Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo qua tư liệu khảo cổ ở Khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp, Việt Nam)

Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018  
Bài Nghiên cứu  
Open Access Full Text Article  
Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo qua tư liệu khảo cổ ở Khu  
di tích Gò Tháp (Đồng Tháp, Việt Nam)  
Hà Thị Sương*  
TÓM TẮT  
Văn hóa Óc Eo là văn minh vật chất của nước Phù Nam - một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam  
Á, xuất hiện khoảng đầu Công nguyên kéo dài đến thế kỷ 7, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
Kông. Kết quả nghiên cứu tiền tệ, hàng hóa, tượng đồng, con dấu,… của các nước như: tiền vàng  
đúc thời Antonius Pius (138-161) và thời Marcus Aurelius (161-180) từ Roma, gương đồng thời Hậu  
Hán, tượng Phật thời Bắc Ngụy, con dấu ảnh hưởng từ Ấn Độ… cho thấy văn hóa Óc Eo là nền văn  
hóa có quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới Đông Á, Nam Á đến Tây Á và cả La Mã thời cổ đại.  
Tuy nhiên, nguồn tư liệu về gốm sứ nước ngoài vẫn chưa nhận được nhiều sự quan tâm nghiên  
cứu. Dựa trên những phát hiện mới của khảo cổ học tại khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp, Việt Nam)  
do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thực  
hiện từ năm 2010 đến nay và dựa trên nghiên cứu so sánh, bài viết này sẽ giới thiệu một số di vật  
đồ gốm Trung Quốc, đồ gốm Ấn Độ và đồ gốm chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ đã phát hiện Gò  
Tháp. Qua đó minh chứng cho sự phát triển giao lưu quốc tế của Phù Nam không chỉ diễn ra ở  
khu vực miền Tây sông Hậu, nơi có cảng biển mà còn phát triển ở bộ phận văn hóa Óc Eo nội địa,  
vùng trung tâm của Đồng Tháp Mười. Khu di tích Gò Tháp là một khu đô thị, trung tâm văn hóa,  
tôn giáo – chính trị, kinh tế, ngoại thương đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của văn hóa  
Óc Eo – vương quốc Phù Nam.  
Từ khoá: Gốm nước ngoài, di tích Gò Tháp, Văn hóa Óc Eo, Vương quốc Phù Nam  
đồng đại hay có mối tương đồng về văn hóa ở Ấn Độ,  
Trung Quốc,… bài viết sẽ giới thiệu một số hiện vật  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Khu di tích Gò áp (còn gọi là Prasat Pram Loven)  
có nguồn gốc nước ngoài đã phát hiện trong tầng văn  
thuộc xã Tân Kiều (trước tháng 4 năm 1984 thuộc xã  
hóa Khu di tích Gò áp, từ đó, đóng góp thêm một  
Mỹ Hòa), huyện áp Mười, tỉnh Đồng áp, là tên  
Trường Đại học Khoa học Xã hội và  
Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam  
số nhận thức mới về văn hóa Óc Eo ở khu di tích Gò  
áp nói riêng và vùng trũng Đồng áp Mười nói  
chung.  
gọi chung cho một khu vực gồm nhiều gò nhỏ nằm  
trên một giồng đất dài gần 1km, rộng 300 - 400m chạy  
theo hướng Đông Bắc – Tây Nam và những cánh đồng  
ruộng trũng xung quanh trên một diện tích được xây  
dựng đê bao quy hoạch khoảng 6km2.  
Liên hệ  
Hà Thị Sương, Trường Đại học Khoa học Xã  
hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam  
LỊCH SỬ PHÁT HIỆN VÀ NGHIÊN  
CỨU KHU DI TÍCH GÒ THÁP  
Email: hasuong@hcmussh.edu.vn  
Từ năm 2010 đến nay, Trường Đại học Khoa học Xã  
hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM đã có nhiều cuộc hợp  
tác với Sở Văn hóa, ể thao và Du lịch Tỉnh Đồng  
áp, Ban quản lý Khu di tích Gò áp trong việc điều  
tra, thăm dò, khai quật và nghiên cứu Khảo cổ học ở  
khu di tích Gò áp. Từ các cuộc hợp tác này, đã xuất  
lộ thêm nhiều dấu tích kiến trúc, những chứng tích  
của các khu sản xuất đồ gốm, gỗ, đá, các dấu vết của  
các khu cư trú cùng với đó là sự phong phú, đa dạng  
của các loại hình di vật, trong đó có những hiện vật  
khá xa lạ với các hiện vật thường gặp trong văn hóa Óc  
Eo và hậu Óc Eo ở Nam Bộ. Dựa vào kết quả nghiên  
cứu so sánh giữa các di vật tìm thấy trong các cuộc  
khai quật ở Gò áp với các hiện vật khảo cổ học đã  
Khu di tích Gò áp được biết tới lần đầu tiên do ông  
Silvestre, một thanh tra người Pháp làm việc tại đây  
vào những năm 1869-1878, phát hiện được 1 bánh xe  
bằng đá và dấu tích móng của một ngôi đền cổ (đền  
Gò áp Mười hiện nay) [1, tr. 232]. Tới khoảng năm  
1878 – 1879, một minh văn Phạn ngữ tìm thấy tại chùa  
Prasat Pram Loven (Gò áp) được đưa về tỉnh lỵ Sa  
Đéc, sau đó chuyển về Bảo tàng Sài Gòn năm 1928,  
được G. Coedes công bố trong tác phẩm Hai bi ký chữ  
phạn ở Phù Nam (Deux inscriptions Sanskrites de Fou-  
nan) vào năm 1931. Bản văn bia được ký hiệu (K.5),  
khắc trên trụ cửa phiến thạch có chốt (1,90m x 0,92m  
x 0,23m) [2, tr. 1-7]. Văn bia gồm 22 dòng chữ Khmer  
Lịch sử  
Ngày nhận: 9/12/2020  
Ngày chấp nhận: 07/5/2021  
Ngày đăng: 20/5/2021  
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i2.656  
Bản quyền  
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố  
mở được phát hành theo các điều khoản của  
the Creative Commons Attribution 4.0  
International license.  
phát hiện trong văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ, các hiện vật cổ (old Khmer) chia làm hai cột. Nội dung nói về việc  
Trích dẫn bài báo này: Sương H T. Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo qua tư liệu khảo cổ ở Khu  
di tích Gò Tháp (Đồng Tháp, Việt Nam). Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(2):1008-1018.  
