tiếp như: biết hỏi lại khi chưa rõ  
vấn đề, biết yêu cầu nhắc lại, biết đàm phán  
thông tin, biết “đưa đẩy” khi nói chuyện một  
cách tự nhiên v.v. Người học học tiếng bằng  
sử dụng tiếng qua các hoạt động giao tiếp  
chứ không nghe giáo viên giảng giải về tiếng  
đang học; các kỹ năng như nghe, nói, đọc,  
viết được tiến hành đan xen chứ không tách  
Giao tiếp có thể diễn ra ở dạng nói hoặc  
dạng viết, tuy nhiên dạng nói là phổ biến  
và chủ yếu. Các cuộc thoại trong giao tiếp  
không giống nhau do đặc điểm của thoại  
trường, số lượng người tham gia, cương vị  
của những người tham gia hội thoại, ở tính  
có đích hay không có đích trong những cuộc  
thoại... Mỗi cuộc thoại được tạo ra cũng liên  
quan chặt chẽ đến vấn đề cấu trúc, cơ chế  
hoạt động của hội thoại, đó là sự trao lời và  
tranh lời. Hội thoại muốn có kết quả tốt phải  
49  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ  
Nguyễn Thị Thúy Hằng và ctv  
biệt. Học tiếng thực sự là quá trình sáng tạo,  
chấp nhận mắc lỗi. Ngữ liệu giảng dạy được  
lấy từ cuộc sống chứ không phải được các  
soạn giả viết ra nhằm mục tiêu sử dụng duy  
nhất trên lớp học. Điều đó cũng có nghĩa là  
học viên có khả năng làm được những việc  
cụ thể như điền đơn, viết đơn, biết thỉnh cầu,  
biết xin lỗi trong những tình huống thực tế.  
viện Quảng Tây Trung Quốc. Số sinh viên  
này đăng ký học theo chương trình tiếng  
Việt 01 năm tại trường ĐHHV. Không  
giống sinh viên Lào, về lứa tuổi, lưu học  
sinh Trung Quốc đa số ở lứa tuổi 17-20.  
Vì vậy, khả năng nhận thức khá đồng đều  
theo tỷ lệ 60% loại khá - tốt; 40% loại  
trung bình. Trong đó có một số ít nhận  
thức chưa thực sự nhanh nhạy, lỗi về phát  
âm khá nặng do các LHS Trung Quốc bị  
ảnh hưởng bởi đặc thù thói quen ngôn  
ngữ Hán. Xét về vốn tiếng Việt, tất cả các  
em mới được học tiếng Việt trong một  
tháng trước khi sang Việt Nam. Đa số các  
em mới chỉ được học phát âm các chữ cái  
tiếng Việt. Như vậy có thể nhận định: lưu  
học sinh Trung Quốc sang Việt Nam học  
tiếng Việt đa phần ở trong tình trạng mới  
được giới thiệu về chữ cái và cách phát âm  
các chữ cái tiếng Việt.  
3.1.2. Đặc điểm đối tượng học tiếng Việt tại  
Trường Đại học Hùng Vương (ĐHHV)  
Hiện tại trường ĐHHV đào tạo hai đối  
tượng chính: LHS Lào và Trung Quốc. LHS  
Lào học tại trường khá đông (hơn 200).  
Trong đó, đối tượng LHS học tiếng Việt năm  
thứ nhất là 54 học viên. Đa số học sinh đến  
từ 3 tỉnh: Luông Nậm à, Phông Sa Ly và U  
Đôm Xay. Đặc điểm (về lứa tuổi, khả năng  
nhận thức, vốn từ Tiếng Việt …) của LHS  
Lào đa dạng:  
- Vlứa tuổi, lưu học sinh Lào đa số ở  
lứa tuổi mới tốt nghiệp THPT. Còn lại một  
số đang là công chức, viên chức nhà nước.  
Trong đó, có cán bộ nằm trong độ tuổi 30 -  
trên 40 tuổi.  
3.1.3. Hoạt động dạy học tiếng Việt cho sinh  
viên nước ngoài tại Trường ĐHHV  
3.1.3.1. Chương trình, giáo trình dạy học  
Về mặt chương trình: Hiện tại, Trường  
Đại học Hùng Vương có hai chương trình  
đào tạo đối với sinh viên hai nước (do đối  
tượng học và yêu cầu chương trình học khác  
nhau). Vi LHS Lào, học tiếng Việt là nền  
tảng để tiếp tục học các chuyên ngành đại  
học tại Việt Nam. Còn LHS Trung Quốc vốn  
dĩ là các sinh viên khoa Tiếng Việt của Học  
viện Hồng Hà và Quảng Tây, bởi vậy, học  
tiếng Việt buộc phải theo chương trình yêu  
cầu của Học viện bạn. Chương trình Tiếng  
Việt cho sinh viên Lào được tiến hành với  
tổng số 950 tiết. Chương trình tiếng Việt  
cho LHS Trung Quốc có tổng số 828 tiết. Cả  
hai chương trình đều do Bộ môn Ngữ văn  
Trường Đại học Hùng Vương xây dựng dựa  
trên thỏa thuận hợp tác và mục tiêu hướng  
tới trong đào tạo của cả hai đối tượng.  
