Đột biến gen EGFR như một yếu tố tiên lượng nguy cơ di căn não ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ: Kết quả từ nghiên cứu tiến cứu

Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
ĐỘT BIẾN GEN EGFR NHƯ MỘT YẾU TỐ  
TIÊN LƯỢNG NGUY CƠ DI CĂN NÃO Ở  
BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ:  
KẾT QUẢ TỪ NGHIÊN CỨU TIẾN CỨU  
1
1
1
PHẠM VĂN LUẬN , NGUYỄN ĐÌNH TIẾN , NGUYỄN MINH HẢI  
TÓM TẮT  
Đặt vấn đề: Mục tiêu: Đánh giá vai trò của đột biến gen EGFR trong việc tiên lượng nguy cơ di căn  
não ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN).  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc 213 bệnh nhân  
UTPKTBN giai đoạn I - IIIB được xét nghiệm đột biến gen EGFR từ năm 2014 đến 2020. Yếu tố nguy cơ  
được phân tích đa biến bằng phương trình hồi quy tuyến tính.  
Kết quả: Có 41,3% bệnh nhân xuất hiện di căn xa, trong đó di căn não 22,7%. Tỉ lệ đột biến gen  
EGFR dương tính là 27,2 %, có 37,5 % bệnh nhân di căn não mang đột biến gen EGFR, OR 2,89 (khoảng  
tin cậy 95%: 1,011 - 8,270), p = 0,048. Bệnh nhân mang đột biến điểm L858R ở exon 21 có tỉ lệ di căn  
não 55,6% xu hướng cao hơn bệnh nhân mang đột biến xóa đoạn ở exon 19 (28,6%), nhưng sự khác biệt  
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Không thấy yếu tố khác liên quan đến nguy cơ di căn não.  
Kết luận: Đột biến gen EGFR là một yếu tố tiên lượng nguy cơ di căn não ở bệnh nhân ung thư phổi  
không tê bào nhỏ.  
Từ khóa: Đột biến gen EGFR, ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn não.  
khoảng 1 - 2 tháng, nếu chỉ điều trị triệu chứng bằng  
cách sử dụng corticoid toàn thân kết hợp với xạ trị  
toàn não, thời gian kéo dài thêm được 3 - 6 tháng[4].  
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy các thuốc ức  
chế Tyrosine Kinase (TKI) bao gồm cả thế hệ 1, 2  
và 3 có hiệu quả tốt ở bệnh nhân UTPKTBN di căn  
não có đột biến gen EGFR dương tính khi dùng đơn  
trị hoặc kết hợp với xạ trị ổ di căn não[5-8]. Bên cạnh  
đó, các nghiên cứu cũng cho thấy rằng có mối liên  
quan giữa tỉ lệ di căn não và sự xuất hiện đột biến  
gen EGFR ở bệnh nhân UTPKTBN, ở bệnh nhân  
mang đột biến gen EGFR nguy cơ di căn đến não  
tăng gấp 1,6 - 4,49 lần bệnh nhân không có đột biến  
gen EGFR[9-13]. Tuy nhiên, đây là vấn đề còn nhiều  
bàn cãi khi cũng có nghiên cứu không thấy mối liên  
quan này[14-16]. Các nghiên cứu này bao gồm chủ  
yếu là các nghiên cứu quan sát cắt ngang, một số ít  
nghiên cứu khác được thực hiện bởi phương pháp  
tiến cứu theo dõi dọc, điều đó có thể lý giải cho sự  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Ung thư phổi là loại ung thư thường gặp và  
cũng là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu do ung  
thư trên Thế giới cũng như ở Việt Nam. Mỗi năm  
trên Thế giới có khoảng 1,8 triệu người được chẩn  
đoán ung thư phổi và 1,6 triệu người tử vong vì căn  
bệnh này. Thời gian sống thêm 5 năm khoảng  
4 - 17% tùy theo giai đoạn bệnh[1]. Ung thư phổi  
được chia thành ung thư phổi không tế bào nhỏ  
(UTPKTBN) với tỉ lệ khoảng 85% và ung thư phổi tế  
nào nhỏ (UTPTBN) khoảng 15%[2]. Khoảng 30 - 40%  
bệnh nhân UTPKTBN có di căn xa ở thời điểm chẩn  
đoán. Ung thư phổi nói chung và UTPKTBN có thể di  
căn đến bất cứ cơ quan nào trên cơ thể người bệnh,  
trong đó các nghiên cứu chỉ ra rằng tỉ lệ di căn não  
chiếm khoảng 10 - 15% ở thời điểm được chẩn đoán  
và khoảng 40 - 50% khi bệnh tiến triển[3]. Di căn não  
ở UTPKTBN có tiên lượng rất kém, nếu không được  
điều trị, thời gian sống thêm của bệnh nhân chỉ  
Địa chỉ liên hệ: Phạm Văn Luận  
Email: drluan108@gmail.com  
Ngày nhận bài: 1/10/2020  
Ngày phản biện: 03/11/2020  
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020  
1 Khoa Nội Hô hấp - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108  
178  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
khác nhau về kết quả giữa các nghiên cứu. Do đó,  
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu  
đánh giá mối liên quan giữa đột biến gen EGFR với  
nguy cơ di căn não ở bệnh nhân ung thư phổi không  
tế bào nhỏ.  