1008  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018  
vua Phù Nam là Jayavarman cử thái tử Gunavarman tiếp theo theo độ cao và 3 quốc gia cuối cùng được đặt  
đến cai quản xứ sở sùng đạo chinh phục từ đầm lầy, tên theo tên rừng. Các quốc gia này, có tên được sao  
đồng thời bia còn nhắc đến việc thái tử dâng cúng hai chép dưới đây đã đóng góp một số tô, thuế nhất định  
bàn chân thần Vishnu để cầu mong sự che chở và bảo bằng mật ong (madhu), và mật ong dạng sáp (mad-  
vệ của thần. Bia hiện được lưu giữ và trưng bày tại hucchista). Dòng chữ này trên văn bia tương tự văn  
Bảo tàng Lịch sử ành phố Hồ Chí Minh. Bi ký này bia được phát hiện ở Vat Kdei Rovàn Càs dans Prei  
được xác định có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 6 AD Vên [6, tr. 272]. Bia được xác định có niên đại vào  
[2, tr. 1-23].  
khoảng thế kỷ 8 A.D [7, tr.148].  
Tiếp sau đó, một số bản minh văn khác cũng được Bản văn bia ký hiệu K.517 Bản văn gồm 19 dòng, liệt  
tìm thấy ở khu Gò áp gồm: Bản văn bia ký hiệu kê các loại tô, thuế mà các làng xã phải đóng cho một  
K.6. [3, tr. 5], bản bi ký được khắc trên đá, gồm 10 ngôi đền. Bia được xác định có niên đại vào khoảng  
dòng sử dụng ngôn ngữ Khmer cổ, có niên đại thế kỷ thế kỷ 6 – 7AD4.  
6 – 7 AD4. Nội dung bản bi ký ghi việc tôn vinh thần Bản văn bia ký hiệu K.798 văn bia được đưa về Bảo  
Puspavatasvami thông qua việc dâng một số nô lệ kèm tàng Sài Gòn. Văn khắc trên một cấu kiện kiến trúc  
theo 400 cây cau và 40 cây dừa lấy từ trong làng và xung đã bị mòn là phần chân của một trụ đá, gồm 2 dòng  
quanh đền [3, tr. 5]. Nội dung văn bia cho thấy Gò đã bị ăn mòn nên không giải mã được4.  
áp Mười ngày nay có thể là một vùng có diện tích Nhiều chục năm sau những phát hiện đó, lần lượt  
lớn hơn so với diện tích được xây dựng đê bao bảo vệ các nhà khảo cổ học Pháp thuộc Trường Viễn Đông  
hiện nay. Nơi đây có dân cư sống bao quanh và được Bác Cổ đến khảo sát, đào thám sát. Cuộc khảo sát  
phủ xanh bởi rất nhiều thực vật trong đó có cau và sớm nhất là từ năm 1931 do Henri Parmentier và J.Y.  
dừa.  
Claeys thực hiện. J.Y. Claeys đã đào vài hố thám sát  
Bản văn bia ký hiệu K.7. Phần chữ được khắc trên chung quanh ngôi chùa mới, và đã ghi nhận một vỉa  
một cột hình tám cạnh, một đầu vuông, có mộng và gạch xây ở sườn phía tây của gò. Xung quanh chùa  
chốt (một cấu kiện kiến trúc) để ghép với bệ dưới và thấy ngổn ngang nhiều gạch, ngói cổ. Trên gò này  
đầu cột bên trên. Trụ đá sau đó đã bị vỡ và phần dưới Henri Parmentier đã ghi nhận vào năm 1931 nhiều  
gồm 6 dòng chữ đã bị thất lạc. Bản văn bia còn lại cấu kiện kiến trúc và vật thờ [8, tr. 242]. Ông đã  
gồm khoảng 20 dòng nói đến việc dựng tượng (hay quan sát được ở áp Mười, 5 trụ cửa bằng đá (nguyên  
đền) thờ vua Puskaraksa, do hoàng tử Sambhuvarm- vẹn và 5 mảnh vỡ), tương ứng với ít nhất 3 ngôi tháp.  
madeva lập. Phần ghi năm tháng bên trên đã bị mòn, Ngoài ra, ở khoảng 200m về phía đông bắc ngôi chùa,  
không đọc được; văn bản được viết bằng lối chữ thảo, Henri Parmentier còn ghi nhận được một mô gạch  
còn giữ lại đôi nét cổ xưa. eo G. Coedes niên đại đã bị đào ở bên trên, cùng một bồn nước thánh (dày  
của minh văn vào thế kỷ 8 AD [3, tr. 3-5].  
0,10m) [8, tr. 243].  
Bản văn bia ký hiệu K.8. Bản văn được khắc trên Ti năm 1963, những nghiên cứu trước đó về vùng  
một trụ sa thạch xám đen (1,48m x 0,51m x 0,12m) Đồng áp Mười trong đó có Gò áp đã được Louis  
gồm 10 dòng, nói đến việc dâng nô lệ lên thần Sri Am- Malleret tập hợp lại và trình bày trong tập 4 sách Khảo  
ratakesvara, một hóa thân của Shiva [5, tr. 79]. Trên cổ học Đồng bằng sông Mê Kông (Larchéologie du Delta  
bia có ghi niên đại thế kỷ thứ 6 Saka (ế kỷ 7 AD)4. du Mékong), tập sách giới thiệu những di tích vùng  
Bản văn bia ký hiệu K.9. Bản bia này thường được gọi “Cisbassas” và những sự kiện văn hóa.  
là bia Phú Hữu, có khả năng là của Gò áp, trước khi Những ghi nhận từ những năm 1869 cho đến 1943  
đưa về ngôi chùa ở Cái Tàu Hạ, rồi chuyển về Sa Đéc cho thấy Gò áp là một khu di tích khảo cổ rất phong  
và Bảo tàng Sài Gòn năm 1928 (với ký hiệu Kp. 1,1)4. phúv mặt di tích và di vật. Cho đến những năm 1940,  
Nội dung bản văn song ngữ gồm 8 dòng chữ Sanskrit ít nhất đã phát hiện 8 minh văn với hàng chục cấu kiện  
và 20 dòng chữ Khmer ghi nhận việc xây dựng ngôi kiến trúc đá cỡ lớn, hàng chục vết tích kiến trúc gạch  
đền thần Cri-Vizesvara vào năm 651 Saka (tức năm xuất lộ trên mặt gò và ít nhất là 14 pho tượng đá, gần  
639 AD) [6, tr. 35].  
nguyên vẹn hoặc mảnh vỡ lớn có thể ráp nối và nhận  
Bản văn bia ký hiệu K.421 được ghi nhận năm 1913 diện được đầy đủ kích thước trung bình và tượng nhỏ.  
