Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản

TP CHÍ KHOA HC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại hc Khoa hc, ĐH Huế  
Tp 17, S3 (2020)  
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA ĐÀNG TRONG THI CHÚA NGUYN  
VI TRUNG QUC VÀ NHT BN  
HChâu  
Trường Đại hc Khoa hc, Đại hc Huế  
Email: hochausu@gmail.com  
Ngày nhn bài: 31/8/2020; ngày hoàn thành phn bin: 7/9/2020; ngày duyệt đăng: 02/10/2020  
TÓM TT  
Vào thế kXVI XVIII, chúa Nguyn ở Đàng Trong thực hin chính sách mca,  
phát trin ngoại thương, gia nhập vào thị trường khu vc và lung hải thương thế  
gii. By giờ, đông đảo thương nhân nước ngoài từ Đông sang Tây đã đến Đàng  
Trong để thiết lp quan h, buôn bán. Trong quan hệ thương mại giữa Đàng Trong  
với các nước phương Đông, thì quan hệ buôn bán vi Trung Quc và Nht Bn là  
mnh mẽ hơn cả. Đến thế kXVIII, quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với Nht  
Bn bị gián đoạn; còn quan hệ thương mại vi Trung Quốc cũng dần trnên mờ  
nhạt. Và cũng trừ đây, ngoại thương Đàng Trong bước vào giai đoạn suy yếu trong  
quan hbuôn bán với các nước bên ngoài.  
Tkhóa: chúa Nguyn, Đàng Trong, ngoại thương.  
1. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA ĐÀNG TRONG VỚI TRUNG QUC TNA  
SAU THKỶ XVI ĐẾN GIA THKXVIII  
Quan hệ thương mại gia Vit Nam và Trung Quc có từ lâu đời và từ đầu  
thế kXVII trở đi có chiều hướng phát trin mnh mẽ hơn bi tác động ca bi cnh  
quc tế, khu vc và trong nước. By gi, nn thương mại thế giới đang din ra sôi  
động, cùng với đó là tình hình ni bTrung Quc cũng có nhng biến động ln vào  
cui thi nhà Minh, đầu thi nhà Thanh. Khi nhà Minh bnhà Thanh lật đổ, nhiu  
người Hoa vì lòng trung thành vi nhà Minh mà không chu thn phục nhà Thanh đã  
ri bỏ quê hương để ra đi. Trong số h, nhiều người đã giong bum di cư xuôi vvùng  
bin phía nam, đến Đàng Trong để cư ngụ và làm nhiu ngành nghề khác nhau để sinh  
sống, nhưng phần đông trong số đó họ làm các công vic liên quan đến buôn bán, mi  
lái. Để dbqun lý, chúa Nguyn bt buc những người Hoa di cư sang lãnh thổ  
Đàng Trong phi sng tp trung nhng khu vc/vùng đất nhất định, thường được  
lp thành các xã. Ví như, năm Mậu Dn (1698), khi mở đất Gia Định, chúa Nguyn  
Phúc Chu sai “lấy người Thanh đến buôn bán Trn Biên lp làm xã Thanh Hà, Phiên  
67  
Quan hệ thương mại gia Đàng Trong thi Chúa Nguyn vi Trung Quc và Nht Bn  
Trn, lập làm xã Minh Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân h[của ta]” [7;  
tr.111].  
Vào thế kXVI XVII, cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều có quan hbuôn  
bán với thương nhân Trung Quốc. Nếu như ở Đàng Ngoài, quan hệ buôn bán vi  
người Trung Quốc được tiến hành bng cả đường bđường thy (bin); thì ở Đàng  
Trong quan hbuôn bán vi Trung Quốc dường như chỉ thông qua đường thy (bin).  
