Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo qua tư liệu khảo cổ ở Khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp, Việt Nam)
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018
Bài Nghiên cứu
Open Access Full Text Article
Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo qua tư liệu khảo cổ ở Khu
di tích Gò Tháp (Đồng Tháp, Việt Nam)
Hà Thị Sương*
TÓM TẮT
Văn hóa Óc Eo là văn minh vật chất của nước Phù Nam - một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam
Á, xuất hiện khoảng đầu Công nguyên kéo dài đến thế kỷ 7, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
Kông. Kết quả nghiên cứu tiền tệ, hàng hóa, tượng đồng, con dấu,… của các nước như: tiền vàng
đúc thời Antonius Pius (138-161) và thời Marcus Aurelius (161-180) từ Roma, gương đồng thời Hậu
Hán, tượng Phật thời Bắc Ngụy, con dấu ảnh hưởng từ Ấn Độ… cho thấy văn hóa Óc Eo là nền văn
hóa có quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới Đông Á, Nam Á đến Tây Á và cả La Mã thời cổ đại.
Tuy nhiên, nguồn tư liệu về gốm sứ nước ngoài vẫn chưa nhận được nhiều sự quan tâm nghiên
cứu. Dựa trên những phát hiện mới của khảo cổ học tại khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp, Việt Nam)
do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thực
hiện từ năm 2010 đến nay và dựa trên nghiên cứu so sánh, bài viết này sẽ giới thiệu một số di vật
đồ gốm Trung Quốc, đồ gốm Ấn Độ và đồ gốm chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ đã phát hiện Gò
Tháp. Qua đó minh chứng cho sự phát triển giao lưu quốc tế của Phù Nam không chỉ diễn ra ở
khu vực miền Tây sông Hậu, nơi có cảng biển mà còn phát triển ở bộ phận văn hóa Óc Eo nội địa,
vùng trung tâm của Đồng Tháp Mười. Khu di tích Gò Tháp là một khu đô thị, trung tâm văn hóa,
tôn giáo – chính trị, kinh tế, ngoại thương đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của văn hóa
Óc Eo – vương quốc Phù Nam.
Từ khoá: Gốm nước ngoài, di tích Gò Tháp, Văn hóa Óc Eo, Vương quốc Phù Nam
đồng đại hay có mối tương đồng về văn hóa ở Ấn Độ,
Trung Quốc,… bài viết sẽ giới thiệu một số hiện vật
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu di tích Gò áp (còn gọi là Prasat Pram Loven)
có nguồn gốc nước ngoài đã phát hiện trong tầng văn
thuộc xã Tân Kiều (trước tháng 4 năm 1984 thuộc xã
hóa Khu di tích Gò áp, từ đó, đóng góp thêm một
Mỹ Hòa), huyện áp Mười, tỉnh Đồng áp, là tên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam
số nhận thức mới về văn hóa Óc Eo ở khu di tích Gò
áp nói riêng và vùng trũng Đồng áp Mười nói
chung.
gọi chung cho một khu vực gồm nhiều gò nhỏ nằm
trên một giồng đất dài gần 1km, rộng 300 - 400m chạy
theo hướng Đông Bắc – Tây Nam và những cánh đồng
ruộng trũng xung quanh trên một diện tích được xây
dựng đê bao quy hoạch khoảng 6km2.
Liên hệ
Hà Thị Sương, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam
LỊCH SỬ PHÁT HIỆN VÀ NGHIÊN
CỨU KHU DI TÍCH GÒ THÁP
Email: hasuong@hcmussh.edu.vn
Từ năm 2010 đến nay, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM đã có nhiều cuộc hợp
tác với Sở Văn hóa, ể thao và Du lịch Tỉnh Đồng
áp, Ban quản lý Khu di tích Gò áp trong việc điều
tra, thăm dò, khai quật và nghiên cứu Khảo cổ học ở
khu di tích Gò áp. Từ các cuộc hợp tác này, đã xuất
lộ thêm nhiều dấu tích kiến trúc, những chứng tích
của các khu sản xuất đồ gốm, gỗ, đá, các dấu vết của
các khu cư trú cùng với đó là sự phong phú, đa dạng
của các loại hình di vật, trong đó có những hiện vật
khá xa lạ với các hiện vật thường gặp trong văn hóa Óc
Eo và hậu Óc Eo ở Nam Bộ. Dựa vào kết quả nghiên
cứu so sánh giữa các di vật tìm thấy trong các cuộc
khai quật ở Gò áp với các hiện vật khảo cổ học đã
Khu di tích Gò áp được biết tới lần đầu tiên do ông
Silvestre, một thanh tra người Pháp làm việc tại đây
vào những năm 1869-1878, phát hiện được 1 bánh xe
bằng đá và dấu tích móng của một ngôi đền cổ (đền
1878 – 1879, một minh văn Phạn ngữ tìm thấy tại chùa
Prasat Pram Loven (Gò áp) được đưa về tỉnh lỵ Sa
Đéc, sau đó chuyển về Bảo tàng Sài Gòn năm 1928,
được G. Coedes công bố trong tác phẩm Hai bi ký chữ
phạn ở Phù Nam (Deux inscriptions Sanskrites de Fou-
nan) vào năm 1931. Bản văn bia được ký hiệu (K.5),
khắc trên trụ cửa phiến thạch có chốt (1,90m x 0,92m
Lịch sử
• Ngày nhận: 9/12/2020
• Ngày chấp nhận: 07/5/2021
• Ngày đăng: 20/5/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i2.656
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
phát hiện trong văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ, các hiện vật cổ (old Khmer) chia làm hai cột. Nội dung nói về việc
Trích dẫn bài báo này: Sương H T. Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo qua tư liệu khảo cổ ở Khu
di tích Gò Tháp (Đồng Tháp, Việt Nam). Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(2):1008-1018.