- Khả năng nhận thức của lưu học sinh  
Lào: 40% loại khá – tốt. 40% loại trung bình,  
20% nhận thức chưa thực sự nhanh nhạy.  
- Vốn từ tiếng Việt: 99% chưa biết tiếng  
Việt; 1% biết sơ qua về tiếng Việt do tự học  
hoặc được học ở trường phổ thông vùng cao  
(một tiếng trong một tuần). Như vậy có thể  
nhận định: lưu học sinh Lào sang Việt Nam  
học tiếng Việt đa phần ở trong tình trạng  
chưa biết gì về tiếng Việt.  
Theo ký kết hợp tác đào tạo, hàng năm,  
sinh viên Trung Quốc (Khoa Tiếng Việt  
của Học viện Hồng Hà và Học viện Quảng  
Tây) được gửi sang học tiếng Việt 01 năm  
(sỹ số giao động từ 15 đến 30 LHS). Năm  
học 2018 - 2019, trường ĐHHV đón 16  
sinh viên của Học viện Hồng Hà và Học  
50  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ  
Tập 15, Số 2 (2019): 48 - 57  
Về giáo trình: Đại học Hùng Vương sử  
dụng nhiều bộ giáo trình trong dạy học tiếng  
Việt. Do đặc thù hai đối tượng khác nhau,  
chương trình khác nhau nên khối lượng và  
đầu giáo trình đối với LHS Lào và Trung  
Quốc cũng khác nhau. Bên cạnh việc chọn  
lọc vận dụng các giáo trình được phát hành  
trên toàn quốc, trong quá trình giảng dạy, bộ  
môn còn tự biên soạn giáo trình, bài giảng  
bổ sung nhằm thực hiện tốt nhất mục tiêu  
giảng dạy. Như vậy, ưu điểm của giáo trình  
được sử dụng ở đây là tính chính thống, tính  
mô phạm, tính chính xác (với các giáo trình  
phát hành trên toàn quốc đã qua kiểm duyệt  
chặt chẽ từ nhà xuất bản, được kiểm nghiệm,  
sàng lọc qua thời gian). Các bài giảng được  
soạn giảng bổ sung cũng hướng tới mục tiêu  
nhấn mạnh vào các năng lực sẵn có của LHS,  
khắc phục những hạn chế của các em (theo  
từng lứa). Tuy nhiên, không phải không có  
nhược điểm từ chính thực tế này. Việc sử  
dụng quá nhiều giáo trình giảng dạy đôi  
khi dẫn đến rối, không rõ mục tiêu. Các bài  
soạn bổ sung cũng không được kiểm duyệt  
và lưu hành chính thống (vì mang tính kinh  
nghiệm cá nhân).  
gắn với thực hành: thực hành lập hội thoại,  
thực hành rèn đọc kể, thực hành trải nghiệm  
tham gia sự kiện, lễ hội địa phương...; hình  
thức thi cũng được thay đổi, hướng tới vấn  
đáp toàn bộ theo định dạng đề thi nói của  
Bộ Giáo dục và Đào tạo (Dành cho khung  
năng lực 6 bậc). Chỉ có điều sự vận dụng và  
phát huy ý nghĩa cũng như giá trị của thực  
hành giao tiếp không phải khi nào cũng  
trở thành một hành động dạy mang tính tự  
giác và triệt để. Và hình thức thực tế để tăng  
cường giao tiếp chưa thực sự phong phú. Đó  
chính là hạn chế cần khắc phục.  
Về việc học, LHS chưa thực sự tự giác  
và sáng tạo trong giao tiếp. Mới sang Việt  
Nam, các em cơ bản chưa mạnh dạn, trong  
đó nguyên nhân lớn nhất là hạn chế về tiếng  
Việt. Khi học, các em vẫn thiếu tự tin do sợ  
sai và xấu hổ. Hạn chế này dẫn đến việc LHS  
không dám kết bạn, không giao tiếp bằng  
tiếng Việt, khép kín bản thân sau giờ học.  
Bởi vậy, LHS không thể sử dụng tốt nhất  
tiếng Việt trong giao tiếp. Xét trên phương  
diện này, mục tiêu tăng cường giao tiếp, nâng  
cao kỹ năng giao tiếp cho LHS đã không đạt,  
thậm chí có thể nói là thất bại.  
3.1.3.2. Vấn đề giảng dạy và học tập  
Dạy và học luôn đi đôi với nhau, có giá trị  
song hành và tương hỗ bởi đây chính là hai  
mặt của một quá trình. Trước hết xin được  
nói về việc dạy tiếng Việt ở Đại học Hùng  
Vương. ời gian giảng dạy đa số diễn ra  
trong lớp học. ời lượng 5 ngày/tuần, mỗi  
ngày 6 - 7 tiết, được chia làm hai buổi. Việc  
thực hành giảng dạy cũng gắn với lớp học.  