là còn nằm trong một di tích kiến trúc ở áp Mười lộ Những tượng và vật thờ tìm thấy ở đây phản ánh tính  
ra ở phía tây nền của một ngôi chùa. Kích thước của đa dạng trong tín ngưỡng cổ đại của địa phương: tục  
văn bia là 1,25, x 0,50m. Bản bia gồm 18 dòng minh thờ thần mặt trời - thần Surya, tục thờ Shiva gắn liền  
văn được công bố trong tác phẩm Bi ký ở Cambodia với tục thờ linga, sự phổ biến của tục thờ thần Vishnu  
tập 8 (Inscriptions du Cambodge VIII) vào năm 1923 và đạo Phật. Những pho tượng này tạc theo nhiều  
[7, tr.148]. Nội dung minh văn liệt kê 9 quốc gia, 4 mẫu nhân dạng khác nhau với nhiều loại trang phục  
trong số đầu tiên được đặt tên theo sông, 2 quốc gia khác nhau cho thấy những dòng giao lưu văn hóa cổ  
1009  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018  
đã để lại nơi đây những dấu ấn sâu đậm từ những thế  
kỷ đầu công nguyên [8,tr. 245-246].  
Từ sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước  
năm 1975, khảo cổ học Nam Bộ bước qua thời kỳ mới  
với vai trò chính của các nhà khảo cổ học Việt Nam.  
Công tác nghiên cứu ở Khu di tích Gò áp đã có  
bước tiến đáng kể với sự tham gia khảo sát, thăm dò,  
khai quật của nhiều cơ quan. Khu di tích khảo cổ Gò  
áp đã được tiến hành thăm dò, thám sát, khai quật  
vào các năm 1984, 1993, 1998, 2003, 2009, 2010, 2011,  
2013, 2015 và 2016. Quá trình khai quật khảo cổ đã  
phát hiện một khối lượng tư liệu đồ sộ về nhiều loại  
hình di chỉ như kiến trúc, cư trú, công xưởng… cùng  
với khối lượng lớn đồ đá, đồ gốm, đồ kim loại, thủy  
tinh.  
Hình 1: Hiện vật gốm cứng văn in  
Những hoạt động điều tra, khảo sát, khai quật tại hiện  
trường khu di tích Gò áp đã trải qua gần 150 năm  
với sự tham gia của nhiều nhà khoa học người Pháp  
và các nhà khảo cổ Việt Nam. Từ đó đến nay nhiều di  
tích kiến trúc, di chỉ cư trú, di chỉ xưởng quan trọng đã  
được phát lộ, nhiều di vật văn hóa cổ được phát hiện  
và thu thập. Đây là những bằng chứng cho sự ra đời,  
phát triển một khu đô thị cổ, trung tâm văn hóa, trung  
tâm tôn giáo – chính trị đóng vai trò quan trọng trong  
sự phát triển của văn hóa Óc Eo – vương quốc Phù  
Nam. Đồng thời, những phát hiện mới trong những  
năm gần đây còn mang đến nhiều bằng chứng về mối  
quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi giữa cư dân vùng  
trũng trung tâm Đồng áp Mười với thế giới bên  
ngoài, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ như: kiến  
trúc, đồ trang sức, bi ký, đồ gốm,…  
HIỆN VẬT GỐM NƯỚC NGOÀI PHÁT  
HIỆN Ở GÒ THÁP  
Gốm Trung Quốc  
Trong đợt thăm dò tổng thể khu di tích Gò áp năm  
2016, ở phía bắc miếu Bà Chúa Xứ, khi khảo sát địa  
điểm dự kiến xây dựng kiến trúc chùa áp Linh theo  
quy hoạch mới (hố thăm dò ký hiệu 16GT.TD30AL1),  
phát hiện một số khu vực có xuất hiện loại hình gốm  
cứng văn in (Hình 1). Hoa văn xuất hiện trên loại gốm  
Hình 2: Hũ gốm cứng văn in thời Đông Hán9  
có thành phần sét pha cát hạt mịn, màu xám ghi. Sản loại hình gốm này với hai khả năng: thứ nhất có thể  
phẩm được nung ở độ nung cao, cứng mang nét đặc gốm được sản xuất tại Trung Quốc vào cùng thời kỳ  
trưng của một truyền thống riêng của gốm Đông Hán (Hình 2). Do quá trình giao lưu thương mại, trao  
niên đại khoảng thế kỷ 2-3 AD, khá xa lạ với những đổi buôn bán, những hiện vật gốm này được mang  
đồ gốm Óc Eo đã phát hiện ở đây. Hoa văn trên các đến như một vật phẩm buôn bán, hoặc là những đồ  
mảnh gốm này có dạng những ô vuông nhỏ.  
dùng của những thương nhân người Hán buôn bán ở  
Loại hình gốm này trước đây, ở trong lớp cư trú thuộc Phù Nam những thế kỷ đầu công nguyên. Khả năng  
giai đoạn Óc Eo sớm ở Gò Óc Eo, Gò Cây ị, Gò thứ 2 loại hình gốm này được sản xuất và mang đến  
Tư Trăm,… và gần đây là cuộc khai quật khu Nền từ lò gốm Hán ở Tam ọ, Đông Sơn, anh Hóa.  
Chùa (Kiên Giang) đã tìm thấy [10, tr.79 ;11, tr. 46]. Tam ọ là khu gốm cổ nổi tiếng có từ thời Đông  
Hiện vẫn đang có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của Hán nằm ở Đông Vinh, huyện Đông Sơn, tỉnh anh  
1010  
   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018  
Hóa. Khu lò này được O.Janse, nhà khảo cổ học ụy  
Điển phát hiện đầu tiên vào tháng 2/1937. Trong các  
năm từ 1937-1939, O.Janse đã khai quật và phát hiện  
8 lò nung gốm cổ cùng nhiều sản phẩm gồm ngói ống  
và các loại đồ gốm sinh hoạt đặc trưng thời Hán [12  
,
tr.35-47]. Trong đó có rất nhiều loại vò trang trí văn ô  
vuông nhỏ hay văn xương cá có đặc điểm giống như  
loại vò gốm tìm thấy ở tại một số di tích văn hóa Óc  
Eo trong đó có Gò áp.  