vào hoàn thành 4 chu kỳ bổ trợ, sau đó được theo  
dõi và đánh giá mỗi 3 tháng. Các bệnh nhân không  
mổ được có thể được điều trị hóa-xạ trị đồng thời  
hoặc tuần tự, hoặc hóa chất đơn thuần, hoặc điều trị  
đích (giai đoạn IIIB). Bệnh nhân điều trị hóa chất  
được đánh giá sau điều trị 2-3 chu kỳ, bệnh nhân  
điều trị đích được đánh giá sau 2 – 3 tháng. Tất cả  
các bệnh nhân sẽ được đánh giá sớm hơn nếu có  
triệu chứng của bệnh tiến triển. Tại thời điểm đánh  
giá, bệnh nhân được khám lâm sàng, chụp CT ngực  
– bụng, MRI sọ não, xạ hình xương.  
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Đối tượng nghiên cứu  
213 bệnh nhân chẩn đoán xác định UTPKTBN  
giai đoạn I - IIIB theo phân loại giai đoạn ung thư  
phổi phiên bản 7. Các bệnh nhân được phẫu thuật  
hoặc điều trị hóa chất, xạ trị và theo dõi tại Khoa Nội  
Hô hấp - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ  
tháng 8 năm 2014 đến tháng 8 năm 2020. Đột biến  
gen EGFR được làm từ thời điểm bệnh nhân chưa  
có di căn xa. Phương pháp chọn mẫu: thuận tiện,  
ngẫu nhiên.  
Phương pháp đánh giá  
Đánh giá di căn não bằng MRI sọ não theo tiêu  
chuẩn Kondziolka D (2007).  
Đánh giá di căn xương khi có tăng hoạt tính  
phóng xạ ở xương trên hình ảnh xạ hình xương, với  
điều kiện đã loại trừ yếu tố nhiễu (gãy xương, mổ  
cũ…).  
Phương pháp nghiên cứu  
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả, cắt  
ngang.  
Đánh giá di căn hạch rốn phổi, trung thất và di  
căn phổi đối diện, di căn gan, tuyến thượng thận  
bằng CT ngực, ½ trên ổ bụng.  
Các bước tiến hành  
Thu thập các triệu chứng về tiền sử, cơ năng,  
thực thể, đánh giá toàn trạng.  
Đánh giá giai đoạn bệnh theo phân loại giai  
đoạn UTPKTBN phiên bản 7, 2010.  
Chụp CT ngực lấy đến ½ trên ổ bụng.  
Xét nghiệm đột biến gen EGFR bằng phương  
pháp kẹp peptide trên hệ thống ABI 7500 FAST.  
Sinh thiết u phổi qua nội soi phế quản hoặc sinh  
thiết u phổi dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính ngực  
hoặc chọc hút dịch màng phổi làm Cell-block.  
Xử lý số liệu  
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 22.0. Yếu  
tố nguy cơ được đánh giá bằng phương trình hồi  
quy Logistic cho biến nhị phân. Sự khác biệt có ý  
nghĩa thống kê với p < 0,05.  
Chụp MRI sọ não, xạ hình xương.  
Xét nghiệm đột biến gen EGFR.  