Trong hai năm gần đây, bộ môn Ngữ văn đã  
liên tục thay đổi nhằm nâng cao hiệu quả  
giảng dạy, đặc biệt là hiệu quả giao tiếp. Cụ  
thể: với mỗi học phần, GV xác định mục  
tiêu kỹ năng rất rõ. Học phần được lưu ý  
phát triển kỹ năng giao tiếp chính là học  
phần Hội thoại tiếng Việt. Trong học phần  
này, những giờ dạy lý thuyết liên tục được  
3.3. Đề xuất giải pháp nâng cao kỹ năng  
giao tiếp bằng tiếng Việt cho lưu học  
sinh nước ngoài  
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn,  
xuất phát từ thực trạng dạy học, chúng tôi  
đã hướng tới các nhóm giải pháp nhằm nâng  
cao hiệu quả dạy học tiếng Việt, trong đó có  
kỹ năng giao tiếp. Trong khuôn khổ này,  
chúng tôi quan tâm đến các nhóm giải pháp  
nhằm phát triển kỹ năng giao tiếp bằng tiếng  
Việt cho lưu học sinh nước ngoài. Cụ thể là:  
Nhóm giải pháp vận dụng kỹ thuật dạy học  
vào giờ dạy; nhóm giải pháp tổ chức hoạt  
động trải nghiệm; nhóm giải pháp đổi mới  
chủ đề dạy học.  
51  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ  
Nguyễn Thị Thúy Hằng và ctv  
3.3.1. Nhóm giải pháp vận dụng kỹ thuật  
dạy học vào giờ dạy  
chủ đích luyện ngữ điệu của nhân vật và hóa  
thân nhân vật trong tình huống cụ thể - tình  
huống truyện.  
3.3.1.1. Tạo nhóm học tập  
Có ý kiến cho rằng, luyện đọc kể diễn cảm  
thật sự khó đối với LHS, vì “đến người Việt  
kể diễn cảm còn khó, huống chi.... Tuy nhiên,  
quan điểm của chúng tôi là: học nói gắn với  
tình huống thì không thể chỉ học đọc đúng,  
nói đúng. Mà thực tế muôn hình vạn trạng, lời  
nói biến hóa trong tình huống, nặng về khẩu  
ngữ hơn nhiều về ngữ pháp. Các yếu tố đưa  
đẩy, các yếu tố phi ngôn ngữ luôn cặp cùng  
trong mọi cuộc thoại. Bởi vậy, nếu chỉ lưu ý  
đến những cuộc thoại mang tính form mẫu thì  
sẽ bỏ qua yêu cầu thực tiễn, khiến người học sẽ  
vô cùng lúng túng khi tiếp cận thực tế.  
Đây là giải pháp tạo được hiệu quả  
giao tiếp tiếng Việt với tính thực tiễn cao.  
Nhóm học tập được tạo trên cơ sở lớp học  
của LHS. Mục tiêu của nhóm chính là tạo  
ra sự thi đua cần thiết, sự “kích thích” kịp  
thời đối với việc học.  
Hình thức nhóm khá đơn giản. GV trực  
tiếp phụ trách lớp (hoặc giảng dạy) tách  
nhóm sau khi các em bắt đầu chương trình  
khoảng một tuần. Một tuần là khoảng thời  
gian cần để GV hiểu năng lực của trò và giữa  
các trò cũng có sự thân quen tối thiểu. Phân  
nhóm phải dựa trên năng lực để LHS có cơ  
hội cộng tác và giúp đỡ nhau. Bởi vậy, trong  
nhóm, GV cần lưu ý phân bổ có LHS nhận  
thức khá tốt, nhanh nhẹn, bạo dạn với LHS  
còn chưa mạnh dạn, rụt rè trong giao tiếp.  
Một trong những hạn chế của giao tiếp đối  
với LHS là hay xấu hổ, không sử dụng được các  
hành động phi ngôn ngữ đính kèm, cứng trong  
giao tiếp. Việc đưa người học vào tình huống  
truyện sẽ tạo được cảnh huống tự nhiên. Đây  
chính là cơ hội để các bạn sinh viên hoạt động  
nhóm và sửa lỗi cho nhau trong phát âm và  
cao hơn là nói, kể một cách diễn cảm.  
Giải pháp tạo nhóm học tập cũng là cách  
thức giúp sinh viên nước ngoài nhận được  
sự hỗ trợ của sinh viên Việt Nam một cách  
tối ưu nhất. Tại các cơ sở dạy tiếng Việt, nhất  
là trong các trường đại học, GV nên thành  
lập câu lạc bộ học tập, trong đó có câu lạc  
bộ dạy tiếng Việt cho LHS nước ngoài. Sinh  
viên được tuyển vào câu lạc bộ cần lựa chọn  
đối tượng khá, giỏi về ngôn ngữ, năng động,  
linh hoạt, có kỹ năng giao tiếp tốt và tinh  
thần trách nhiệm, nhiệt tình. Câu lạc bộ này  
sẽ hỗ trợ đắc lực cho LHS. Để hoạt động này  
hiệu quả, có thể phân nhóm các thành viên  
trong CLB trực tiếp phụ trách từng nhóm  
LHS nước ngoài.  