Các thương thuyền ca khách buôn Trung Quc sang buôn bán với Đàng Trong chủ  
yếu xut phát từ Thượng Hi, Qung Châu, Chiết Giang, Phúc Kiến,… Theo lời ca  
mt khách buôn hTrần người Trung Quc sng thế kXVIII, thì thương thuyền  
xut phát tQuảng Châu, dò đường mà đi, nếu được gió thun thì chỉ 3 ngày 3 đêm  
thì đến phThanh Hà Phú Xuân; vào cửa Đại Chiêm, đến phHi An Qung Nam  
cũng như thế [4; tr.256]. Thương nhân Trung Quốc đến mua bán hu khp các hi  
cng ở Đàng Trong, nhưng tập trung đông nhất là ở đô thị Hi An (Qung Nam) và  
tiếp đến là phThanh Hà (Thun Hóa).  
By gi, thương nhân Trung Quốc thường đến Đàng Trong để giao dch, mua  
bán theo mùa gió. Hằng năm, cứ đến mùa xuân, nhân có gió đông (gió mùa Đông Bắc)  
hchtheo nhiu thứ hàng hóa trên các thương thuyền có trng ti ln giong bum  
xuôi về phương nam, cập bến cng ở Đàng Trong để bán hàng hóa. Sau khi bán xong,  
hli mua các thhàng hóa mình cần, đợi đến mùa hnhân có gió Nam (gió mùa Tây  
Nam) thì cht chúng lên thuyn ri nhneo. Nếu thuyền nào đậu quá mùa thu, sang  
mùa đông thì gọi là lưu đông, hay còn gọi là áp đông [3; tr.25]. Cả khi đến và khi đi,  
các chthuyền đều phi np thuế theo thbậc; đồng thời, khi đến phi np các hng  
thvt, son lbáo tin, ltiến, li son ltrình din. Thuế thuyền đến cp cng nhiu  
hơn thuế thuyền đi, gấp nhau 10 ln; mc thuế cao hay thp là tùy thuc vào thuyn  
xut phát ở địa phương nào của Trung Quc.  
Các mặt hàng mà thương nhân Trung Quốc mang đến Đàng Trong để bán  
phn lớn là đồ thcông knghệ và đồ ăn uống. Đồ thcông knghệ thì có sa, đoạn,  
gm, vóc, vi, giy vàng bạc, hương vòng, kim tuyến, ngân tuyến, y phc, giy tt,  
nhung, đơ-ra, pha lê, kính, qut giy, kim, cúc áo, bút, mc, bàn ghế, đèn lồng, các thứ  
đồ sành, các thứ đồ đồng… Đồ ăn uống thì có các thứ như lá chè, bánh, miến, bt mì,  
trám mui, du thái (bp cải), tương gừng, tương ngọt, đậu ph, mộc nhĩ, nấm hương,  
trng mui; các vthuc bc, các loại trái cây như cam, chanh, hồng, lê, táo… [4; tr.257-  
258]. Các thứ hàng hóa trên khi đem đến Đàng Trong thì bán rất chy, không bị ế  
đọng, thương lái thu được nhiu lãi. Còn các mt hàng hmua từ Đàng Trong để  
mang đi là các thứ sn vt quý hiếm (vàng, knam, yến sào, sng tê, ngà voi, gân  
hươu, đồi mồi…), hàng nông lâm thổ sản (đường phèn, đường trng, cau, htiêu, gỗ  
mun, ghng, gtrắc,…), hàng thủy hi sn (vây cá, tôm khô, rau bin, ốc hương…),  
các loại dược liệu (đậu khu, sa nhân, tho qu, nhc quế, hải sâm…), các thứ khá như  
hot thch, st, phn kẽm…[4; tr.257]. Trong đó, cau và hồ tiêu là hai mặt hàng thương  
68  
TP CHÍ KHOA HC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại hc Khoa hc, ĐH Huế  
Tp 17, S3 (2020)  
nhân Trung Quốc đặc biệt ưa thích, thu mua với trữ lượng ln. Thc tế thì không phi  
tt cnhững hàng hóa mà thương nhân Trung Quốc mua ở Đàng Trong đều được chở  
về nước, mà nhiều thương nhân đã chở sang bán một nước khác để kiếm lãi.  