Phát hiện quan trọng và thú vị thứ hai là một số mảnh  
gồ gốm men trắng xanh tìm thấy ở lớp trên cùng của  
thăm dò ký hiệu 16GT.TS14A giống với loại hình gốm  
Trung Quốc thời Đông Tấn (317-420). Đấy là cái vòi  
gắn trên vai của loại ấm có tay cầm rất nổi tiếng ở  
Trung Quốc từ khoảng thời Đông Tấn được gọi là ấm  
có vòi hình đầu gà (Chicken-Headed Ewer). Đầu ấm  
dài 4,6cm, bị vỡ mất phần mào gà. Đường kính lỗ  
vòi phần ráp với thân là 1cm. Đường kính lỗ phần  
rót nước là 0,6cm. Mỏ gà được tạo hình là lỗ tròn để  
rót nước, 2 bên có 2 mào gà rủ xuống, phía trên có  
mồng gà nhưng đã bị gãy và 2 mắt gà được tạo hình  
lồi. Phía trong có miết tạo thành những đường gờ  
trước khi được phủ men [13, tr.91] (Hình 3). Xét về  
mặt kiểu dáng và chất liệu, đầu ấm phát hiện ở đây có  
những nét tương đồng với hiện vật phát hiện được ở  
lò gốm Yue (một lò gốm cổ ở khu vực Chiết Giang)  
Hình 4: Ấm đầu gà thời Đông Tấn ở lò Yue (Chiết  
Giang)14  
chén gốm. Đường kính đế 3,4cm; độ dày đế 1,3cm,  
dày thân 0,5cm. Gốm được làm bằng bàn xoay. Men  
bị bong tróc nhiều. Đế tròn loe nhỏ. Về phần loại  
hình và chất liệu thì nó khá tương đồng với loại ấm có  
vòi hình đầu gà thời Đông Tấn. Tuy nhiên, phần vành  
thân có dấu vết ghè tròn giống loại gốm ghè thời Óc  
Eo [13, tr. 91]. Vì vậy, có thể sau khi bị vỡ, đế của bát  
gốm này được tận dụng để ghè tròn, tạo thành một đồ  
chơi cho trẻ em.  
Trong đợt khai quật “Tường thành phía Tây Gò áp  
Mười, cũng đã phát hiện một số mảnh sứ men ngọc  
của loại hộp gốm hình trái bí giống loại hình hiện vật  
(Hình 4)14  
.
Loại ấm đầu gà này thường được tìm thấy trong các  
ngôi mộ ở Nam Trung Quốc từ thời Đông Tấn, và tiếp  
tục phổ biến vào triều đại nhà Tùy. Trên cơ sở các kết  
quả khai quật, loại hình hiện vật này có diễn trình phát  
triển từ dạng bình có đầu rót hình đầu gà, tay cầm đơn  
giản vào cuối thế kỷ thứ 3 đầu thế kỷ thứ 4 đến loại  
bình cao với thêm nhiều các chi tiết trang trí phức tạp,  
khá phổ biến thời Tống (960–1279) (Hình 6)16  
.
Hiện vật thứ nhất là hộp gốm men ngọc hình trái bí  
cao 3,7cm; đế dày 0,39cm; thân dày 0,4cm. Xương  
gốm trắng, có lẫn cát mịn màu xám đen. Dáng hình  
trái bí có các múi được tạo hình rõ. Có phủ men 1  
phần thân, men ngọc. Đế bằng, phần đế và phần vành  
miêng không phủ men khá giống với loại hình gốm  
hình cánh hoa cúc cùng thời. Mặt trong hộp có phủ  
một lớp men mỏng. Hộp bị vỡ chỉ còn 1/3. Đồng thời,  
ở đây cũng phát hiện được một nắp hộp gốm. Hiện vật  
như tay cầm rồng, vào thế kỷ thứ 515  
.
1
có đường kính 5,2cm, cao 1,75cm, phần còn lại là  
nắp có 7 khía. Áo gốm bên ngoài phủ men ngọc, phí2a  
trong phủ lớp men mỏng đã bị bong tróc một số vị trí.  
Xương trắng có lẫn 1 số hạt cát đen mịn. Ở tâm của  
nắp có tạo hình núm của cuống.  
Hiện vật thứ 3 là một hộp gốm men ngọc, cao 2,65cm,  
dày 0,3cm. Hộp gốm được phủ men ngọc cả mặt  
trong và mặt ngoài, nhưng không phủ men phần đáy  
(Hình 5).  
Ngoài ra, khi kiểm kê lại toàn bộ hiện vật văn hóa Óc  
Eo ở Bảo tàng Đồng áp, chúng tôi đã phát hiện một  
hiện vật Nam Tống có khoảng niên đại 1127–1279  
(Hình 8)18. Hiện vật được cháu Nguyễn ành Luân  
Hình 3: Vòi của loại bình có vòi hình đầu gà khoảng  
thế kỷ 4 - 5  
Tại địa điểm này cũng phát hiện thêm một đế chén nhặt được đằng sau đình Đốc Binh Kiều và giao nộp  
gốm men trắng xanh gồm phần đế và 1 phần thân của Bảo tàng Đồng áp vào ngày 5.8.2001. Đây là một  
1011  
   
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018  
Hình 7: Mảnh vỡ bát gốm họa tiết hai con cá Ký hiệu  
hiện vật BTĐT.CV.1026  
Hình 5: Nắp hộp gốm men ngọc hình trái bí ở Gò  
Tháp  
Hình 6: Hộp gốm men ngọc hình trái bí thời Tống ở  
Hình 8: Bát gốm có họa tiết hai con cá thời Nam  
Bảo tàng Dương Châu17  
Tống thế kỷ 12-1318  
mảnh vỡ của của một bát gốm men ngọc, lòng bát có  
trang trí hình hai con cá (chỉ còn thấy hình của 1 con  
cá). Xương gốm được lọc kỹ nên trắng, men gốm phủ  
một lớp dày, hình cá được in nổi rõ nét (Hình 7).  
rất mịn, láng màu vàng cam hay nâu đỏ, được dùng để  
sản xuất các sản phẩm cao cấp chủ yếu phục vụ nhu  
cầu tôn giáo như: các loại hình bình, bình có vòi, ly  
chân cao, nắp đậy hình đĩa có vành móc, núm cầm…  
Loại đồ gốm này được tìm thấy ở hầu hết các di chỉ  
tiền Óc Eo và Óc Eo sớm như: Gò Cây Tung, An Phú,  
Gò Me-Gò Sành, Phum Quao, Gò Châu i, Gò Tư  
Trăm, Gò Óc Eo, Gò Cây ị (An Giang); Gò áp  
(Đồng áp)…  
Các loại bình hình cầu, bình có vòi xiên ngắn, ly chân  
cao, nắp đậy có vành móc, tô sâu lòng đáy tròn… có  
đặc điểm loại hình rất gần gũi với một số loại đồ gốm  
phổ biến ở miền nam Ấn Độ như Arikamedu.  