Lưu ý: đoạn văn hoặc truyện chọn để đọc  
kể diễn cảm không nên quá dài, nội dung  
không nên quá khó. ể loại truyện hướng  
đến có thể là truyện dân gian hoặc truyện  
hiện đại có nội dung hài hước dí dỏm hoặc  
có các chi tiết biểu lộ xúc cảm. Đó là các  
nhân tố để người học có thể thể hiện giọng  
theo cảnh huống tốt nhất. Riêng đối với  
đoạn văn thì nên chọn đa dạng phong cách  
ngôn ngữ để luyện cho LHS cách thể hiện  
giọng đối với nhiều loại hình văn bản.  
3.3.2. Nhóm giải pháp tổ chức hoạt động  
trải nghiệm  
3.3.1.2. Luyện đọc, kể diễn cảm  
Đọc kể diễn cảm thông thường được  
áp dụng ít nhất đối với đoạn văn, sau đó  
là những truyện ngắn nhiều lời thoại, nội  
dung đơn giản, không trừu tượng. Lý do  
chọn truyện nhiều lời thoại được gắn với  
3.3.2.1. Trải nghiệm văn hóa  
Học giao tiếp tiếng Việt qua trải nghiệm  
văn hóa là một cách học rất hữu dụng. Hiểu  
một cách đơn giản nhất, trải nghiệm là trải  
52  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ  
Tập 15, Số 2 (2019): 48 - 57  
qua một việc cụ thể, từ đó rút ra kinh nghiệm  
thực tiễn. Dạy học giao tiếp qua trải nghiệm  
là đưa người học vào môi trường thực tiễn,  
học trực tiếp từ thực tiễn và tự rút ra cách  
trao đáp với người bản xứ. Khổng Tử từng  
nói: những gì tôi nghe, tôi sẽ quên; những gì  
tôi thấy, tôi sẽ nhớ; những gì tôi làm, tôi sẽ  
hiểu. Như vậy, việc học tập từ thực tế chính  
là những tư tưởng đầu tiên của giáo dục trải  
nghiệm. Đặc biệt, dạy giao tiếp thì càng cần  
các hoạt động nói trên. Tuy nhiên, cũng cần  
có chủ hướng trong dạy giao tiếp tiếng Việt.  
học tiếng Việt vì việc đọc sách liên quan đến  
số lượng từ vựng tối thiểu LHS được tích lũy.  
* Mua sắm cùng người Việt  
Mua sắm là hoạt động gắn bó với một chủ  
đề chính trong quá trình dạy học. Đây cũng  
là hoạt động gắn liền với sinh hoạt hàng ngày  
của LHS. Bên cạnh thực hiện các hội thoại  
đơn giản trên lớp cũng như các mẫu câu,  
GV nên tổ chức một vài buổi cho các em đi  
mua sắm. Lưu ý: cần thảo luận về mục tiêu  
buổi trải nghiệm (thực hành quan sát và mua  
sắm); đưa ra những yêu cầu của buổi trải  
nghiệm (thời gian, phương tiện, máy ảnh, an  
toàn cho chuyến đi; bài tập phải hoàn thiện  
sau chuyến trải nghiệm)... Để thực hiện được  
việc mua sắm mà không quá bỡ ngỡ, GV cần  
tách nhóm 5 người/nhóm, mỗi nhóm có 1  
sinh viên Việt Nam phụ trách.  
Trước hết, cần có nhiều loại hình trong  
dạy trải nghiệm, từ đơn giản, dễ thực hiện  
đến chỗ “cầu kỳ” hơn. Cụ thể:  
* Học đan xen bài học trên lớp  
Là cách học đi đôi “hành” tại chỗ. Ví dụ:  
học về “chào hỏi, làm quen, hỏi thăm sức  
khỏe... cô và trò liên tục thực hiện các hoạt  
động trao đáp với mục đích chào hỏi tại lớp  
học. Song để thay đổi không khí, GV có thể  
đưa sinh viên (SV) vào môi trường thực  
hành trực tiếp:  
* am gia sự kiện cùng người Việt  
Các sự kiện nên được quan tâm ngay  
trong môi trường học. Đó là các ngày lễ lớn  
(ngày 20/11; ngày 8/3; ngày tết cổ truyền;  
ngày giỗ Tổ...); ngày trường tổ chức sự kiện  
(hội nghị, hội thảo, sự kiện tuyển sinh, ngày  
hội việc làm)... Vi tất cả những ngày này,  
sinh viên nước ngoài được tham gia sẽ có  
cơ hội giao tiếp và học hỏi. Vẫn phải lưu ý  
rằng, các em phải được tham gia trực tiếp  
chứ không phải là nhìn ngắm. Vì vậy, cần lựa  
chọn nội dung phù hợp. Ví dụ: ngày 20/11,  
các em sẽ được giao đọc, tìm hiểu về chủ đề  
Ngày nhà giáo Việt Nam, sau đó sẽ tọa đàm  
cùng sinh viên Việt, có trao đổi về văn hóa  
tôn sư trọng đạo của chính nước mình. Hoạt  
động này hướng tới rèn kỹ năng trao đổi  
trình bày một vấn đề cho nhóm sinh viên có  
nhận thức khá trở lên.  