Các bệnh nhân giai đoạn I - IIIB được điều trị và  
theo dõi để phát hiện di căn xa. Cụ thể, các bệnh  
nhân được phẫu thuật triệt căn, nếu không có chỉ  
định điều trị bổ trợ bằng hóa chất hoặc xạ trị được  
theo dõi và đánh giá mỗi 3 tháng. Các bệnh nhân  
điều trị hóa chất bổ trợ sau mổ được đánh giá khi  
KẾT QUẢ  
Bảng 1. Một số đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân nghiên cứu  
Đặc điểm  
Tuổi trung bình  
Số lượng (n = 213)  
Tỷ lệ (%)  
63,69 ± 8,78 (38 - 91 )  
≥60  
143  
70  
67,1  
32,9  
79,8  
20,2  
59,2  
40,8  
< 60  
Nam  
170  
43  
Giới  
Nữ  
Có  
126  
87  
Hút thuốc  
Không  
Số bao - năm  
23,69 ± 6,05  
179  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
Ia  
Ib  
7
14  
16  
6
3,3  
6,6  
IIa  
Giai đoạn bệnh  
IIb  
7,5  
2,8  
IIIa  
IIIb  
69  
101  
32,4  
47,4  
Tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là 63,69 tuổi, thấp nhất 38 tuổi, cao nhất 91 tuổi, trong đó đa  
số (67,1%) có độ tuổi từ 60 trở lên. Tỉ lệ nam/nữ khoảng 4/1. 59,2% bệnh nhân có tiền sử hút thuốc với trung  
bình 23,69 bao - năm. Tỉ lệ bệnh nhân các giai đoạn lần lượt là: giai đoạn Ia: 3,3%, Ib: 6,6%, IIa: 7,5%, IIb:  
2,8%, IIIa: 32,4%, IIIb: 47,4%.  
Bảng 2. Kết quả phân týp mô bệnh học và đặc điểm đột biến gen EGFR  
Mô bệnh học  
Ung thư biểu mô tuyến  
Số lượng  
Tỉ lệ (%)  
78,4  
4,2  
167  
9
Ung thư biểu mô vảy  
Ung thư biểu mô tế bào lớn  
UTPKTBN chưa phân týp  
Ung thư biểu mô tuyến-vảy  
00  
33  
4
00  
15,5  
1,9  
Tỉ lệ đột biến gen EGFR  
Dương tính  
Âm tính  
58  
27,2  
72,8  
155  
213  
Tổng  
100%  
Vị trí đột biến gen  
exon 18  
exon 19  
exon 21  
2
3,4  
56,9  
39,7  
100%  
33  
23  
58  
Tổng  
Týp ung thư biểu mô tuyến chiếm chủ yếu với 78,4%, trong khi đó các týp mô bệnh học khác chiếm tỉ lệ  
thấp, không có bệnh nhân nào typ biểu mô tế bào lớn. Đột biến gen EGFR dương tính gặp ở 27,2% bệnh  
nhân, chủ yếu đột biến xảy ra tại exon 19 với 56,9%, exon 21 (L858R) là 39,7%.  
Bảng 3. Tỉ lệ các vị trí di căn xa thường gặp  
Đặc điểm di căn xa  
Số lượng (n = 213)  
Tỉ lệ (%)  
41,3  
Tỉ lệ bệnh nhân di căn xa  
Tỉ lệ đột biến gen EGFR ở di căn xa  
88  
24  
27,3%  
EGFR dương tính  
EGFR âm tính  
Vị trí di căn xa  
p
n
9
6
3
9
3
0
%
37,5  
25  
n
20  
17  
17  
11  
7
%
Di căn xương  
31,3  
26,6  
26,6  
17,2  
10,9  
9,4  
> 0,05  
> 0,05  
> 0,05  
= 0,043  
> 0,05  
> 0,05  
Di căn phổi đối diện  
Di căn màng phổi  
Di căn não  
12,5  
37,5  
12,5  
0
Di căn gan  
Di căn thượng thận  
6
180  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
Thời gian trung bình đến khi có di căn xa là 11,21 tháng, ngắn nhất là 2 tháng, dài nhất là 40 tháng. Có  
88/213 bệnh nhân xuất hiện di căn xa, chiếm 41,3%, trong đó có 24 bệnh nhân có đột biến gen EGFR, chiếm  
27,3%. Di căn xương chiếm 33%, tiếp theo là di căn phổi đối diện với 26,1%, di căn não và di căn màng phổi  
cùng chiếm tỉ lệ 22,7%, tỉ lệ di căn gan và tuyến thượng thận thấp hơn, lần lượt là 11,4% và 6,8%. Tỉ lệ di căn  
não ở bệnh nhân có đột biến gen EGFR là 37,5% cao hơn so với bệnh nhân không có đột biến gen EGFR  
(17,2%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,043. Trong khi đó, các vị trí di căn khác không thấy sự  
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm bệnh nhân này.  