Đĩa gốm Trung Quc thế kXVII-XVIII  
Ngun: Trung tâm Qun lý Bo tn Di sản Văn hóa Hội An  
Trong quan hệ thương mại với Đàng Trong, thương nhân Trung Quốc được  
chúa Nguyn dành cho nhiều ưu đãi như: Được phép định cư, lấy vợ người Vit; mc  
thuế đối vi tàu thuyn xut nhp cng thấp hơn so với tàu/thuyền buôn phương Tây;  
khi đến các thương cảng, khu ph, các lái buôn người Hoa cũng dễ dàng thuê được  
nhà/kho chứa hàng; được tự do đi li, giao thip, mua bán trc tiếp với người Vit; mt  
số người Hoa còn được chúa Nguyn cho làm vic Tàu ty (cơ quan quản lý tàu  
thuyền nước ngoài xut nhp cng ti ca bin Hi An), làm thông ngôn (thông dch  
viên)…  
Đến gia thế kXVII, số lượng người Hoa đến định cư, buôn bán ở Đàng  
Trong, đặc bit là ở các đô thị/thương cảng rất đông. Thương nhân Trung Quốc hu  
như đã làm chủ thương trường, chi phi hoạt động thương mại ở các đô thị Hi An,  
Thanh Hà, Nước Mn, Cù lao Phố… Và “đã gây ra lo ngại, khiến chính quyn Phú Xuân  
phi tìm các kim chế, bng cách ra chdụ năm 1675 cấm thành lp các nhóm buôn bán trên  
200 thành viên ti cùng một địa phương” [2; tr.23]. Như vậy, thế kXVII, thương nhân  
Trung Quốc đã chiếm givai trò quan trng trong hoạt động thương mại ở Đàng  
Trong, đặc bit là ở thương cảng Hi An.  
Cui thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, thương nhân Nhật Bn và Trung Quc là  
những người làm thương mại chính ở Đàng Trong. Và khi người Nht không còn sang  
giao lưu, buôn bán với Đàng Trong nữa, thì Hoa thương là những người đóng vai trò  
69  
Quan hệ thương mại gia Đàng Trong thi Chúa Nguyn vi Trung Quc và Nht Bn  
quan trng trong hoạt động thương mại nơi đây, được chúa Nguyn cho gicác chc  
vụ ở Tàu ty.  
Đến đầu thế kỷ XVIII, thương nhân Trung Quốc vn tiếp tc giong bum sang  
buôn bán ở các thương cảng, đô thị Đàng Trong như Thanh Hà, Hội An, Nước Mn,  
Cù lao Phố,… Hội An lúc này vẫn là nơi có nguồn hàng hóa di dào nht ở Đàng  
Trong, được vn chuyn tkhắp nơi về; mt khác Hội An còn là thương cảng ln nht,  
có cảng nước sâu, tàu bè ra vào dễ dàng, mà neo đậu cũng an toàn. Vì vậy, thương  
nhân nước ngoài nói chung và thương nhân Trung Quốc nói riêng vẫn đến nơi đây  
trao đổi, mua bán đông nhất, sm ut nht.  
Gia thế kXVIII, ti Hi An có khong 6.000 Hoa kiu, là những thương gia  
buôn bán ln nht [6; tr.91]. Khi đến Hi An, thương nhân Trung Quốc có thddàng  
bán được nhng thhàng hóa mang theo, mt khác còn dễ dàng tìm mua được nhng  
mt hàng theo mong muốn để mang đi. Lê Quý Đôn có hỏi một thương nhân họ Trn  
người Quảng Đông (Trung Quốc) và được người này cho biết: Thuyn tự Sơn Nam về  
thì chỉ mua được mt thcnâu, thuyn tThun Hóa về cũng chỉ có được mt thhtiêu;  
còn tQung Nam về thì các hàng không món gì không có, các nước phiên không kịp được” [4;  
tr.256].  