1008
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018
vua Phù Nam là Jayavarman cử thái tử Gunavarman tiếp theo theo độ cao và 3 quốc gia cuối cùng được đặt
đến cai quản xứ sở sùng đạo chinh phục từ đầm lầy, tên theo tên rừng. Các quốc gia này, có tên được sao
đồng thời bia còn nhắc đến việc thái tử dâng cúng hai chép dưới đây đã đóng góp một số tô, thuế nhất định
bàn chân thần Vishnu để cầu mong sự che chở và bảo bằng mật ong (madhu), và mật ong dạng sáp (mad-
vệ của thần. Bia hiện được lưu giữ và trưng bày tại hucchista). Dòng chữ này trên văn bia tương tự văn
Bảo tàng Lịch sử ành phố Hồ Chí Minh. Bi ký này bia được phát hiện ở Vat Kdei Rovàn Càs dans Prei
được xác định có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 6 AD Vên [6, tr. 272]. Bia được xác định có niên đại vào
Tiếp sau đó, một số bản minh văn khác cũng được Bản văn bia ký hiệu K.517 Bản văn gồm 19 dòng, liệt
tìm thấy ở khu Gò áp gồm: Bản văn bia ký hiệu kê các loại tô, thuế mà các làng xã phải đóng cho một
K.6. [3, tr. 5], bản bi ký được khắc trên đá, gồm 10 ngôi đền. Bia được xác định có niên đại vào khoảng
6 – 7 AD4. Nội dung bản bi ký ghi việc tôn vinh thần Bản văn bia ký hiệu K.798 văn bia được đưa về Bảo
Puspavatasvami thông qua việc dâng một số nô lệ kèm tàng Sài Gòn. Văn khắc trên một cấu kiện kiến trúc
theo 400 cây cau và 40 cây dừa lấy từ trong làng và xung đã bị mòn là phần chân của một trụ đá, gồm 2 dòng
áp Mười ngày nay có thể là một vùng có diện tích Nhiều chục năm sau những phát hiện đó, lần lượt
lớn hơn so với diện tích được xây dựng đê bao bảo vệ các nhà khảo cổ học Pháp thuộc Trường Viễn Đông
hiện nay. Nơi đây có dân cư sống bao quanh và được Bác Cổ đến khảo sát, đào thám sát. Cuộc khảo sát
phủ xanh bởi rất nhiều thực vật trong đó có cau và sớm nhất là từ năm 1931 do Henri Parmentier và J.Y.
dừa.
Claeys thực hiện. J.Y. Claeys đã đào vài hố thám sát
Bản văn bia ký hiệu K.7. Phần chữ được khắc trên chung quanh ngôi chùa mới, và đã ghi nhận một vỉa
một cột hình tám cạnh, một đầu vuông, có mộng và gạch xây ở sườn phía tây của gò. Xung quanh chùa
chốt (một cấu kiện kiến trúc) để ghép với bệ dưới và thấy ngổn ngang nhiều gạch, ngói cổ. Trên gò này
đầu cột bên trên. Trụ đá sau đó đã bị vỡ và phần dưới Henri Parmentier đã ghi nhận vào năm 1931 nhiều
gồm 6 dòng chữ đã bị thất lạc. Bản văn bia còn lại cấu kiện kiến trúc và vật thờ [8, tr. 242]. Ông đã
gồm khoảng 20 dòng nói đến việc dựng tượng (hay quan sát được ở áp Mười, 5 trụ cửa bằng đá (nguyên
đền) thờ vua Puskaraksa, do hoàng tử Sambhuvarm- vẹn và 5 mảnh vỡ), tương ứng với ít nhất 3 ngôi tháp.
madeva lập. Phần ghi năm tháng bên trên đã bị mòn, Ngoài ra, ở khoảng 200m về phía đông bắc ngôi chùa,
không đọc được; văn bản được viết bằng lối chữ thảo, Henri Parmentier còn ghi nhận được một mô gạch
còn giữ lại đôi nét cổ xưa. eo G. Coedes niên đại đã bị đào ở bên trên, cùng một bồn nước thánh (dày
Bản văn bia ký hiệu K.8. Bản văn được khắc trên Tới năm 1963, những nghiên cứu trước đó về vùng
một trụ sa thạch xám đen (1,48m x 0,51m x 0,12m) Đồng áp Mười trong đó có Gò áp đã được Louis
gồm 10 dòng, nói đến việc dâng nô lệ lên thần Sri Am- Malleret tập hợp lại và trình bày trong tập 4 sách Khảo
ratakesvara, một hóa thân của Shiva [5, tr. 79]. Trên cổ học Đồng bằng sông Mê Kông (L’archéologie du Delta
bia có ghi niên đại thế kỷ thứ 6 Saka (ế kỷ 7 AD)4. du Mékong), tập sách giới thiệu những di tích vùng
Bản văn bia ký hiệu K.9. Bản bia này thường được gọi “Cisbassas” và những sự kiện văn hóa.
là bia Phú Hữu, có khả năng là của Gò áp, trước khi Những ghi nhận từ những năm 1869 cho đến 1943
đưa về ngôi chùa ở Cái Tàu Hạ, rồi chuyển về Sa Đéc cho thấy Gò áp là một khu di tích khảo cổ rất phong
và Bảo tàng Sài Gòn năm 1928 (với ký hiệu Kp. 1,1)4. phúvề mặt di tích và di vật. Cho đến những năm 1940,
Nội dung bản văn song ngữ gồm 8 dòng chữ Sanskrit ít nhất đã phát hiện 8 minh văn với hàng chục cấu kiện
và 20 dòng chữ Khmer ghi nhận việc xây dựng ngôi kiến trúc đá cỡ lớn, hàng chục vết tích kiến trúc gạch
đền thần Cri-Vizesvara vào năm 651 Saka (tức năm xuất lộ trên mặt gò và ít nhất là 14 pho tượng đá, gần
nguyên vẹn hoặc mảnh vỡ lớn có thể ráp nối và nhận
Bản văn bia ký hiệu K.421 được ghi nhận năm 1913 diện được đầy đủ kích thước trung bình và tượng nhỏ.