Trong bảng trên biểu hiện tỉ lệ di căn các cơ quan ở nhóm bệnh nhân có đột biến gen EGFR dương tính  
và âm tính. Trong số 88 bệnh nhân di căn xa, có 24 bệnh nhân có đột biến gen dương tính. Do đó, so sánh tỉ lệ  
di căn trong nhóm dương tính, dương tính là so với tổng số 24 ca dương tính và 64 ca âm tính. Ví dụ: ở bệnh  
nhân có đột biến gen EGFR dương tính, tỉ lệ di căn não là 9/24 = 37,5%, còn ở nhóm không có đột biến gen  
EGFR, tỉ lệ di căn não là 11/64 =17,2%).  
Bảng 4. Một số yếu tố liên quan với di căn não  
Yếu tố  
Giới  
Hút thuốc  
Vị trí u  
Phải  
Mô bệnh học  
Vị trí đột biến gen  
Di căn não  
Nam  
21,6  
78,4  
Nữ  
28,6  
71,4  
Có Không  
Trái  
26,5  
73,5  
Tuyến Không tuyến  
19  
21  
Có (%)  
Không (%)  
p
19  
81  
30  
70  
20,4  
79,6  
23,9  
76,1  
19  
81  
28,6  
71,4  
55,6  
44,4  
>0,05  
>0,05  
>0,05  
>0,05  
>0,05  
Tỉ lệ di căn não ở bệnh nhân nữ giới là 28,6% cao hơn nam giới 21,6%; bệnh nhân không hút thuốc di căn  
não 30% cao hơn so với 19% ở bệnh nhân có tiền sử hút thuốc; bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến có 23,9%  
di căn não, cao hơn bệnh nhân không phải ung thư biểu mô tuyến với 19%; bệnh nhân mang đột biến gen  
EGFR ở exon 21 (L858R) có tỉ lệ di căn não 55,6% xu hướng cao hơn bệnh nhân mang đột biến gen xóa đoạn  
ở exon 19 (28,6%), tuy nhiên, các sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.  
Bảng 5. Phân tích Logistic các yếu tố nguy cơ di căn não  
95% C.I. for EXP(B)  
B
p
OR  
Lower  
,016  
Upper  
4,022  
17,302  
22,852  
5,498  
8,270  
1,256  
Giới  
-1,369  
,311  
,331  
,810  
,282  
,607  
,048  
,128  
,254  
1,365  
3,032  
,545  
Hút thuốc  
Vị trí u  
,108  
1,109  
-,606  
1,062  
-,789  
,402  
Mô bệnh học  
Đột biến gen  
Vị trí đột biến  
,054  
2,891  
,454  
1,011  
,164  
Bệnh nhân mang đột biến gen EGFR có Odds di căn não cao gấp 2,89 lần Odds di căn não ở bệnh nhân  
không có đột biến gen EGFR (khoảng tin cậy 95%: 1,011 - 8,270), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p =  
0,048.  