- Tìm hiểu, làm quen với các thầy cô trong  
môi trường giảng dạy; tìm hiểu kết bạn với  
các bạn sinh viên Việt.  
- Ăn sáng, cafe, tán gẫu (chuyện phiếm)  
cùng người Việt (Môi trường phải do GV  
thiết kế, tránh những nơi ô hợp, khó thực  
hiện mục đích).  
* Đọc sách cùng người Việt  
Tách nhóm LHS, giao phụ trách cho  
SV tình nguyện. Lựa chọn những tờ báo  
phù hợp lứa tuổi hoặc những câu chuyện  
đơn giản nhưng giàu ý nghĩa văn hóa (như  
Truyền thuyết Hùng Vương). Hoạt động này  
cần được tăng cường khâu hỏi đáp từ chính  
những nội dung đã đọc hoặc được hướng  
dẫn đọc, nếu không sẽ vô cùng hình thức.  
Đối tượng đọc được sách phải sau 3 tháng  
GV dạy tiếng Việt cũng có thể lưu ý cho  
LHS tham gia vào khâu chuẩn bị tổ chức sự  
kiện. Ví dụ: tổ chức tiệc trà, team building...  
Sẽ khó khăn nếu chỉ đưa ra đầu việc, GV  
phải hướng dẫn chi tiết theo kế hoạch. Khâu  
53  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ  
Nguyễn Thị Thúy Hằng và ctv  
tổ chức tiệc trà có thể kết hợp với buổi trải  
nghiệm đi mua sắm. LHS sẽ hứng thú khi tự  
mình vừa đi chợ lại vừa trình bày và thể hiện  
sản phẩm trong hội thảo, hội nghị.  
Việt của học sinh tiểu học (phát âm, sử dụng  
nghi thức lời nói, đặt câu hỏi và trả lời, thuật  
sự việc - kể chuyện, thuyết trình).  
3.3.3. Nhóm giải pháp đổi mới chủ đề  
3.3.3.1. Xây dựng tình huống, thiết lập  
hội thoại  
* Du lịch cùng người Việt, trải nghiệm tại  
các làng nghề, các địa điểm văn hóa (đền,  
đình, chùa...) tại địa phương.  
Dựa trên nguyên tắc, cấu trúc hội thoại,  
căn cứ phương pháp tiếp trong tiếng Việt,  
chúng tôi nhận thức rõ, dạy học kỹ năng  
giao tiếp không thể dựa trên những lý thuyết  
thuần túy. Bởi vậy, việc xây dựng các tình  
huống, yêu cầu SV thiết lập hội thoại thực  
hành trong tình huống là vô cùng cần thiết.  
Việc xây dựng tình huống cần được gắn với  
chủ đề dạy học. Ví dụ: với chủ đề sử dụng  
điện thoại trong giao tiếp, GV trước hết cần  
đưa ra những hội thoại sẵn có (ngữ liệu) để  
SV thực hành mẫu. Ngữ liệu sẽ liên quan  
đến: chào hỏi khi gọi điện; trình bày nội  
dung cần trao đổi (hỏi thăm sức khỏe, công  
việc, gia đình, đề nghị, yêu cầu....). ực  
hành hội thoại cần được tập rèn nhiều lần,  
thật sự nhuần nhuyễn, đạt được bước đầu  
những yếu tố cần có về ngữ điệu, nắm được  
các cấu trúc ngữ pháp cơ bản để có tiền đề  
vận dụng cho phần tiếp theo: thiết lập hội  
thoại dựa trên tình huống gợi dẫn của GV.  
Trải nghiệm văn hóa tại các không gian  
làng nghề, đền, đình... ở địa phương cũng  
là một hoạt động phục vụ đắc lực cho nâng  
cao kỹ năng giao tiếp. Để hoạt động này hiệu  
quả, cần có khâu chuẩn bị tốt. Cụ thể:  
- LHS được đọc, học về các địa điểm sắp  
được trải nghiệm.  
- LHS được trao đổi về yêu cầu của buổi  
trải nghiệm.  
- LHS được hỗ trợ về phương tiện di  
chuyển.  
3.3.2.2. Trải nghiệm với giờ học tiếng Việt  
của học sinh tiểu học  
Học tiếng Việt đối với LHS chính là sự  
khởi đầu. Nếu so sánh hoạt động học tiếng  
Việt của LHS với học sinh tiểu học ở Việt  
Nam thoạt đầu có vẻ khập khiễng, tuy nhiên,  
rất nhiều nét tương đồng giữa hai đối tượng  
này, đặc biệt là đối tượng học sinh lớp 1 học  
tiếng Việt. Gắn với mục tiêu chủ yếu của môn  
Tiếng Việt lớp 1 hiện nay (chú trọng dạy chữ  
trên cơ sở dạy âm, dạy âm là để dạy chữ) và  
quan điểm dạy học tiếng Việt lớp 1 (quan  
điểm dạy giao tiếp, luyện các kỹ năng nghe,  
nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong  
môi trường hoạt động của lứa tuổi) chúng ta  
nhận thấy việc tổ chức trải nghiệm với giờ  
học tiếng Việt của học sinh tiểu học - nhất  
là lớp 1 vô cùng hữu ích. Có thể tổ chức cho  
LHS trải nghiệm với giờ học tiếng Việt của  
tiểu học từ tuần thứ 2 học tiếng, bước đầu là  
quan sát, sau đó có thể cho tạo môi trường  
cho LHS trực tiếp tham gia hoạt động này  
theo nhóm nhỏ, gắn với chủ đề học tiếng  
Xây dựng tình huống được hiểu là các  
tình huống gắn với chủ đề đang giảng dạy.  