Đầu thế kXVIII trở đi, các thứ hàng hóa, sn phẩm mà thương nhân Trung  
Quc mua bán ở Đàng Trong cũng không khác mấy so vi hi thế kXVII; vn là mt  
smt hàng khá quen thuc. Các mt hàng họ mang đến bán là “hợp kim toutenague,  
đồng, chè, đồ s, la thêu hoa, các vthuc bắc đủ loi, giấy, tranh sơn, vải vóc…, đôi khi đem  
sang chàng hóa Nht Bản, đồng đỏ và lưỡi kiếm” [6; tr.90]. Còn các mt hàng họ mua để  
mang đi là “vàng, ngà voi, gỗ trầm hương, đường, cau, gỗ để nhum, htiêu, xạ  
hương, cá ướp mui, tyến, vthuc, sừng tê giác, đằng hoàng (gomme-gutte) [6;  
tr.90]. Thương nhân Trung Quốc còn mua nhiu ngựa để dt lên thuyn chvề nước  
bán li, bi ngựa được nuôi rt nhiu ở Đàng Trong và giá bán rẻ [1; tr.44].  
Trong quan hbuôn bán với Đàng Trong, có lúc thương nhân người Trung  
Quốc đã nổi dy làm lon, chống đối chính quyền. Tháng Giêng năm Đinh Mão (1747),  
khách buôn người Phúc Kiến (Trung Quốc) tên là Lý Văn Quang ngụ ở Cù lao Phố  
(Biên Hòa) làm nghề buôn bán, đã ngấm ngm có ý dòm ngó, bèn mưu làm loạn. Lưu  
thNguyễn Cường đã hợp quân với Cai cơ đạo Hưng Phúc là Tống Phước Đại đánh  
dp, bắt được Lý Văn Quang và đồ đảng 57 người. Sau đó, chúa Nguyễn cho đem tống  
giam vào ngc [7; tr.154].  
Nhiu tài liu của người phương Tây đương thời cho biết một điều rằng, ngưi  
Hoa rất khôn kéo, tinh ranh trong lĩnh vực thương mại; và hcó vkhông mấy ưa  
thích thương nhân Trung Quốc. Ghi chép ca Jear Baptiste Tavernier cho biết: “Ngưi  
Trung Hoa nếu có cơ hội lường đảo được là lường đảo ngay, khó mà có thể đối phó vi nhng  
mánh khóe ca họ được. Bản thân tôi đã từng bhla gạt… Ở trên thế gii này không có hng  
70  
TP CHÍ KHOA HC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại hc Khoa hc, ĐH Huế  
Tp 17, S3 (2020)  
lái buôn nào lại tinh ma đến thế”. Mt ghi chép khác ca Pierre Poivre cho biết: “Ngưi  
Đàng Trong không giàu có, cũng không phải là nhng thương gia khôn khéo. Họ đành bằng  
lòng vi nhng hàng hóa mà Hoa kiều mang đến và dbị Hoa thương lừa bp[6; tr.90].  
2. QUAN HGIỮA ĐÀNG TRONG VỚI NHT BN VÀO CUI THKXVI,  
ĐẦU THKXVII  
Vào cui thế kXVI, đầu thế kXVII, trong quan hệ thương mại với Đại Vit,  
thương nhân Nhật Bản đến buôn bán cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, nhưng buôn  
bán với Đàng Trong mạnh mẽ hơn. Qua các thư từ trao đổi gia chính quyền Đàng  
Trong vi chính quyn Nht Bản đã cho thy một điều rng: Chính quyền, thương  
nhân Nht Bn rt mong mun thiết lp quan hbuôn bán với Đàng Trong và ngược  
li chính quyền cũng như cư dân Đàng Trong cũng thiết tha mi gọi thương nhân  
Nht Bản đến giao dch, buôn bán trên lãnh thca mình.  