chủ yếu gặp ở bệnh nhân cao tuổi, nam giới và liên  
BÀN LUẬN  
quan đến tiền sử hút thuốc[1],[2]. Tỉ lệ bệnh nhân các  
Tuổi trung bình của bệnh nhân nghiên cứu là  
63,69 tuổi, thấp nhất 38 tuổi, cao nhất 91 tuổi, trong  
đó đa số bệnh nhân có độ tuổi từ 60 trở lên, chiếm  
67,1%. Tỉ lệ nam/nữ khoảng 4/1. Có 59,2% bệnh  
nhân có tiền sử hút thuốc với trung bình 23,69 bao -  
năm. Kết quả này tương tự các nghiên cứu hiện nay  
khi ung thư phổi nói chung và UTPKTBN nói riêng  
giai đoạn trong nghiên cứu lần lượt là: giai đoạn Ia:  
3,3%, giai đoạn Ib: 6,6%, giai đoạn IIa: 7,5%, giai  
đoạn IIb: 2,8%, giai đoạn IIIa: 32,4% và giai đoạn  
IIIb: 47,4%. Trong nghiên cứu của D.Mitra và cộng  
sự về đột biến gen EGFR ở bệnh nhân UTPKTBN  
giai đoạn tiến triển tại chỗ với nguy cơ di căn não,  
tỉ lệ bệnh nhân giai đoạn IIa và IIb đều chiếm 0,4%,  
181  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
giai đoạn IIIA chiếm tỉ lệ cao nhất với 65,9%, còn giai  
di căn xa với tình trạng đột biến gen EGFR, trong đó,  
tỉ lệ di căn não ở bệnh nhân có đột biến gen EGFR  
dương tính là 26%, so với nhóm không mang đột  
biến gen EGFR là 24%[16]. Tiếp tục đánh giá sâu hơn  
về mối liên quan giữa tình trạng di căn não với một  
số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, chúng tôi thấy  
rằng, bệnh nhân mang đột biến gen EGFR có nguy  
cơ xuất hiện di căn não cao gấp 2,89 lần bệnh nhân  
không có đột biến gen EGFR (khoảng tin cậy 95%:  
1,011 - 8,270), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với  
p = 0,048. Vấn đề di căn não và đột biến gen EGFR  
đã được không ít các nghiên cứu đề cập đến trong  
những năm gần đây. Kết quả của chúng tôi tương tự  
kết quả của các nghiên cứu tiến cứu khác. Devarati  
Mitra đã nghiên cứu 255 bệnh nhân UTPKTBN giai  
đoạn tiến triển tại chỗ, theo dõi cho đến khi xuất hiện  
di căn xa thì thấy, đột biến gen EGFR làm tăng nguy  
cơ di căn não lên 2,04 lần, p = 0,006[11]. Nghiên cứu  
của Shin và cộng sự cho kết quả trong nhóm 133  
bệnh nhân đã phẫu thuật cắt bỏ thùy phổi, sau một  
thời gian theo dõi trung bình là 28,6 tháng, ở bệnh  
nhân có đột biến gen EGFR dương tính, tỉ lệ di căn  
não cao gấp 4,49 lần bệnh nhân không mang đột  
biến gen EGFR với p = 0,026[12]. Phân tích gộp của  
Lina Li và cộng sự về mối liên quan giữa đột biến  
gen EGFR với tình trạng di căn não ở bệnh nhân  
UTPKTBN, kết quả cho thấy, ở bệnh nhân mang đột  
biến gen EGFR có sự cao hơn có ý nghĩa thống kê  
về nguy cơ di căn não so với nhóm bệnh nhân  
không mang đột biến gen EGFR trong quá trình tiến  
triển của bệnh với OR là 2,01, p < 0,05. Trong khi  
đó, nếu bệnh nhân được chẩn đoán di căn não ngay  
từ đầu, tỉ lệ mang đột biến gen EGFR chỉ có xu  
hướng cao hơn, với OR 1,38, p =,066[20]. Kết quả từ  
một số nghiên cứu hồi cứu cho kết quả khác nhau.  
Trong khi nghiên cứu của Vijaya và công sự cho  
thấy ở thời điểm chẩn đoán di căn não, bệnh nhân  
có đột biến gen EGFR dương tính cao hơn 1,8 lần  
so với nhóm không có đột biến gen EGFR,  
p < 0,001[10], thì nghiên cứu của Tamura và cộng sự  
không thấy có mối liên quan nào đến khả năng di  
căn não ở bệnh nhân UTPKTBN[15], hay nghiên cứu  
của Kuijpers và cộng sự thấy ở bệnh nhân có đột  
biến gen EGFR, tỉ lệ di căn não thấp hơn nhóm  
không có đột biến gen EGFR (12,5% so với 22%,  
OR:0,53)[14]. Trong nghiên cứu này chúng tôi cũng  
đánh giá mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm  
sàng, cận lâm sàng khác so với nguy cơ di căn não  
thì thấy rằng, bệnh nhân nữ giới, bệnh nhân không  
hút thuốc, bệnh nhân có khối u bên trái, bệnh nhân  
ung thư biểu mô tuyến có tỉ lệ di căn não xu hướng  
cao hơn so với các nhóm còn lại, tuy nhiên sự khác  
biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.  