Tình huống thường do GV cung cấp, trên  
cơ sở đó yêu cầu SV thiết lập hội thoại tương  
ứng. Ví dụ: Vẫn với chủ đề sử dụng điện  
thoại trong giao tiếp, GV hoàn toàn có thể  
đưa ra các tình huống:  
- Gọi điện để hỏi thăm sức khỏe của bố mẹ.  
- Muốn xin số điện thoại của một bạn gái  
mới quen, bạn sẽ nói gì để đạt kết quả mong  
muốn?  
- Muốn gọi taxi đi siêu thị, nhưng bạn  
không biết số điện thoại của hãng taxi, bạn  
sẽ làm thế nào?  
54  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ  
Tập 15, Số 2 (2019): 48 - 57  
- Bạn không đến dự sinh nhật bạn thân  
theo lời mời. Bạn rất áy náy. lập hội thoại  
gọi điện cho bạn trong tình huống này để  
xin lỗi.  
học về chủ đề kèm yêu cầu cá nhân hệ thống  
vốn từ.  
Chuẩn hóa từ (phát âm, nghĩa)  
Hướng dẫn thực hiện  
`- Bạn rất muốn mời bạn gái đi xem phim  
nhưng không thể trực tiếp gặp mặt. Bạn gọi  
điện thoại cho người ấy như thế nào?  
Ví dụ: Chủ đề Đến bệnh viện  
Bước 1: Cung cấp và mở rộng vốn từ  
- Bạn muốn xin được nhập học một lớp  
bồi dưỡng nâng cao về tiếng Việt, hãy gọi  
điện để xin hẹn gặp thầy/cô bạn muốn mời  
họ dạy...  
Việc này cả GV và LHS cùng thực hiện.  
GV đưa ra chủ đề, yêu cầu LHS mỗi bạn  
cung cấp 3 từ liên quan đến bệnh viện. Các  
từ thường gặp: liên quan đến con người (bác  
sĩ, y tá, hộ lý, bệnh nhân,...); liên quan đến  
địa điểm khám (bệnh viện, nơi đón tiếp  
bệnh nhân, phòng khám, phòng chờ, sơ đồ,  
chỉ dẫn,...); liên quan đến bệnh tật (bệnh  
tim, bệnh phổi, bệnh khớp, bệnh đau dạ  
dày, bệnh viêm phế quản...); liên quan đến  
triệu chứng (đau đầu, chóng mặt, hoa mắt,  
sổ mũi, nhức răng, đau bụng, đau chân, đau  
gối, buồn nôn, sốt, tiêu chảy...); liên quan  
đến tên gọi các phòng khám (phòng siêu  
âm; phòng chụp X - quang; phòng khám  
nội; phòng khám ngoại); liên quan đến giao  
tiếp (chào, hỏi, hỏi thăm đường đến phòng  
khám; kể về tình trạng biểu hiện bệnh,...);  
liên quan đến điều trị (thuốc, đơn thuốc,  
tiêm, truyền,... ); thành ngữ, quán ngữ hay  
dùng: thuốc đắng dã tật...  
Tùy mức độ khó dễ của hội thoại, tùy  
mức độ nhận thức của từng đối tượng, GV  
có thể yêu cầu lập hội thoại gồm bao nhiêu  
lượt lời và đa dạng hóa nội dung thông tin  
trong hội thoại.  
3.3.3.2. Đóng vai theo chủ đề  
Bản chất của đóng vai theo chủ đề là giải  
pháp “làm mới” chủ đề đã có bằng hình thức  
cho SV hóa thân vào cái vai nhân vật khác  
nhau, thực hành giao tiếp trong cảnh huống  
cụ thể, đúng với vai nhân vật theo chủ đề.  
Ví dụ: chủ đề khám bệnh sẽ có các vai: bác  
sĩ, y tá, bệnh nhân, hộ lý...; chủ đề dạy học  
sẽ có GV, HS; chủ đề gia đình sẽ có ông, bà,  
bố, mẹ, con...; chủ đề mua sắm sẽ có người  
bán, người mua; chủ đề ăn uống sẽ có người  
bán hàng, khách ăn, uống; chủ đề nấu ăn sẽ  
có người nấu, người giúp việc...; chủ đề sinh  
nhật sẽ có người tổ chức sinh nhật, người  
được mừng sinh nhật, người được mời đến  
sinh nhật... Tương tự như vậy với các chủ đề  
khác. Vi phương pháp này, GV trước hết  
làm giàu hóa vốn từ cho người học, từ đó  
đưa người học vào cảnh huống giả định để  
phát triển kỹ năng giao tiếp. Đóng vai theo  
chủ đề được coi là tiền đề trước khi LHS  
được trải nghiệm thực tế, phục vụ thiết thực  
cho những sinh hoạt hữu ích hàng ngày.  