Quan hbuôn bán giữa Đàng Trong và Nht Bản được xác lp thế kXVI, và  
sang đầu thế kXVII thì càng được tht cht, phát đạt hơn. Cũng trong thời gian này,  
chính quyn Mc phủ Tokugawa đã ban hành chính sách “Ngự chu n trạng”. Theo  
đó, chính quyền Nht Bản quy định: Thương thuyền trong nước muốn ra nước ngoài  
buôn bán phi bt buc phi có mt thgiy tquan trng do chính quyn cấp, đó là  
tShuinjo (Châu n trng - giấy phép có đóng dấu đỏ). Các thuyn buôn Nht Bn nếu  
chưa/không đưc cp thgiấy đó thì chưa/không được phép xuất dương đi đến Đàng  
Trong cũng như các nước khác để giao dch, buôn bán.  
Trong khong thời gian 30 năm (1604 - 1634), thi hoàng kim ca ngành mu  
dch Nht Bn, có đến 354 thuyn buôn được chính quyn cấp Shuinjo để xuất dương  
thì khu vực Đông Nam Á đón nhận đến 331 thuyn, chiếm 93,5%. Trong đó, số thuyn  
đến buôn bán tại Đại Vit (cả Đàng Trong và Đàng Ngoài) là 130 chiếc, riêng Hi An là  
86 chiếc, chiếm 66%. Đó là chưa kể đến sthuyền được cp giy phép và thuyn không  
có giấy phép trước và sau khong thời gian 30 năm đó [5; tr.206-207]. Điều này chng  
trằng, Đàng Trong nói chung và Hội An nói riêng là thị trường, không gian buôn bán  
đã gây được sự chú ý đặc bit của thương nhân Nhật Bn.  
Đến buôn bán ở Đàng Trong, các thương thuyền Nht Bn cp bến đông đảo  
nht là ở thương cảng Hội An. Khi đến, thương nhân Nhật Bn mang theo nhiu thứ  
hàng hóa đbán, bao gm các thứ như: Đồng, nitrat cali, tiền đồng, qut, cho, lò than,  
đồ gm, vi bông, giấy, vũ khí (dù bị cấm đưa ra khỏi Nht Bn), yên ngựa…Và nhng  
thhàng hóa hmua từ Đàng Trong để mang về nước là tơ lụa, đường, cau, ht tiêu,  
kỳ nam, đồ gốm…[8; tr.374].  
71  
Quan hệ thương mại gia Đàng Trong thi Chúa Nguyn vi Trung Quc và Nht Bn  
Đĩa gốm Nht Bn thế kXVII  
Ngun: Trung tâm Qun lý Bo tn Di sản Văn hóa Hội An  
Vào nhng thập niên đầu thế kXVII, quan hệ thương mại giữa Đàng Trong  
vi Nht Bn trở nên sôi động, là hiện tượng chưa từng có trong lch sử giao thương  
của hai nước. Vi nhiu lý do, mục đích khác nhau, trong đó có mục đích nhằm tăng  
cường mi quan hệ giao lưu, buôn bán với nht Bn, chúa Nguyn Phúc Nguyên đã gã  
cháu gái ca mình (con gái ca Nguyn Phúc K) cho một thương nhân Nhật Bn cư  
trú tại Đàng Trong tên là Araki Sotaro, vcông nương này sau đó có tên tiếng Nht là  
Anio (hay Wakaku). Hcó mt người con gái tên là Yasu, sau mt thi gian thì gia  
đình hồi hương về Nagasaki. Ông Araki Sotaro chết năm 1636 và bà Anio chết năm  
1645 [9; tr.65-67].  
Từ năm 1614, ở Nht Bn, Mc phTokugawa đã ban hành một đạo d, lnh  
trc xut tt cả các giáo sĩ, các nhà thờ bphá hy và giáo dân phi tbtôn giáo  
phương Tây – Thiên Chúa giáo. Những người không chu bỏ đạo thì sbị đưa đi đày  
hoặc đem giết. Đến năm 1635, vị tướng quân Iemitsu tăng cường xúc tiến các bin  
pháp nhm cấm đạo, sát đạo đối vi những người theo đạo Thiên Chúa giáo càng  
thêm gt gao. Trong bi cảnh đó, nhiều người Nht vì không mun bỏ đạo đã phi ri  
bỏ quê hương, mt số người đã đến Đàng Trong và xin chúa Nguyễn cho phép được  
định cư nơi đây. Những người ri bxsở “đất nước mt tri mọc” trước đó vì lo sợ  
cũng không dám quay về lại cư trú ở Đàng Trong. Và thế là cộng đồng Nht kiu  
vốn trước đó sinh sng ở Đàng Trong đã đông đúc nay lại càng đông đúc thêm [6;  
tr.33].  