Ngoài ra, loại hình gốm mịn đen: có xương gốm có  
Gốm Ấn Độ  
Ở Nam Bộ, nghề làm gốm vốn là nghề truyền thống  
của cộng đồng cư dân nơi đây. Tuy nhiên, cùng với  
việc du nhập tôn giáo từ Ấn Độ, kỹ thuật của một dòng  
sản phẩm gốm có chất lượng cao cũng được du nhập  
[
10, tr. 90]. Những trao đổi đầu tiên của Văn hóa Óc  
Eo và văn hóa Ấn Độ có thể được nhìn nhận qua loại  
hình đồ gốm mịn màu vàng cam: gốm có thành phần  
sét mịn được lọc rất kỹ, xương gốm có màu vàng nhạt  
hay nâu vàng, bề mặt áo gốm thường có tô lớp màu dấu vết giống với bã thực vật song được nghiền rất  
1012  
       
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018  
nhuyễn, mịn, màu xám đen, bề mặt ngoài có lớp áo tròn đường kính khoảng 1cm. Các mảnh đáy có lỗ  
dầy màu xám trắng đục, trong lòng đáy bát bồng, vành này chủ yếu được làm từ gốm mịn hoặc gốm pha cát  
miệng bình/vò… có lớp áo mỏng màu đen bóng. Loại mịn (Hình 10). Trong các đền Hindu, dù là ngôi đền  
gốm này rất phổ biến trong các di tích tiền Óc Eo ở dành cho vị thần nào cũng thường có đặt thêm Linga  
Nam Bộ và một số di chỉ Óc Eo Sớm như (Gò Ô Chùa, ở một vị trí quan trọng. Xung quanh Linga có thể  
Gò Hàng, Gò Dung, Gò Đế, Giồng Cá Vồ, Giồng Lớn, có thêm tượng thần Ganesha, Pravati, bò thần Nadin.  
Phú Chánh…), khu vực Đông Nam Á như Mimot, Đặc biệt, ở phía trên nhiều Linga người ta thường có  
Prohear, Angkor Borei (Campuchia), các di tích ở Ke- một cái bình hoặc nồi có một lỗ nhỏ phía trên Linga  
lantan (Malaysia) cũng gần giống với loại gốm có lớp (Shiva Linga Assembly with Dripping Vase), nhằm  
áo mỏng đen bóng (black polished ware) thường phổ thông qua các lỗ nhỏ nước rơi xuống tưới mát cho  
biến ở miền bắc Ấn Độ, có niên đại vào cuối thiên Linga. Tín đồ đến hành lễ hoặc các tu sĩ trong đền sẽ  
niên kỷ 1 trước Công nguyên [10, tr. 90].  
liên tục đổ nước vào bình để nước theo lỗ nhỏ dưới  
Ở giai đoạn Óc Eo phát triển từ khoảng thế kỷ 3 – 4, đáy chảy lên đầu linga. Ý nghĩa của hành động này  
những loại hình gốm có nguồn gốc Ấn Độ phát hiện cũng có thể hiểu là đang giúp thế giới nguội đi. eo  
ở Nam Bộ nói riêng và Đông Nam Á nói chung đã có quan điểm Hindu giáo, Shiva Linga là biểu trưng của  
tính địa phương hóa rõ nét. Trong đó, nổi bật nhất và lửa, của huỷ diệt và tái tạo. Vì vậy, mỗi người cầu  
dễ dàng nhận biết là loại bình Kundika có dáng chiếc nguyện Shiva Linga hoặc duy trì Shiva Linga trong  
bình (hoặc vò) đựng nước có phần cổ bình giống bầu một ngôi đền hoặc trong nhà, người ta sẽ để Linga  
sữa (biberon), vòi phình nở ở phía dưới, xuất hiện từ được giữ ở nơi lạnh, và nước lạnh, sữa hoặc paniyam  
vài thế kỷ trước Công nguyên ở Ấn Độ. Chúng được khác tưới liên tục lên Linga. Điều này sẽ giúp làm mát  
sử dụng nhiều trong các nghi lễ Hindu giáo và Phật mọi người và mọi thứ. Các tín đồ Hindu giáo còn  
giáo. Trong Văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ, một loại hình quan niệm những nơi không có mưa hoặc đang đau  
hiện vật có hình dáng gần gũi với Kundika chính là khổ vì đói kém hoặc hạn hán, nên làm ướt và luôn giữ  
Kendi. Đây là một loại hình đồ gốm có cội nguồn từ mát Shiva Linga mà họ để trong nhà. Linga mát mẻ  
Ấn Độ được du nhập, được làm theo nguyên mẫu kết sẽ giúp giữ cho thế giới mát mẻ và thanh bình. Biểu  
hợp với những sáng tạo về kiểu dáng, ở nhiều vùng tượng nước nhỏ giọt từ nồi cho thấy cuộc sống luôn  
lãnh thổ thuộc Đông Nam Á mà Óc Eo – châu thổ luôn là về chuyển động, không có trì trệ. Nếu chúng  
sông Cửu Long được nhìn nhận như là điểm trung ta trì trệ chúng ta sẽ trở nên chết mòn và điều này là  
chuyển đến Trung Hoa và bán đảo Triều Tiên. Sự phát chống lại tự nhiên (Hình 11)19  
triển của luồng trao đổi các loại gốm kendi này kéo dài  
đến cuối thiên niên kỷ 1 [8, tr.83].  
.
Một bằng chứng quan trọng trên những hiện vật gốm  
khác là những mảnh gốm có chữ. Trong đợt khai quật  
khu cư trú chân Gò Minh Sư chúng tôi cũng đã phát  
hiện được 3 mảnh gốm có chữ (Hình 9). Qua trao đổi  
với tiến sỹ Umakanta Mishra, giảng viên Khoa Lịch  
sử, Trường Đại học Ravenshaw (Ấn Độ), ông cho rằng  
chữ viết trên gốm là một kiểu chữ Brahmi được sử  
dụng ở Ấn Độ khoảng từ thế kỷ 4-6.  