là còn nằm trong một di tích kiến trúc ở áp Mười lộ Những tượng và vật thờ tìm thấy ở đây phản ánh tính
ra ở phía tây nền của một ngôi chùa. Kích thước của đa dạng trong tín ngưỡng cổ đại của địa phương: tục
văn bia là 1,25, x 0,50m. Bản bia gồm 18 dòng minh thờ thần mặt trời - thần Surya, tục thờ Shiva gắn liền
văn được công bố trong tác phẩm Bi ký ở Cambodia với tục thờ linga, sự phổ biến của tục thờ thần Vishnu
tập 8 (Inscriptions du Cambodge VIII) vào năm 1923 và đạo Phật. Những pho tượng này tạc theo nhiều
[7, tr.148]. Nội dung minh văn liệt kê 9 quốc gia, 4 mẫu nhân dạng khác nhau với nhiều loại trang phục
trong số đầu tiên được đặt tên theo sông, 2 quốc gia khác nhau cho thấy những dòng giao lưu văn hóa cổ
1009
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018
đã để lại nơi đây những dấu ấn sâu đậm từ những thế
Từ sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
năm 1975, khảo cổ học Nam Bộ bước qua thời kỳ mới
với vai trò chính của các nhà khảo cổ học Việt Nam.
Công tác nghiên cứu ở Khu di tích Gò áp đã có
bước tiến đáng kể với sự tham gia khảo sát, thăm dò,
khai quật của nhiều cơ quan. Khu di tích khảo cổ Gò
áp đã được tiến hành thăm dò, thám sát, khai quật
vào các năm 1984, 1993, 1998, 2003, 2009, 2010, 2011,
2013, 2015 và 2016. Quá trình khai quật khảo cổ đã
phát hiện một khối lượng tư liệu đồ sộ về nhiều loại
hình di chỉ như kiến trúc, cư trú, công xưởng… cùng
với khối lượng lớn đồ đá, đồ gốm, đồ kim loại, thủy
tinh.
Hình 1: Hiện vật gốm cứng văn in
Những hoạt động điều tra, khảo sát, khai quật tại hiện
trường khu di tích Gò áp đã trải qua gần 150 năm
với sự tham gia của nhiều nhà khoa học người Pháp
và các nhà khảo cổ Việt Nam. Từ đó đến nay nhiều di
tích kiến trúc, di chỉ cư trú, di chỉ xưởng quan trọng đã
được phát lộ, nhiều di vật văn hóa cổ được phát hiện
và thu thập. Đây là những bằng chứng cho sự ra đời,
phát triển một khu đô thị cổ, trung tâm văn hóa, trung
tâm tôn giáo – chính trị đóng vai trò quan trọng trong
sự phát triển của văn hóa Óc Eo – vương quốc Phù
Nam. Đồng thời, những phát hiện mới trong những
năm gần đây còn mang đến nhiều bằng chứng về mối
quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi giữa cư dân vùng
trũng trung tâm Đồng áp Mười với thế giới bên
ngoài, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ như: kiến
trúc, đồ trang sức, bi ký, đồ gốm,…
HIỆN VẬT GỐM NƯỚC NGOÀI PHÁT
HIỆN Ở GÒ THÁP
Gốm Trung Quốc
Trong đợt thăm dò tổng thể khu di tích Gò áp năm
2016, ở phía bắc miếu Bà Chúa Xứ, khi khảo sát địa
điểm dự kiến xây dựng kiến trúc chùa áp Linh theo
quy hoạch mới (hố thăm dò ký hiệu 16GT.TD30AL1),
phát hiện một số khu vực có xuất hiện loại hình gốm
có thành phần sét pha cát hạt mịn, màu xám ghi. Sản loại hình gốm này với hai khả năng: thứ nhất có thể
phẩm được nung ở độ nung cao, cứng mang nét đặc gốm được sản xuất tại Trung Quốc vào cùng thời kỳ
niên đại khoảng thế kỷ 2-3 AD, khá xa lạ với những đổi buôn bán, những hiện vật gốm này được mang
đồ gốm Óc Eo đã phát hiện ở đây. Hoa văn trên các đến như một vật phẩm buôn bán, hoặc là những đồ
mảnh gốm này có dạng những ô vuông nhỏ.
dùng của những thương nhân người Hán buôn bán ở
Loại hình gốm này trước đây, ở trong lớp cư trú thuộc Phù Nam những thế kỷ đầu công nguyên. Khả năng
giai đoạn Óc Eo sớm ở Gò Óc Eo, Gò Cây ị, Gò thứ 2 loại hình gốm này được sản xuất và mang đến
Tư Trăm,… và gần đây là cuộc khai quật khu Nền từ lò gốm Hán ở Tam ọ, Đông Sơn, anh Hóa.
Chùa (Kiên Giang) đã tìm thấy [10, tr.79 ;11, tr. 46]. Tam ọ là khu gốm cổ nổi tiếng có từ thời Đông
Hiện vẫn đang có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của Hán nằm ở Đông Vinh, huyện Đông Sơn, tỉnh anh
1010
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018
Hóa. Khu lò này được O.Janse, nhà khảo cổ học ụy
Điển phát hiện đầu tiên vào tháng 2/1937. Trong các
năm từ 1937-1939, O.Janse đã khai quật và phát hiện
8 lò nung gốm cổ cùng nhiều sản phẩm gồm ngói ống
,
tr.35-47]. Trong đó có rất nhiều loại vò trang trí văn ô
vuông nhỏ hay văn xương cá có đặc điểm giống như
loại vò gốm tìm thấy ở tại một số di tích văn hóa Óc
Eo trong đó có Gò áp.