Đặc biệt, chúng tôi thấy rằng bệnh nhân mang đột  
biến gen EGFR ở vị trí L858R của exon 21 có tỉ lệ di  
căn não 55,6% cao gấp 2 lần bệnh nhân có đột biến  
đoạn IIIB là 33,3%[11]  
.
Về phân typ mô bệnh học, chúng tôi gặp týp  
ung thư biểu mô tuyến chiếm chủ yếu với 78,4%,  
trong khi đó các týp mô bệnh học khác chiếm tỉ lệ  
thấp, ung thư biểu mô vảy là 4,2%, týp hỗn hợp  
tuyến - vảy chỉ chiếm 1,9%, không có bệnh nhân nào  
typ biểu mô tế bào lớn. Kết quả này tương tự với  
các nghiên cứu hiện nay, khi týp biểu mô tuyến đang  
ngày càng chiếm ưu thế ở bệnh nhân UTPKTBN.  
Nghiên cứu của Tamura và cs năm 2014 thấy týp  
biểu mô tuyến chiếm 74,5%, biểu mô vảy 22,2%[15]  
nghiên cứu của D.Mitra, tỉ lệ ung thư biểu mô tuyến  
là 85,1%[11]  
,
.
Đột biến gen EGFR dương tính gặp ở 27,2%  
bệnh nhân, chủ yếu đột biến xảy ra tại exon 19 với  
56,9%, exon 21 (L858R) là 39,7%. Tỉ lệ đột biến gen  
EGFR dương tính trong nghiên cứu của chúng tôi  
thấp hơn các nghiên cứu trước đây về tỉ lệ loại đột  
biến này ở bệnh nhân Châu Á. Các nghiên cứu về tỉ  
lệ đột biến gen EGFR hiện nay cho thấy, ở người  
châu Á có khoảng 30 - 50% bệnh nhân xuất hiện đột  
biến gen này[17],[18]. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước  
đây tập chung vào bệnh nhân giai đoạn tiến triển, di  
căn xa, trong khi đó, tỉ lệ đột biến gen EGFR ở bệnh  
nhân giai đoạn sớm hầu như ít được đề cập. Trong  
một nghiên cứu của Can Pi và cộng sự công bố về tỉ  
lệ đột biến gen EGFR ở 750 bệnh nhân UTPKTBN  
giai đoạn sớm và 949 bệnh nhân giai đoạn tiến triển  
của bệnh, kết quả cho thấy tỉ lệ đột biến gen EGFR  
dương tính ở 2 nhóm là tương đương nhau, lần lượt  
là 53,6% và 51,4% (p = 0,379)[19]  
.
Chúng tôi tiến hành theo dõi dọc các bệnh nhân  
để phát hiện di căn xa với thời gian trung bình đến  
khi có di căn xa là 11,21 tháng, ngắn nhất là 2 tháng,  
dài nhất là 40 tháng. Đã có 88/213 bệnh nhân  
nghiên cứu xuất hiện di căn xa, chiếm 41,3%. Trong  
đó, di căn xương chiếm 33%, tiếp theo là di căn phổi  
đối diện với 26,1%, di căn não và di căn màng phổi  
cùng chiếm tỉ lệ 22,7%, còn tỉ lệ di căn gan và tuyến  
thượng thận thấp hơn, lần lượt là 11,4% và 6,8%.  