Bước 2: Chuẩn hóa vốn từ  
GV phát âm mẫu và chuẩn hóa phát âm  
cho LHS. Đồng thời, giải thích nghĩa từ,  
giúp người học hiểu cách sử dụng từ trong  
ngữ cảnh.  
Bước 3: Cung cấp mẫu câu, luyện đặt câu  
theo mẫu  
Đây là hoạt động thực sự cần. Bởi vốn từ  
cần được sử dụng trong ngữ cảnh. Các mẫu  
câu sẽ cung cấp cho người học cách giao tiếp  
sơ giản nhất và ứng phó nhất định trong tình  
huống. Một số mẫu câu có thể là:  
Đề thực hiện trò chơi đóng vai theo chủ  
đề, trước hết cần cung cấp vốn từ cho người  
55  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ  
Nguyễn Thị Thúy Hằng và ctv  
- Mẫu câu với các từ bị, được:  
có thể ứng xử tình huống khi ốm đau, khi đến  
bệnh viện. Điều kiện thực hiện phương pháp  
vô cùng đơn giản, dễ thực hiện. Đối tượng  
sinh viên có thể bắt đầu áp dụng sau khi học  
tiếng Việt được một tháng. Tuy nhiên, GV  
phải linh hoạt tùy tình hình để áp dụng các  
dạng thoại từ đơn giản đến phức tạp.  
Tôi bị đau bụng/buồn nôn/đau đầu...  
Tôi được bạn cho uống thuốc giảm sốt.  
Anh bị thế nào mà đi khám?/Anh bị làm  
sao?  
- Mẫu câu với các từ nên, không nên,  
cấm, đừng:  
3.3.3.3. Đóng kịch  
Đóng kịch thực chất là hoạt động đưa  
người học vào một cảnh huống ngôn ngữ.  
Tuy nhiên, khác với cảnh huống sáng lập  
hội thoại bên trên, cảnh huống ở đây có sẵn,  
người học vào vai, nhập vai, “diễn” theo kịch.  
Tôi nên làm gì nếu tiếp tục đau như vậy?  
Em không nên tự uống thuốc, nên đi gặp  
bác sĩ nếu thấy triệu chứng bất thường.  
Em nên ăn đồ dễ tiêu, nhiều chất xơ, không  
nên uống rượu.  
Đóng kịch được thực hiện theo các bước:  
giao văn bản (kịch); yêu cầu luyện đọc; đàm  
thoại về nội dung chủ đề; nhớ cốt truyện;  
phân vai; cùng đóng vai.  
Cấm hút thuốc nhé.  
- Mẫu câu: bao lâu rồi/ đã lâu chưa?  
Anh bị đau bụng/buồn nôn/đau đầu... bao  
lâu rồi/đã lâu chưa?  
Yêu cầu luyện đọc nhiều lần là tất yếu.  
Việc đọc trong mọi nơi mọi lúc. Đọc nhuần  
đến đâu thì có thể tiếp tục các bước sau tốt  
đến đấy. Khâu đàm thoại quan trọng bởi bỏ  
qua nó thì không hiểu kỹ về chủ đề, không  
thể xác lập được rõ tính cách, hành động vai  
đóng. Phân vai nhằm tìm người phù hợp với  
nhân vật đóng vai. Phân vai cũng có thể được  
áp dụng với tinh thần xung phong, phát huy  
cao nhất sự hứng thú cũng như trách nhiệm  
với vai sẽ nhận. Khâu cuối chính là luyện tập.  
Ở đây, GV hoàn toàn là người cầm trịch hoạt  
động. Vai trò người kể chuyện (dẫn truyện/  
trần thuật) có thể là GV, nhưng nếu có nhân  
tố nổi trội trong đối tượng học, nên giao cho  
chính những nhân tố này đảm nhiệm.  
Tương tự như vậy với một số mẫu câu  
khác: ngoài ra... còn; không những ... mà còn;  
đã... bao giờ chưa?/ đã... lần nào chưa?; nếu...  
thì; khi... thì;...  
Bước 4: Xây dựng cảnh huống và đóng vai  
Phần việc này nên thực hiện vào giờ thực  
hành trên lớp nhằm thay đổi không khí học  
tập căng thẳng. GV và LHS cùng chuẩn bị  
dụng cụ, xây dựng “phòng khám” tượng  
trưng lại lớp học. Cảnh huống đầu tiên được  
xây dựng mẫu. Còn tiếp theo cần tách nhóm  
cho LHS thảo luận và thỏa sức thể hiện sự  
sáng tạo. Cảnh huống sẽ thực hiện tốt hơn  
nếu có sự tham gia của sinh viên Việt Nam  
với vai trò trợ giảng. uận lợi đầu tiên của  
sự kết hợp này chính là sự gần gũi về lứa tuổi.  