Do những đặc điểm chung về chất liệu, kỹ thuật và  
độ nung của những mảnh gốm này hoàn toàn giống  
với loại gốm mịn được sản xuất tại chổ của cư dân Óc  
Eo ở Gò áp, vì vậy, chúng tôi cho rằng đây là bằng  
chứng cho sự ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ tới Gò áp  
Hình 10: Mảnh đáy bình gốm có lỗ tìm thấy ở di tích  
16GT.TD17DL2  
chứ có thể không phải là hiện vật được mang trực tiếp Có thể nói, các kiểu mẫu đồ gốm từ văn hóa Ấn Độ  
từ Ấn Độ qua. cùng với kỹ thuật chế tác được du nhập Nam bộ vào và  
Bằng chứng về chức năng của các loại gốm cao cấp sản xuất bởi những người thợ thủ công bản địa đã tạo  
trong văn hóa Óc Eo phục vụ cho mục đích tôn giáo nên những sản phẩm gốm mang sắc thái riêng của văn  
có ảnh hưởng bởi Ấn Độ còn được thể hiện qua loại hóa Óc Eo mà giới nghiên cứu khảo cổ thế giới vẫn  
hình di vật đặc trưng là loại bình, vò gốm có lỗ dưới thường gọi là gốm Phù Nam (funan ceramic). Trong  
đáy có thể được dùng để tưới mát cho Linga ở khu đền đồ gốm Óc Eo “hai yếu tố văn hóa ngoại nhập và bản  
thần Shiva được tìm thấy khi khai quật các di chỉ văn địa song song tồn tại và ghi đậm dấu ấn của mình, để  
hóa Óc Eo. Đây là loại bình, vò gốm có lỗ thủng hình rồi trở thành một phức hợp gốm riêng biệt, có tính đặc  
1013  
 
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018  
Hình 9: Một số mảnh gốm có chữ phát hiện ở Gò Minh Sư  
hai tay bắt ấn để trước bụng, do bị vỡ nên không thấy  
rõ thủ ấn. Các chi tiết của khuôn mặt không thấy  
rõ nét. Tóc xõa bồng bềnh như một vành mũ rộng  
bao quanh đầu dài đến thùy tai, cổ có 2 ngấn. Mặt  
sau của phù điêu lồi lõm, ghồ ghề, còn thấy rõ đường  
viền cong dạng chữ U lật ngược, đây chính là dấu vết  
của phần lòng máng ngói dương được ghép vào diềm  
ngói. Kích thước còn lại: cao 12,0 cm, rộng 11,0 cm,  
dày 3.5 cm.  
Hình 11: Shiva Lingam in the temple of Lord Shiva  
Rajbiraj20  
.
trưng cao và không giống với bất kỳ phức hợp gốm  
nào ở Đông Nam Á[21, tr.371].  
Ngoài đồ gốm, một số mảnh diềm ngói được tìm thấy  
ở Gò áp cũng có yếu tố ảnh hưởng từ Ấn Độ như  
sau:  
Hình 12: Diềm ngói mang ký hiệu GT 286/Gm.140  
+ Diềm ngói mang ký hiệu GTM.H11-1 là diềm ngói  
chất liệu sét pha cát mịn, màu đỏ, trên bề mặt diềm  
ngói có đắp nổi hình người ngồi trong tư thế ngồi xổm  
(malasaña pose) (Hình 13). Mảnh ngói này rất giống  
mảnh diềm ngói tìm được ở di tích Gò Trâm Quỳ  
(huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) có niên đại khoảng  
thế kỷ 12 (Hình 14). Kích thước còn lại: 11.5 x 12.8 x  
3,0 cm. Đây là đề tài thể hiện rõ tính chất Hindu giáo.  
Nguyên mẫu của đề tài này được phát hiện rất sớm ở  
- Nhóm diềm ngói có đề tài trang trí hình người: gồm  
có 02 tiêu bản:  
+ Hiện vật diềm ngói mang ký hiệu GT 286/Gm.140  
có trang trí đắp nổi một phù điêu thể hiện toàn thân  
người bằng chất liệu gốm thuần sét (gốm Gò áp loại  
1) (Hình 12). Hiện vật được sưu tầm tại chân di tích  
đền thần ở Gò Minh Sư vào năm 2012. Phù điêu được  
tạo nhỏ hơn mặt của diềm ngói, thể hiện người/tu sĩ  
có khuôn mặt tròn, đầy đặn, đang ngồi thiền định, Ấn Độ, trong văn hóa Harappa. Đó là hiện thân của  
1014  
     
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018  
nữ thần Lakshmi dưới hình thức nữ thần phồn thực Minh Sư năm 2012-2013. Hai viên xúc xắc bằng đất  
[
22, tr. 143].  
nung, đều tìm thấy ở lớp 3 trong hố khai quật có kí  
hiệu 12GMS.H2, độ sâu tương đối là 57 – 77cm, viên  
thứ nhất còn nguyên và thấy rõ các mặt, các cạnh dài  
1,8cm. Viên thứ 2 đã bị vỡ, bị mòn phần bề mặt, các  
cạnh dài 1cm. Mặt 1 và mặt 6 được đặt ở 2 mặt trên  
và dưới. Các mặt còn lại gồm 2,3,4,5 được đặt ở 4 mặt  
xung quanh liền kề nhau (Hình 15 16).  
Hình 13: Diềm ngói mang ký hiệu GTM.H11-1 ở Gò  
Tháp (Đồng Tháp)  
Hình 15: Các mặt của viên xúc xắc thứ nhất23  
Hình 16: Hai viên xúc xắc đã được phát hiện23  
eo chúng tôi được biết trong phạm vi khu vực văn  
hóa Óc Eo, cụ thể là Nam Bộ, cho tới nay chưa từng  
tìm thấy hạt xúc xắc nào. Vì vậy, rất có khả năng hai  
hạt xúc xắc này không có nguồn gốc bản địa, có thể  
là bằng chứng cho sự giao lưu văn hóa với bên ngoài  
của cư dân Gò áp, có thể là Ấn Độ nơi đã tìm thấy  
những hạt xúc xắc từ thời văn minh Harappa - Mo-  
henjo Daro, thuộc nền văn minh sông Ấn có niên đại  
3500 – 1700 TCN (Hình 17).  
Con cờ bằng đất nung: 2 hiện vật Quân cờ vua được  
phát hiện trong địa tầng hố khai quật Gò Minh Sư.  