Tuy nhiên, khi so sánh tỉ lệ các vị trí di căn với đặc  
điểm đột biến gen EGFR, chúng tôi chỉ thấy sự khác  
biệt có ý nghĩa thống kê về di căn não, với tỉ lệ di  
căn não ở bệnh nhân có đột biến gen EGFR dương  
tính là 37,5% cao hơn so với bệnh nhân không  
mang đột biến gen EGFR (p = 0,043). Trong khi đó,  
các vị trí di căn khác không thấy sự khác biệt này với  
p > 0,05. Gần đây nhất năm 2020, Carlos Galvez và  
cộng sự đã nghiên cứu về vai trò của đột biến gen  
EGFR trong tiên lượng sự tái phát ở bệnh nhân ung  
thư biểu mô tuyến của phổi giai đoạn sớm và giai  
đoạn tiến triển tại chỗ, kết quả cũng không thấy sự  
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỉ lệ các vị trí  
182  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
gen EGFR xóa đoạn ở exon 19 với 28,6%. Kết quả  
này tương tự kết quả nghiên cứu của Fujita và cộng  
sự ở 266 bệnh nhân UTPKTBN theo dõi đến khi tiến  
triển di căn não, có 127 bệnh nhân chiếm 47,7% có  
đột biến gen EGFR dương tính, trong đó, tỉ lệ mang  
đột biến gen L858R ở exon 21 là 52,8% cao hơn  
nhóm có đột biến gen EGFR ở exon 19 với  
44,9%[21]. Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu hiện nay  
cho rằng, tỉ lệ di căn não có xu hướng cao hơn với  
7. J.C.Soria, Y.Ohe, T. Reungwetwattana et al  
(2018), Osimetinib in Untreated EGFR-Mutated  
Advanced non-small cell lung cancer, The New  
England Journal of Medicine, Volume 378,  
No.2:113 - 125.  
8. Sally C M Lau, Ullas Batra, Tony S k Mok et al  
(2019), Dacomitinib in the management of  
advanced non-small cell lung cancer, Drugs, 79  
(8): 823 - 831.  
đột biến gen EGFR ở exon 19[9-12],[20]  
.
9. Fred Hsu, Alex De Caluwe , David Anderson et  
al (2016), EGFR mutation status on brain  
metastases from non-small cell lung cancer,  
Lung cancer; 96:101 - 107.  
KẾT LUẬN  
Tỉ lệ di căn não trong nghiên cứu là 22,7%,  
trong đó có 37,5 % bệnh nhân di căn não mang đột  
biến gen EGFR, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với  
bệnh nhân không mang đột biến gen EGFR. Đồng  
thời, đột biến gen EGFR là một yếu tố tiên lượng  
nguy cơ di căn não ở bệnh nhân ung thư phổi không  
tê bào nhỏ với OR: 2,89, p = 0,048.  
10. Vijaya Raj Bhatt, Sanyo P.D’Souza, Lynette  
M.Smith et al (2017), pidermal Growth Factor  
Receptor mutations status and brain metastases  
in non-small cell lung cancer, Journal of Global  
Oncology;3(3): 208 - 217.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
11. Devarati Mitra, Yu-Hui Chen, Richard Li et al (),  
EGFR mutant locally advanced non-small cell  
lung cancer is at increased rick of brain  
metastasis, Clinical and Translational Radiation  
oncology; 18: 32 - 38.  
1. Fred R Hirsch, Giorgio V Scagliotti, James L  
Mulshine, et al (2017), Lung cancer: current  
therapies and new targeted treatments, Lancet;  
389: 299 - 311.  
12. Dong-Yeop Shin, Im Il Na, Cheol Hyeon Kim et  
al (2014), EGFR mutation and Brain metastasis  
in Pulmonary Aenocarcinomas, J Thorac Oncol,  
9: 195 -199.  
2. NCCN Guideline Insights, Non - Small Cell Lung  
Cancer, version 3.2020, feature updates to the  
NCCN Guidelines.  
3. Masaki Hanibuchi, Sun-Jin Kim, Isaiah J.Fidler et  
al (2014), The molecular biology of lung cancer  
brain metastasis: an overview of curent  
comprehensions and future perspectives,  
J.Med.Invest; 61: 241 - 253.  
13. Wei-Yuan Chang, Yi-Lin Wu, Po-Lan Su et al  
(2018), the impact of EGFR mutations on the  
incidence and survival of stages I to III NSCLC  
patients with subsequent brain metastasis, Plos  
One;13(2): e0192161.  
4. Mao-hua Zheng, Hong - tao Sun, Ji-guang Xu et  
al (2016), Combining Whole-Brain Radiotherapy  
with Gefitinib/Erlotinib for Brain metastase from  
non-small cell lung cancer: A meta-analysis,  
BioMed Research International Volume 2016,  
Article ID 5807346.  
14. C.C.H.J. Kuilpers, L.E.L. Hendriks, J.L. Derks et  
al (2018), Association of molecular status and  
metastatic organs at diagnosis in patients with  
stage IV non Squamous non-small cell lung  
cncer, Lung cancer, volume 121, pp 76 - 81.  