Kế đó là sự sắm vai tươi mới kích thích hứng  
thú. Cuối cùng là sự học hỏi trực tiếp ngôn  
ngữ và cách xử lý tình huống từ chính người  
Việt. Giờ học sử dụng phương pháp này sẽ  
rất vui nhộn, hứng thú và sảng khoái bất ngờ.  
Quan trọng hơn, nó chính là tiền đề để LHS  
Phương pháp này cũng gợi rất nhiều  
hứng thú. Tuy nhiên khá mất thời gian do  
LHS cần đọc, hiểu, thuộc văn bản. Hơn nữa,  
từ khâu thuộc văn bản đến “diễn” là một  
khoảng cách khá xa. Bởi vậy nên giao bài tập  
“đóng kịch” vào cuối tuần. Trong ngày nghỉ,  
LHS có thể tự đọc, tìm hiểu văn bản và trả  
lời các câu hỏi liên quan đến văn bản trước.  
Việc thực hành đóng kịch cần được hướng  
56  
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ  
Tập 15, Số 2 (2019): 48 - 57  
dẫn trực tiếp. Nếu thông qua các câu lạc bộ  
sinh viên Việt, được thực hành tại các câu  
lạc bộ kiểu câu lạc bộ kỹ năng là tốt nhất.  
phương pháp cần được ưu tiên và tăng cường  
nhằm cải thiện và phát triển kỹ năng này. Ba  
nhóm giải pháp đề xuất trên nên được ứng  
dụng tích cực để thúc đẩy năng lực sáng tạo  
cũng như khả năng tiếp cận ngôn ngữ đích  
một cách nhanh nhất, khoa học nhất đối với  
các LHS nước ngoài. Hy vọng vấn đề này sẽ  
tiếp tục được bàn thảo, nhằm hướng tới đích  
đến trong việc dạy tiếng Việt cho người nước  
ngoài, không chỉ ở Trường Đại học Hùng  
Vương trên quê hương Đất Tổ.  
4. Kết luận  
Lý thuyết thiếu thực tiễn sẽ giống như nói  
không gắn với làm. Các phương pháp, giải  
pháp có ưu điểm hay không cần được đánh  
giá qua hiệu quả của việc áp dụng chính  
những phương pháp, giải pháp đó. Cần có  
định lượng cho hiệu quả dạy học thông qua  
các bài kiểm tra khảo sát và các nhóm học  
đối chứng. Kiểm tra, đánh giá thường xuyên  
cũng là một động lực. Cũng nên nâng cấp đề  
thi theo định hướng tăng dần về độ khó (theo  
khung năng lực sáu bậc dành cho người nước  
ngoài học tiếng Việt của Bộ Giáo dục và Đào  
tạo) để kiểm soát năng lực và sự tiến bộ của  
LHS trong quá trình học tiếng Việt.  
Tài liệu tham khảo  
[1] Lê Phương Nga (cb)(2015), Phương pháp  
dạy học tiếng Việt ở tiểu học I, II, NXB Đại học  
Sư phạm.  
[2] Nguyễn ị anh Truyền (2017), “Một vài  
phương pháp dạy nói tiếng Việt cho người nước  
ngoài, Nghiên cứu giảng dạy văn học Việt Nam  
và Tiếng Việt – Những vấn đề lý luận và thực  
tiễn, NXB ĐHQG Hà Nội, 640-644.  
Dạy học tiếng Việt như một ngoại ngữ, cái  
đích cuối cùng của dạy học tiếng Việt chính là  
kỹ năng giao tiếp - đây chính là những chiêm  
nghiệm được rút ra từ thực tiễn giảng dạy.  
Chúng tôi cho rằng, không có một phương  
pháp nào là duy nhất dành cho việc giảng dạy  
nâng cao kỹ năng giao tiếp, nhưng có những  
[3] Nguyễn Kim Yến (2017), “Sự tương tác giữa lời  
hỏi và lời đáp trong giao tiếp hội thoại và ứng  
dụng vào việc dạy tiếng, Nghiên cứu giảng dạy  
văn học Việt Nam và Tiếng Việt – Những vấn  
đề lý luận và thực tiễn, NXB ĐHQG Hà Nội,  
706-719.  
SOLUTIONS FOR IMPROVING COMMUNICATION SKILLS  
FOR FOREIGN STUDENTS LEARNING VIETNAMESE  
Nguyen i uy Hang, Đang Le Tuyet Trinh, Han i u Hien  
Faculty of Social Sciences, Culture and Tourism  
Hung Vuong University  
summAry  
he biggest goal of teaching Vietnamese to foreigners is to teach learners to communicate well. Based on  
T
teaching perspectives towards communication, especially derived from the situation of teaching Vietnamese  
in communication of foreign students studying at Hung Vuong University, the article proposes some solutions to  
improve communication efficiency for learners of Vietnamese language with a view to promoting creative capacity as  
well as the ability to access the target language in the fastest and most scientific way for foreign students.  
Keywords: Vietnamese, solutions, communication, communication skills, foreign students.  
57  
pdf 10 trang yennguyen 06/04/2022 3240
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp cho sinh viên nước ngoài học tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_nang_cao_ky_nang_giao_tiep_cho_sinh_vien_nuoc_ngoa.pdf