Phát hiện quan trọng và thú vị thứ hai là một số mảnh
gồ gốm men trắng xanh tìm thấy ở lớp trên cùng của
thăm dò ký hiệu 16GT.TS14A giống với loại hình gốm
Trung Quốc thời Đông Tấn (317-420). Đấy là cái vòi
gắn trên vai của loại ấm có tay cầm rất nổi tiếng ở
Trung Quốc từ khoảng thời Đông Tấn được gọi là ấm
có vòi hình đầu gà (Chicken-Headed Ewer). Đầu ấm
dài 4,6cm, bị vỡ mất phần mào gà. Đường kính lỗ
vòi phần ráp với thân là 1cm. Đường kính lỗ phần
rót nước là 0,6cm. Mỏ gà được tạo hình là lỗ tròn để
rót nước, 2 bên có 2 mào gà rủ xuống, phía trên có
mồng gà nhưng đã bị gãy và 2 mắt gà được tạo hình
lồi. Phía trong có miết tạo thành những đường gờ
mặt kiểu dáng và chất liệu, đầu ấm phát hiện ở đây có
những nét tương đồng với hiện vật phát hiện được ở
lò gốm Yue (một lò gốm cổ ở khu vực Chiết Giang)
Hình 4: Ấm đầu gà thời Đông Tấn ở lò Yue (Chiết
chén gốm. Đường kính đế 3,4cm; độ dày đế 1,3cm,
dày thân 0,5cm. Gốm được làm bằng bàn xoay. Men
bị bong tróc nhiều. Đế tròn loe nhỏ. Về phần loại
hình và chất liệu thì nó khá tương đồng với loại ấm có
vòi hình đầu gà thời Đông Tấn. Tuy nhiên, phần vành
thân có dấu vết ghè tròn giống loại gốm ghè thời Óc
gốm này được tận dụng để ghè tròn, tạo thành một đồ
chơi cho trẻ em.
Trong đợt khai quật “Tường thành phía Tây Gò áp
Mười”, cũng đã phát hiện một số mảnh sứ men ngọc
của loại hộp gốm hình trái bí giống loại hình hiện vật
.
Loại ấm đầu gà này thường được tìm thấy trong các
ngôi mộ ở Nam Trung Quốc từ thời Đông Tấn, và tiếp
tục phổ biến vào triều đại nhà Tùy. Trên cơ sở các kết
quả khai quật, loại hình hiện vật này có diễn trình phát
triển từ dạng bình có đầu rót hình đầu gà, tay cầm đơn
giản vào cuối thế kỷ thứ 3 đầu thế kỷ thứ 4 đến loại
bình cao với thêm nhiều các chi tiết trang trí phức tạp,
.
Hiện vật thứ nhất là hộp gốm men ngọc hình trái bí
cao 3,7cm; đế dày 0,39cm; thân dày 0,4cm. Xương
gốm trắng, có lẫn cát mịn màu xám đen. Dáng hình
trái bí có các múi được tạo hình rõ. Có phủ men 1
phần thân, men ngọc. Đế bằng, phần đế và phần vành
miêng không phủ men khá giống với loại hình gốm
hình cánh hoa cúc cùng thời. Mặt trong hộp có phủ
một lớp men mỏng. Hộp bị vỡ chỉ còn 1/3. Đồng thời,
ở đây cũng phát hiện được một nắp hộp gốm. Hiện vật
.
1
có đường kính 5,2cm, cao 1,75cm, phần còn lại là
nắp có 7 khía. Áo gốm bên ngoài phủ men ngọc, phí2a
trong phủ lớp men mỏng đã bị bong tróc một số vị trí.
Xương trắng có lẫn 1 số hạt cát đen mịn. Ở tâm của
nắp có tạo hình núm của cuống.
Hiện vật thứ 3 là một hộp gốm men ngọc, cao 2,65cm,
dày 0,3cm. Hộp gốm được phủ men ngọc cả mặt
trong và mặt ngoài, nhưng không phủ men phần đáy
Ngoài ra, khi kiểm kê lại toàn bộ hiện vật văn hóa Óc
Eo ở Bảo tàng Đồng áp, chúng tôi đã phát hiện một
hiện vật Nam Tống có khoảng niên đại 1127–1279
Hình 3: Vòi của loại bình có vòi hình đầu gà khoảng
thế kỷ 4 - 5
Tại địa điểm này cũng phát hiện thêm một đế chén nhặt được đằng sau đình Đốc Binh Kiều và giao nộp
gốm men trắng xanh gồm phần đế và 1 phần thân của Bảo tàng Đồng áp vào ngày 5.8.2001. Đây là một
1011
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018
Hình 7: Mảnh vỡ bát gốm họa tiết hai con cá Ký hiệu
hiện vật BTĐT.CV.1026
Hình 5: Nắp hộp gốm men ngọc hình trái bí ở Gò
Tháp
Hình 6: Hộp gốm men ngọc hình trái bí thời Tống ở
Hình 8: Bát gốm có họa tiết hai con cá thời Nam
mảnh vỡ của của một bát gốm men ngọc, lòng bát có
trang trí hình hai con cá (chỉ còn thấy hình của 1 con
cá). Xương gốm được lọc kỹ nên trắng, men gốm phủ
rất mịn, láng màu vàng cam hay nâu đỏ, được dùng để
sản xuất các sản phẩm cao cấp chủ yếu phục vụ nhu
cầu tôn giáo như: các loại hình bình, bình có vòi, ly
chân cao, nắp đậy hình đĩa có vành móc, núm cầm…
Loại đồ gốm này được tìm thấy ở hầu hết các di chỉ
tiền Óc Eo và Óc Eo sớm như: Gò Cây Tung, An Phú,
Gò Me-Gò Sành, Phum Quao, Gò Châu i, Gò Tư
Trăm, Gò Óc Eo, Gò Cây ị (An Giang); Gò áp
(Đồng áp)…
Các loại bình hình cầu, bình có vòi xiên ngắn, ly chân
cao, nắp đậy có vành móc, tô sâu lòng đáy tròn… có
đặc điểm loại hình rất gần gũi với một số loại đồ gốm
phổ biến ở miền nam Ấn Độ như Arikamedu.