Hiện vật thứ 1 hiện đang lưu giữ ở Bảo tàng Đồng  
áp có ký hiệu GT/Gm-126 cũng dạng giống quân  
Hình 14: Diềm ngói ở di tích Gò Trăm Quỳ (Long An)  
Nguồn: Bảo tàng Long An  
Ngoài các hiện vật gốm chịu ảnh hưởng của văn hóa  
Ấn Độ nhưng được sản xuất ở Óc Eo như trên, thì ở  
Gò áp cũng tìm thấy những hiện vật có nguồn gốc  
trực tiếp từ Ấn Độ, được những người Ấn mang tới  
và sử dụng trong quá trình sinh sống và hoạt động  
tôn giáo tín ngưỡng ở đây. Cụ thể gồm:  
- Hai viên xúc xắc (xí ngầu) bằng đất nung được  
phát hiện trong cuộc khai quật khu cư trú chân Gò mã trong bàn cờ vua, có bờm dựng thẳng đứng chạy  
1015  
       
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018  
Hình 17: Xúc xắc (dice) phát hiện ở cuộc khai quật  
Mohenjo Daro24  
Hình 19: Quân cờ vua bằng đất nung thứ 2  
từ cổ xuống vai, toàn thân hiện có màu xám tro, bị rạn  
nứt phần cổ của con ngựa (Hình 18). Hiện vật thứ hai  
làm bằng đất nung, còn nguyên vẹn, kích thước cao  
2,2cm và đường kính phần đế 1,6cm; có hình dạng  
giống quân mã trong bàn cờ vua. Đế tròn, bằng phần  
thân nhọn dần, đầu hơi nhô về phía trước. Phần đầu  
còn thấy rõ hai mắt hơi lõm vào và miệng (Hình 19).  
Nguyên liệu để nung hiện vật là đất sét pha cát mịn,  
độ nung không cao, toàn thân hiện vật có màu hồng  
nhạt [25, tr. 742].  
Qua tìm hiểu nguồn gốc của cờ vua trên thế giới và  
so sánh đối chiếu các di vật khác trong lớp đào, có thể  
đoán định niên đại tương đối của hiện vật là khoảng  
thế kỷ 6-7 AD. Trong 2 hiện vật đã phát hiện thì đây,  
xét về hình dáng, chất liệu, độ nung, loại hình và màu  
sắc, chúng tôi cho rằng con cờ vua thứ nhất là hiện  
vật được mang trực tiếp từ Ấn Độ tới Gò áp, con  
cờ vua thứ 2 là hiện vật được sản xuất tại vùng Nam  
bộ.  
KẾT LUẬN  
Như vậy, những kết quả nghiên cứu mới gần đây đã  
cho chúng ta thấy được sự hiện diện của đồ gốm sứ  
Trung Quốc, Ấn Độ trong văn hóa Óc Eo ở Gò áp,  
Đồng áp, Việt Nam. Những phát hiện này là bằng  
chứng sinh động và rõ ràng cho mối quan hệ giữa Óc  
Eo ở Gò áp với các nền văn hóa lớn trên thế giới  
trong lịch sử, chúng cho thấy hoạt động giao lưu buôn  
bán không chỉ có trong bộ phận cư dân và những khu  
vực gần các cảng biển lớn như Óc Eo với tiền cảng là  
Nền Chùa mà nó rộng khắp lãnh thổ của vương quốc  
Phù Nam.  
Việc phát hiện các đồ gốm Trung Quốc có niên đại  
từ thời Đông Hán (2 – 3 AD), Đông Tấn (317 - 420  
AD), thời Tống (960–1279 AD) tới thời Nam Tống  
(1127–1279 AD) cho thấy quá trình giao lưu với văn  
hóa Trung Hoa của cư dân cổ Óc Eo ở Gò áp được  
diễn ra thường xuyên suốt lịch sử từ thời Óc Eo kéo  
dài sang tới hậu Óc Eo. Phát hiện này cũng giúp làm  
sáng tỏ hơn những ghi chép trong thư tịch cổ của  
Trung Quốc về nhiều chuyến đi sứ của Vương quốc  
Hình 18: Quân cờ vua bằng đất nung thứ nhất  
eo lịch sử của cờ vua thì phần lớn các nhà nghiên  
cứu đều cho rằng tiền thân của cờ vua có nguồn gốc  
từ Ấn Độ trong đế chế Gupta26. Lúc mới sáng lập, trò  
chơi này được gọi là “Saturanga” tức là trò chơi chiến  
trận đối kháng có hai bên tham gia. Các quân tượng  
trưng cho một thế trận gồm đầy đủ chỉ huy và bốn  
binh chủng quân đội thời bấy giờ. Phía trước là một  
hàng quân tiến bước, tiếp đến là các chàng kỵ mã và  
các đội voi chiến (Ấn Độ có rất nhiều voi). Mé ngoài  
cùng là những chiếc xe di động. Nằm giữa hàng quân  
là đức Vua cùng với các cận thần.  
Phù Nam sang Trung Quốc27  
.
Cùng với những phát hiện của các nhà nghiên cứu  
người Pháp về các văn bia khắc chữ Brahmi/Sanskrit  
cổ, hệ thống tượng thần, vật thờ và các kiến trúc tôn  
giáo ảnh hưởng bởi văn hóa Ấn Độ,… những phát  
hiện gần đây về đồ gốm, đồ đất nung kiểu Ấn Độ được  
1016  
     
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018  
sản xuất tại Óc Eo và những vật phẩm được mang trực  
tiếp từ Ấn Độ đến Gò áp đã cho thấy Óc Eo là một  
nền văn hóa lớn, hội tụ nhiều yếu tố văn hóa nước  
ngoài.  
9. Sohu. 2019;Available from:  
10. Mạnh NQ. Các di tích tiền Óc Eo ở vùng Tứ Giác Long Xuyên  
trong quá trình hình thành văn hóa Óc Eo ở miền tây Nam Bộ.  
Luận án Tiến sĩ. Hà Nội. 2009;.  
11. Trí BM. Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo và một vài  
nhận thức mới về văn hóa Óc Eo tiếp cận từ nghiên cứu so  
sánh. Tạp chí Khảo cổ học (số 2/2020). Hà Nội: nxb Khoa học  
Xã Hội. 2020;.  
12. Trọng ĐQ. Khu lò gốm cổ Tam Thọ xã Đông Vinh, huyện Đông  
Sơn tỉnh Thanh Hoá. Thanh Hoá Di tích và Thắng cảnh (tập 2).  
Thanh Hóa: Nhà xuất bản Thanh Hóa. 2002;.  
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT  
AD: Anno Domini (Công nguyên)  
ĐHQG-HCM: Đại học Quốc gia ành phố Hồ Chí  
Minh  
KCH: Khảo cổ học.  
KHXH: Khoa học Xã hội.  
KHXH&NV: Khoa học Xã hội và Nhân văn.  
Nxb: Nhà xuất bản.  