15. Tomohiro Tamura, Koichi Kurishima, Kensuke  
Nakazawa et el (2015), Speccific organ  
metastase and survival in metastatic non-small  
cell lung cancer, Molecular and clinical oncology,  
volume 3, pp217 - 221.  
5. Naoto Aiko, Tsuneo Shimakawa, Kazuhito  
Miyazaki et al (2018), Comparison of the  
efficacies of the first-generation epidermal  
growth factor receptor tyrosine kinase inhibitors  
for brain metastasis in patients with advanced  
non-small cell lung cancer harboring EGFR  
mutations, BMC cancer; 18: 1012.  
16. Carlos Galvez, Saya Jacob, Brian S.Finkelman  
et al (2020), The role of EGFR mutations in  
predicting recurrence in early and locally  
advanced lung adenocarcinoma following  
6. L.Paz-Ares, E.-H.Tan, K.O’Byrne et al (2017),  
Afatinib versus gefititnib in patients with EGFR  
mutation-positive advanced non-small cell lung  
cancer: overall survival data from the phase IIb  
definitive  
therapy,  
Oncotarget;11(21):  
1953 - 1960.  
LUX-LUNG  
28: 270 - 277.  
7
trial, Annals of Oncology;  
17. Yuankai Shi, Joseph Siu-Kie Au, Sumitra  
Thongprasert, et all(2014),A Prospective,  
Molecular Epidemiology Study of EGFR  
183  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
mutations in Asian patients with Advanced Non -  
Small Cell Lung Cancer of Adenocarcinoma  
hiaatology (PIONEER), Journal of Thoracic  
Oncology, 9 (2): 154 - 162.  
based on large-scale data from China, Thoracic  
Cancer; 9: 814 - 819.  
20. Lina Li, Shuimei Luo, Heng Lin et al (2017),  
Corelation between EGFR mutation status and  
the incidence of brain metastaes in patients with  
non-small cell lung cancer, J Thorac Dis; 9(8):  
2510 - 2520.  
18. Yue-Lun Zhang, Jin-Qiu Yuan, Kai-Feng Wang  
et al (2016), The prevalence of EGFR mutation  
in patients with non-small cell lung cancer: a  
systematic  
Oncotarget;7(48): 78985 - 78993.  
review  
and  
meta-analysis,  
21. Yuya Fujita, Manabu Kinoshita, Tomohiko Ozaki  
et al (2020), The impact of EGFR mutation  
status and single brain metastasis on the  
survival of non-small cell lung cancer patients  
19. Can Pi, Chong-Rui Xu, Ming-feng Zhang et al  
(2018), EGFR mutations in early-stage and  
advanced-stage lung ademocarcinoma: Analysis  
with brain metastases, Neuro  
Advances;2(1): 1 - 8.  
-
Oncology  
184  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
ABSTRACT  
EGFR mutations as a prognosis factor of brain metastase in non-small lung cancer patients:  
The result from a prospective cohort study  
Background: Purpose: Evaluate the role of EGFR mutations in prognosis of brain metastasis rick in non-  
small cell lung cancer patients (NSCLC).  
Methods: Prospective cohort study and follow-up 213 NSCLC patients stage I - IIIB, who were examined  
EGFR mutations in the period of 6 years, from 2014 to 2020. The risk factors were analyzed mutivariate by  
logistic.  
Results: There was 41.3% of patients with metastasis, in which, brain metastase acounted for 22.7%.  
The ratio of EGFR mutations were 27.2%. 37.5% brain metastase have EGFR mutations, OR 2.89 (CI 95%:  
1.011 - 8.270), p = 0.048). 55.6% brain metastase patients have L858R of exon 21 was trend to higher than  
deletion mutations in exon 19, but this difference was not statistically significant (p > 0.05). There were not the  
other factors relate to brain metastasis.  
Conclusion: EGFR mutations as a prognosis of risk brain metastasis in non - small cell lung cancer.  
Keyword: EGFR mutation, non-small cell lung cancer metastase brain.  
185  
pdf 8 trang yennguyen 15/04/2022 1680
Bạn đang xem tài liệu "Đột biến gen EGFR như một yếu tố tiên lượng nguy cơ di căn não ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ: Kết quả từ nghiên cứu tiến cứu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdot_bien_gen_egfr_nhu_mot_yeu_to_tien_luong_nguy_co_di_can_n.pdf