Ngoài ra, loại hình gốm mịn đen: có xương gốm có
Gốm Ấn Độ
Ở Nam Bộ, nghề làm gốm vốn là nghề truyền thống
của cộng đồng cư dân nơi đây. Tuy nhiên, cùng với
việc du nhập tôn giáo từ Ấn Độ, kỹ thuật của một dòng
sản phẩm gốm có chất lượng cao cũng được du nhập
[
10, tr. 90]. Những trao đổi đầu tiên của Văn hóa Óc
Eo và văn hóa Ấn Độ có thể được nhìn nhận qua loại
hình đồ gốm mịn màu vàng cam: gốm có thành phần
sét mịn được lọc rất kỹ, xương gốm có màu vàng nhạt
hay nâu vàng, bề mặt áo gốm thường có tô lớp màu dấu vết giống với bã thực vật song được nghiền rất
1012
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018
nhuyễn, mịn, màu xám đen, bề mặt ngoài có lớp áo tròn đường kính khoảng 1cm. Các mảnh đáy có lỗ
dầy màu xám trắng đục, trong lòng đáy bát bồng, vành này chủ yếu được làm từ gốm mịn hoặc gốm pha cát
gốm này rất phổ biến trong các di tích tiền Óc Eo ở dành cho vị thần nào cũng thường có đặt thêm Linga
Nam Bộ và một số di chỉ Óc Eo Sớm như (Gò Ô Chùa, ở một vị trí quan trọng. Xung quanh Linga có thể
Gò Hàng, Gò Dung, Gò Đế, Giồng Cá Vồ, Giồng Lớn, có thêm tượng thần Ganesha, Pravati, bò thần Nadin.
Phú Chánh…), khu vực Đông Nam Á như Mimot, Đặc biệt, ở phía trên nhiều Linga người ta thường có
Prohear, Angkor Borei (Campuchia), các di tích ở Ke- một cái bình hoặc nồi có một lỗ nhỏ phía trên Linga
lantan (Malaysia) cũng gần giống với loại gốm có lớp (Shiva Linga Assembly with Dripping Vase), nhằm
áo mỏng đen bóng (black polished ware) thường phổ thông qua các lỗ nhỏ nước rơi xuống tưới mát cho
biến ở miền bắc Ấn Độ, có niên đại vào cuối thiên Linga. Tín đồ đến hành lễ hoặc các tu sĩ trong đền sẽ
liên tục đổ nước vào bình để nước theo lỗ nhỏ dưới
Ở giai đoạn Óc Eo phát triển từ khoảng thế kỷ 3 – 4, đáy chảy lên đầu linga. Ý nghĩa của hành động này
những loại hình gốm có nguồn gốc Ấn Độ phát hiện cũng có thể hiểu là đang giúp thế giới nguội đi. eo
ở Nam Bộ nói riêng và Đông Nam Á nói chung đã có quan điểm Hindu giáo, Shiva Linga là biểu trưng của
tính địa phương hóa rõ nét. Trong đó, nổi bật nhất và lửa, của huỷ diệt và tái tạo. Vì vậy, mỗi người cầu
dễ dàng nhận biết là loại bình Kundika có dáng chiếc nguyện Shiva Linga hoặc duy trì Shiva Linga trong
bình (hoặc vò) đựng nước có phần cổ bình giống bầu một ngôi đền hoặc trong nhà, người ta sẽ để Linga
sữa (biberon), vòi phình nở ở phía dưới, xuất hiện từ được giữ ở nơi lạnh, và nước lạnh, sữa hoặc paniyam
vài thế kỷ trước Công nguyên ở Ấn Độ. Chúng được khác tưới liên tục lên Linga. Điều này sẽ giúp làm mát
sử dụng nhiều trong các nghi lễ Hindu giáo và Phật mọi người và mọi thứ. Các tín đồ Hindu giáo còn
giáo. Trong Văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ, một loại hình quan niệm những nơi không có mưa hoặc đang đau
hiện vật có hình dáng gần gũi với Kundika chính là khổ vì đói kém hoặc hạn hán, nên làm ướt và luôn giữ
Kendi. Đây là một loại hình đồ gốm có cội nguồn từ mát Shiva Linga mà họ để trong nhà. Linga mát mẻ
Ấn Độ được du nhập, được làm theo nguyên mẫu kết sẽ giúp giữ cho thế giới mát mẻ và thanh bình. Biểu
hợp với những sáng tạo về kiểu dáng, ở nhiều vùng tượng nước nhỏ giọt từ nồi cho thấy cuộc sống luôn
lãnh thổ thuộc Đông Nam Á mà Óc Eo – châu thổ luôn là về chuyển động, không có trì trệ. Nếu chúng
sông Cửu Long được nhìn nhận như là điểm trung ta trì trệ chúng ta sẽ trở nên chết mòn và điều này là
triển của luồng trao đổi các loại gốm kendi này kéo dài
.
Một bằng chứng quan trọng trên những hiện vật gốm
khác là những mảnh gốm có chữ. Trong đợt khai quật
khu cư trú chân Gò Minh Sư chúng tôi cũng đã phát
với tiến sỹ Umakanta Mishra, giảng viên Khoa Lịch
sử, Trường Đại học Ravenshaw (Ấn Độ), ông cho rằng
chữ viết trên gốm là một kiểu chữ Brahmi được sử
dụng ở Ấn Độ khoảng từ thế kỷ 4-6.