13. Thắng ĐV, Như VTH., Sương HT. Báo cáo Thăm dò tổng thể  
khu di tích Gò Tháp và khai quật phần còn lại di tích Gò Tháp  
Mười. Đồng Tháp: Tài liệu BQLKDT Gò Tháp. 2016;.  
14. Met Museum. Chicken-Headed Ewer 4th-5th cen-  
tury;Available from:  
15. Art Museum. Chicken-headed ewer. 2004;Available from:  
16. Bảo tàng Cung điện Đài Bắc. 2020;Available from: https://  
TUYÊN BỐ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH  
Bản thảo này không có xung đột lợi ích.  
17. Manyart. 2014;Available from: http://taoci.manyart.com/  
TUYÊN BỐ ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ  
Vi nguồn tài liệu khá đầy đủ đã được sưu tầm từ  
nhiều nguồn, đặc biệt là những tư liệu khảo cổ đã phát  
hiện trong những cuộc khai quật có sự tham gia trực  
tiếp của tác giả, bằng phương pháp hệ thống hóa tác  
giả đã đưa ra những minh chứng cho thấy Gò áp  
là một đô thị lớn và quan trọng của vương quốc Phù  
Nam.  
18. Artsmia. Collections;Available from:  
china.  
19. Rajendran A. Symbolism in the water pot above Shiv-  
20. Wikimedia. Shiva Lingam in the temple of Lord Shiva Rajbi-  
.JPG.  
21. Tấn HV. Khảo cổ học Việt Nam tập II: Thời đại Kim khí. Hà Nội:  
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 1999;.  
22. Liên LT. Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở ĐBSCL trước thế  
kỷ X. Hà Nội: Nxb Thế giới. 2006;.  
23. Thắng ĐV. Báo cáo khai quật chân Gò Minh Sư Gò Tháp - Đồng  
Tháp năm 2013. Đồng Tháp: Tài liệu BQLKDT Gò Tháp. 2013;.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. MALLERET L. La status de Ganesa de Rochefort-sur-mer. Arts  
Asiatiques. 1956;3(3):211–224.  
2. Coedès G. Deux inscriptions Sanskrites de Fou-nan, BEFEO.  
1931;31:1–23. Available from: https://doi.org/10.3406/befeo.  
3. Coedès G. Études Cambodgiennes : 32. La plus ancienne in-  
scription en pāli du Cambodge, BEFEO. 1936;36:1–21. Avail-  
4. Corpus of Khmer (CIK);Available from: http://cik.efeo.fr/wp-  
5. Coedès G. Inscriptions du Cambodge (vol. II), Paris: Editions  
de Boccard. 1942;.  
6. Coedès G. Inscriptions du Cambodge (vol. V), Paris: Editions  
de Boccard. 1937;.  
7. Coedès G. Inscriptions du Cambodge VIII. Paris, Editions de  
Boccard. 1966;.  
8. Côn ĐL, Diệm LX. Báo cáo đề tài khoa học cấp Bộ Giá trị văn  
hóa Óc Eo ở miền Tây Nam Bộ. Thành phố Hồ Chí Minh. 2010;.  
24. Gottlieb R.  
The Ancient Games and Toys of Mohenjo  
Daro. 2017;Available from: https://www.globaltoynews.com/  
25. Sương HT. Quân cờ vua bằng đất nung phát hiện trong đợt  
khai quật di chỉ cư trú chân Gò Minh Sư. Những phát hiện mới  
về khảo cổ học năm 2013. Hà Nội: Nxb KHXH. 2014;.  
26. Сoбoлeвoй BO. Шaxмaтнoe иcкyccтвo. 2008;Available from:  
27. Lê PH. Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện  
nước Phù Nam. Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam (Kỷ  
yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo  
(1944-2004). Hà Nội : Nxb Thế Giới. 2008;p. 229–246.  
1017  
                                                     
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(2):1008-1018  
Research Article  
Open Access Full Text Article  
Exotic ceramics in Óc Eo culture through archaeological  
documents of Go Thap Relic Site (Dong Thap province, Vietnam)  
Ha Thi Suong*  
ABSTRACT  
Oc Eo culture is the material civilization of Funan – an ancient state in Southeast Asian history, last-  
ing from the 1st century to the 7th century A.D. and was centered on the lower Mekong Delta. The  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
results of research on currencies, commodities, bronze statues, and seals, etc. of the kingdom such  
as gold coins in the time of Antonius Pius (138-161) and Marcus Aurelius (161-180) from Roma,  
bronze mirror dated from the later Han dynasty, bronze Buddha statue from the Northern Wei pe-  
riod, seals influenced by the culture of India, etc. show that Oc Eo is a culture with wide relations and  
exchanges with East Asia, South Asia to Western Asia and Rome in ancient times. However, there  
have not been many studies on exotic ceramics. Based on the new findings from the excavations  
at the Go Thap relic site (in Dong Thap, Vietnam) carried out by the University of Social Sciences  
and Humanities, Vietnam National University Ho Chi Minh City from 2010 to present, and based on  
the results of comparative research, this article presents some relics including Chinese pottery from  
the Eastern Han dynasty to the Southern Song dynasty, Indian pottery and pottery influenced by  
the culture of India found in Go Thap relic site; thereby, contributing to the demonstration that the  
international exchange development of Phu Nam not only took place in the western region of Hau  
river having the seaport but also developed in Oc Eo culture inland – the central region of Dong  
Thap Muoi. Go Thap relic site is an urban area, a cultural religious political economic and foreign  
trade center which plays an important role in the development of Oc Eo culture – Funan kingdom.  
Key words: Exotic ceramics, Go Thap relic site, Oc Eo culture, Funan Kingdom  
University of Social Sciences &  
Humanities, VNU-HCM, Vietnam  
Correspondence  
Ha Thi Suong, University of Social  
Sciences & Humanities, VNU-HCM,  
Vietnam  
Email: hasuong@hcmussh.edu.vn  
History  
Received: 9/12/2020  
Accepted: 07/5/2021  
Published: 20/5/2021  
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i2.656  
Copyright  
© VNU-HCM Press. This is an open-  
access article distributed under the  
terms of the Creative Commons  
Attribution 4.0 International license.  
Cite this article : Suong H T. Exotic ceramics in Óc Eo culture through archaeological documents of  
Go Thap Relic Site (Dong Thap province, Vietnam) . Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(2):1008-1018.  
1018  
pdf 11 trang yennguyen 21/04/2022 4240
Bạn đang xem tài liệu "Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo qua tư liệu khảo cổ ở Khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp, Việt Nam)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdo_gom_nuoc_ngoai_trong_van_hoa_oc_eo_qua_tu_lieu_khao_co_o.pdf