Do những đặc điểm chung về chất liệu, kỹ thuật và
độ nung của những mảnh gốm này hoàn toàn giống
với loại gốm mịn được sản xuất tại chổ của cư dân Óc
Eo ở Gò áp, vì vậy, chúng tôi cho rằng đây là bằng
chứng cho sự ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ tới Gò áp
Hình 10: Mảnh đáy bình gốm có lỗ tìm thấy ở di tích
16GT.TD17DL2
chứ có thể không phải là hiện vật được mang trực tiếp Có thể nói, các kiểu mẫu đồ gốm từ văn hóa Ấn Độ
từ Ấn Độ qua. cùng với kỹ thuật chế tác được du nhập Nam bộ vào và
Bằng chứng về chức năng của các loại gốm cao cấp sản xuất bởi những người thợ thủ công bản địa đã tạo
trong văn hóa Óc Eo phục vụ cho mục đích tôn giáo nên những sản phẩm gốm mang sắc thái riêng của văn
có ảnh hưởng bởi Ấn Độ còn được thể hiện qua loại hóa Óc Eo mà giới nghiên cứu khảo cổ thế giới vẫn
hình di vật đặc trưng là loại bình, vò gốm có lỗ dưới thường gọi là gốm Phù Nam (funan ceramic). Trong
đáy có thể được dùng để tưới mát cho Linga ở khu đền đồ gốm Óc Eo “hai yếu tố văn hóa ngoại nhập và bản
thần Shiva được tìm thấy khi khai quật các di chỉ văn địa song song tồn tại và ghi đậm dấu ấn của mình, để
hóa Óc Eo. Đây là loại bình, vò gốm có lỗ thủng hình rồi trở thành một phức hợp gốm riêng biệt, có tính đặc
1013
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018
Hình 9: Một số mảnh gốm có chữ phát hiện ở Gò Minh Sư
hai tay bắt ấn để trước bụng, do bị vỡ nên không thấy
rõ thủ ấn. Các chi tiết của khuôn mặt không thấy
rõ nét. Tóc xõa bồng bềnh như một vành mũ rộng
bao quanh đầu dài đến thùy tai, cổ có 2 ngấn. Mặt
sau của phù điêu lồi lõm, ghồ ghề, còn thấy rõ đường
viền cong dạng chữ U lật ngược, đây chính là dấu vết
của phần lòng máng ngói dương được ghép vào diềm
ngói. Kích thước còn lại: cao 12,0 cm, rộng 11,0 cm,
dày 3.5 cm.
Hình 11: Shiva Lingam in the temple of Lord Shiva
.
trưng cao và không giống với bất kỳ phức hợp gốm
Ngoài đồ gốm, một số mảnh diềm ngói được tìm thấy
ở Gò áp cũng có yếu tố ảnh hưởng từ Ấn Độ như
sau:
Hình 12: Diềm ngói mang ký hiệu GT 286/Gm.140
+ Diềm ngói mang ký hiệu GTM.H11-1 là diềm ngói
chất liệu sét pha cát mịn, màu đỏ, trên bề mặt diềm
ngói có đắp nổi hình người ngồi trong tư thế ngồi xổm
mảnh diềm ngói tìm được ở di tích Gò Trâm Quỳ
(huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) có niên đại khoảng
3,0 cm. Đây là đề tài thể hiện rõ tính chất Hindu giáo.
Nguyên mẫu của đề tài này được phát hiện rất sớm ở
- Nhóm diềm ngói có đề tài trang trí hình người: gồm
có 02 tiêu bản:
+ Hiện vật diềm ngói mang ký hiệu GT 286/Gm.140
có trang trí đắp nổi một phù điêu thể hiện toàn thân
người bằng chất liệu gốm thuần sét (gốm Gò áp loại
đền thần ở Gò Minh Sư vào năm 2012. Phù điêu được
tạo nhỏ hơn mặt của diềm ngói, thể hiện người/tu sĩ
có khuôn mặt tròn, đầy đặn, đang ngồi thiền định, Ấn Độ, trong văn hóa Harappa. Đó là hiện thân của
1014
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018
nữ thần Lakshmi dưới hình thức nữ thần phồn thực Minh Sư năm 2012-2013. Hai viên xúc xắc bằng đất
[
22, tr. 143].
nung, đều tìm thấy ở lớp 3 trong hố khai quật có kí
hiệu 12GMS.H2, độ sâu tương đối là 57 – 77cm, viên
thứ nhất còn nguyên và thấy rõ các mặt, các cạnh dài
1,8cm. Viên thứ 2 đã bị vỡ, bị mòn phần bề mặt, các
cạnh dài 1cm. Mặt 1 và mặt 6 được đặt ở 2 mặt trên
và dưới. Các mặt còn lại gồm 2,3,4,5 được đặt ở 4 mặt
Hình 13: Diềm ngói mang ký hiệu GTM.H11-1 ở Gò
Tháp (Đồng Tháp)
eo chúng tôi được biết trong phạm vi khu vực văn
hóa Óc Eo, cụ thể là Nam Bộ, cho tới nay chưa từng
tìm thấy hạt xúc xắc nào. Vì vậy, rất có khả năng hai
hạt xúc xắc này không có nguồn gốc bản địa, có thể
là bằng chứng cho sự giao lưu văn hóa với bên ngoài
của cư dân Gò áp, có thể là Ấn Độ nơi đã tìm thấy
những hạt xúc xắc từ thời văn minh Harappa - Mo-
henjo Daro, thuộc nền văn minh sông Ấn có niên đại
Con cờ bằng đất nung: 2 hiện vật Quân cờ vua được
phát hiện trong địa tầng hố khai quật Gò Minh Sư.
Hiện vật thứ 1 hiện đang lưu giữ ở Bảo tàng Đồng
áp có ký hiệu GT/Gm-126 cũng dạng giống quân
Hình 14: Diềm ngói ở di tích Gò Trăm Quỳ (Long An)
Nguồn: Bảo tàng Long An
Ngoài các hiện vật gốm chịu ảnh hưởng của văn hóa
Ấn Độ nhưng được sản xuất ở Óc Eo như trên, thì ở
Gò áp cũng tìm thấy những hiện vật có nguồn gốc
trực tiếp từ Ấn Độ, được những người Ấn mang tới
và sử dụng trong quá trình sinh sống và hoạt động
tôn giáo tín ngưỡng ở đây. Cụ thể gồm:
- Hai viên xúc xắc (xí ngầu) bằng đất nung được
phát hiện trong cuộc khai quật khu cư trú chân Gò mã trong bàn cờ vua, có bờm dựng thẳng đứng chạy
1015
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018
Hình 17: Xúc xắc (dice) phát hiện ở cuộc khai quật
Hình 19: Quân cờ vua bằng đất nung thứ 2
từ cổ xuống vai, toàn thân hiện có màu xám tro, bị rạn
làm bằng đất nung, còn nguyên vẹn, kích thước cao
2,2cm và đường kính phần đế 1,6cm; có hình dạng
giống quân mã trong bàn cờ vua. Đế tròn, bằng phần
thân nhọn dần, đầu hơi nhô về phía trước. Phần đầu
Nguyên liệu để nung hiện vật là đất sét pha cát mịn,
độ nung không cao, toàn thân hiện vật có màu hồng
Qua tìm hiểu nguồn gốc của cờ vua trên thế giới và
so sánh đối chiếu các di vật khác trong lớp đào, có thể
đoán định niên đại tương đối của hiện vật là khoảng
thế kỷ 6-7 AD. Trong 2 hiện vật đã phát hiện thì đây,
xét về hình dáng, chất liệu, độ nung, loại hình và màu
sắc, chúng tôi cho rằng con cờ vua thứ nhất là hiện
vật được mang trực tiếp từ Ấn Độ tới Gò áp, con
cờ vua thứ 2 là hiện vật được sản xuất tại vùng Nam
bộ.
KẾT LUẬN
Như vậy, những kết quả nghiên cứu mới gần đây đã
cho chúng ta thấy được sự hiện diện của đồ gốm sứ
Trung Quốc, Ấn Độ trong văn hóa Óc Eo ở Gò áp,
Đồng áp, Việt Nam. Những phát hiện này là bằng
chứng sinh động và rõ ràng cho mối quan hệ giữa Óc
Eo ở Gò áp với các nền văn hóa lớn trên thế giới
trong lịch sử, chúng cho thấy hoạt động giao lưu buôn
bán không chỉ có trong bộ phận cư dân và những khu
vực gần các cảng biển lớn như Óc Eo với tiền cảng là
Nền Chùa mà nó rộng khắp lãnh thổ của vương quốc
Phù Nam.
Việc phát hiện các đồ gốm Trung Quốc có niên đại
từ thời Đông Hán (2 – 3 AD), Đông Tấn (317 - 420
AD), thời Tống (960–1279 AD) tới thời Nam Tống
(1127–1279 AD) cho thấy quá trình giao lưu với văn
hóa Trung Hoa của cư dân cổ Óc Eo ở Gò áp được
diễn ra thường xuyên suốt lịch sử từ thời Óc Eo kéo
dài sang tới hậu Óc Eo. Phát hiện này cũng giúp làm
sáng tỏ hơn những ghi chép trong thư tịch cổ của
Trung Quốc về nhiều chuyến đi sứ của Vương quốc
Hình 18: Quân cờ vua bằng đất nung thứ nhất
eo lịch sử của cờ vua thì phần lớn các nhà nghiên
cứu đều cho rằng tiền thân của cờ vua có nguồn gốc
chơi này được gọi là “Saturanga” tức là trò chơi chiến
trận đối kháng có hai bên tham gia. Các quân tượng
trưng cho một thế trận gồm đầy đủ chỉ huy và bốn
binh chủng quân đội thời bấy giờ. Phía trước là một
hàng quân tiến bước, tiếp đến là các chàng kỵ mã và
các đội voi chiến (Ấn Độ có rất nhiều voi). Mé ngoài
cùng là những chiếc xe di động. Nằm giữa hàng quân
là đức Vua cùng với các cận thần.
.
Cùng với những phát hiện của các nhà nghiên cứu
người Pháp về các văn bia khắc chữ Brahmi/Sanskrit
cổ, hệ thống tượng thần, vật thờ và các kiến trúc tôn
giáo ảnh hưởng bởi văn hóa Ấn Độ,… những phát
hiện gần đây về đồ gốm, đồ đất nung kiểu Ấn Độ được
1016
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(2):1008-1018
sản xuất tại Óc Eo và những vật phẩm được mang trực
tiếp từ Ấn Độ đến Gò áp đã cho thấy Óc Eo là một
nền văn hóa lớn, hội tụ nhiều yếu tố văn hóa nước
ngoài.
9. Sohu. 2019;Available from:
10. Mạnh NQ. Các di tích tiền Óc Eo ở vùng Tứ Giác Long Xuyên
trong quá trình hình thành văn hóa Óc Eo ở miền tây Nam Bộ.
Luận án Tiến sĩ. Hà Nội. 2009;.
11. Trí BM. Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo và một vài
nhận thức mới về văn hóa Óc Eo tiếp cận từ nghiên cứu so
sánh. Tạp chí Khảo cổ học (số 2/2020). Hà Nội: nxb Khoa học
Xã Hội. 2020;.
12. Trọng ĐQ. Khu lò gốm cổ Tam Thọ xã Đông Vinh, huyện Đông
Sơn tỉnh Thanh Hoá. Thanh Hoá Di tích và Thắng cảnh (tập 2).
Thanh Hóa: Nhà xuất bản Thanh Hóa. 2002;.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AD: Anno Domini (Công nguyên)
ĐHQG-HCM: Đại học Quốc gia ành phố Hồ Chí
Minh
KCH: Khảo cổ học.
KHXH: Khoa học Xã hội.
KHXH&NV: Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Nxb: Nhà xuất bản.
13. Thắng ĐV, Như VTH., Sương HT. Báo cáo Thăm dò tổng thể
khu di tích Gò Tháp và khai quật phần còn lại di tích Gò Tháp
Mười. Đồng Tháp: Tài liệu BQLKDT Gò Tháp. 2016;.
14. Met Museum. Chicken-Headed Ewer 4th-5th cen-
tury;Available from:
15. Art Museum. Chicken-headed ewer. 2004;Available from:
TUYÊN BỐ XUNG ĐỘT LỢI ÍCH
Bản thảo này không có xung đột lợi ích.
TUYÊN BỐ ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ
Với nguồn tài liệu khá đầy đủ đã được sưu tầm từ
nhiều nguồn, đặc biệt là những tư liệu khảo cổ đã phát
hiện trong những cuộc khai quật có sự tham gia trực
tiếp của tác giả, bằng phương pháp hệ thống hóa tác
giả đã đưa ra những minh chứng cho thấy Gò áp
là một đô thị lớn và quan trọng của vương quốc Phù
Nam.
18. Artsmia. Collections;Available from:
19. Rajendran A. Symbolism in the water pot above Shiv-
20. Wikimedia. Shiva Lingam in the temple of Lord Shiva Rajbi-
.JPG.
21. Tấn HV. Khảo cổ học Việt Nam tập II: Thời đại Kim khí. Hà Nội:
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. 1999;.
22. Liên LT. Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở ĐBSCL trước thế
kỷ X. Hà Nội: Nxb Thế giới. 2006;.
23. Thắng ĐV. Báo cáo khai quật chân Gò Minh Sư Gò Tháp - Đồng
Tháp năm 2013. Đồng Tháp: Tài liệu BQLKDT Gò Tháp. 2013;.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. MALLERET L. La status de Ganesa de Rochefort-sur-mer. Arts
Asiatiques. 1956;3(3):211–224.
2. Coedès G. Deux inscriptions Sanskrites de Fou-nan, BEFEO.
3. Coedès G. Études Cambodgiennes : 32. La plus ancienne in-
scription en pāli du Cambodge, BEFEO. 1936;36:1–21. Avail-
5. Coedès G. Inscriptions du Cambodge (vol. II), Paris: Editions
de Boccard. 1942;.
6. Coedès G. Inscriptions du Cambodge (vol. V), Paris: Editions
de Boccard. 1937;.
7. Coedès G. Inscriptions du Cambodge VIII. Paris, Editions de
Boccard. 1966;.
8. Côn ĐL, Diệm LX. Báo cáo đề tài khoa học cấp Bộ Giá trị văn
hóa Óc Eo ở miền Tây Nam Bộ. Thành phố Hồ Chí Minh. 2010;.
24. Gottlieb R.
The Ancient Games and Toys of Mohenjo
25. Sương HT. Quân cờ vua bằng đất nung phát hiện trong đợt
khai quật di chỉ cư trú chân Gò Minh Sư. Những phát hiện mới
về khảo cổ học năm 2013. Hà Nội: Nxb KHXH. 2014;.
26. Сoбoлeвoй BO. Шaxмaтнoe иcкyccтвo. 2008;Available from:
27. Lê PH. Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện
nước Phù Nam. Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam (Kỷ
yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo
(1944-2004). Hà Nội : Nxb Thế Giới. 2008;p. 229–246.
1017
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(2):1008-1018
Research Article
Open Access Full Text Article
Exotic ceramics in Óc Eo culture through archaeological
documents of Go Thap Relic Site (Dong Thap province, Vietnam)
Ha Thi Suong*
ABSTRACT
Oc Eo culture is the material civilization of Funan – an ancient state in Southeast Asian history, last-
ing from the 1st century to the 7th century A.D. and was centered on the lower Mekong Delta. The
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
results of research on currencies, commodities, bronze statues, and seals, etc. of the kingdom such
as gold coins in the time of Antonius Pius (138-161) and Marcus Aurelius (161-180) from Roma,
bronze mirror dated from the later Han dynasty, bronze Buddha statue from the Northern Wei pe-
riod, seals influenced by the culture of India, etc. show that Oc Eo is a culture with wide relations and
exchanges with East Asia, South Asia to Western Asia and Rome in ancient times. However, there
have not been many studies on exotic ceramics. Based on the new findings from the excavations
at the Go Thap relic site (in Dong Thap, Vietnam) carried out by the University of Social Sciences
and Humanities, Vietnam National University Ho Chi Minh City from 2010 to present, and based on
the results of comparative research, this article presents some relics including Chinese pottery from
the Eastern Han dynasty to the Southern Song dynasty, Indian pottery and pottery influenced by
the culture of India found in Go Thap relic site; thereby, contributing to the demonstration that the
international exchange development of Phu Nam not only took place in the western region of Hau
river having the seaport but also developed in Oc Eo culture inland – the central region of Dong
Thap Muoi. Go Thap relic site is an urban area, a cultural religious political economic and foreign
trade center which plays an important role in the development of Oc Eo culture – Funan kingdom.
Key words: Exotic ceramics, Go Thap relic site, Oc Eo culture, Funan Kingdom
University of Social Sciences &
Humanities, VNU-HCM, Vietnam
Correspondence
Ha Thi Suong, University of Social
Sciences & Humanities, VNU-HCM,
Vietnam
Email: hasuong@hcmussh.edu.vn
History
• Received: 9/12/2020
• Accepted: 07/5/2021
• Published: 20/5/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i2.656
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Cite this article : Suong H T. Exotic ceramics in Óc Eo culture through archaeological documents of
Go Thap Relic Site (Dong Thap province, Vietnam) . Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(2):1008-1018.
1018
Bạn đang xem tài liệu "Đồ gốm nước ngoài trong văn hóa Óc Eo qua tư liệu khảo cổ ở Khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp, Việt Nam)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- do_gom_nuoc_ngoai_trong_van_hoa_oc_eo_qua_tu_lieu_khao_co_o.pdf