Cũng trong năm 1635, chính quyền Mc phTokugawa ban hành chính sách  
Ta quc, ra lệnh đóng cửa không cho phép thuyền nước ngoài cp bến Nht Bn và  
cm thuyền trong nước xuất dương. Tuy vậy, vn có mt số thương thuyền lén lút đến  
buôn bán ở Đàng Trong; mt số người Nht lo skhi trvề nước sbchính quyn trị  
72  
TP CHÍ KHOA HC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại hc Khoa hc, ĐH Huế  
Tp 17, S3 (2020)  
tội nên đã ở lại định cư, chủ yếu là Hi An. Hin nay, thành phHi An vn còn  
nhng ngôi mcủa thương nhân người Nht chôn ct hi thế kXVII.  
Tgia thế kXVII trở đi, hoạt động giao thương giữa Nht Bản và Đàng  
Trong không còn phát đạt như hồi đầu thế kna, quan hệ buôn bán dường như bị  
gián đoạn hoàn toàn. Tuy nhiên, chính quyền Đàng Trong vn luôn mong mun khôi  
phc quan hệ thương mại giữa hai nước. Việc này đã thể hin trong công thư của Ngô  
Bỉnh Xước gi cho viên quan ở đảo Trường Kỳ (Nagasaki) vào ngày 13 tháng 6 năm  
Chính Hòa thứ 9 (1688); thư có đoạn: “Trộm nghĩ sưởng quốc (nước An Nam) cùng thượng  
quốc (nước Nht Bn) qua lại giao thương, đến nay cũng đã từ lâu. [Trm] hương, ngà voi, da  
cá, đường ngọt…đều là món hàng nước tôi dùng xut khu. Các vt liệu đồng (kim loi) tất đất  
ca quý quc sn sinh, ly cái mình shữu để trao đổi chng lẽ không được ư!” [11].  
Năm 1694, quốc vương Đàng Trong có gi mt bức thư và một cân knam cho  
quan trn thủ đảo Trường Kỳ (Nagasaki) để cám ơn về vic quan chức này đã trao trả  
li 09 người Vit blâm nn trôi dt vào vùng bin Nht Bn trvề Đàng Trong trên  
chiếc thuyn buôn của người Hoa tên là Lý Tài [12]. Đây có lẽ là bức thư cuối cùng  
mang tính cht ngoi giao - thương giữa Đàng Trong với chính quyn Nht Bn.  
Có thnói, vào na sau thế kXVII, quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với  
Nht Bản dường như bị gián đoạn hoàn toàn. Các thư từ ban giao gia hai bên không  
còn, và người ta cũng không còn thấy thương nhân Nhật Bn trên nhng thuyn buôn  
đến cp bến cảng Đàng Trong tấp nập như những thập niên đầu ca thế kXVII thi  
kỳ phát đạt nht trong quan hệ thương mại giữa hai nước.  
Như vậy, có ththy, thế kXVI XVII, chúa Nguyn ở Đàng Trong chủ  
trương thực hin chính sách mca, phát trin mnh vngoại thương. Thương nhân  
nước ngoài từ Đông sang Tây đã tấp nập đến Đàng Trong để mua bán, trao đổi hàng  
hóa. Trong quan hệ thương mại với các nước phương Đông, Đàng Trong đẩy mnh  
vic thiết lp quan hbuôn bán vi Trung Quc và Nht Bn – hai đối tác thương mại  
quan trng. Tuy nhiên, thế kXVIII, quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với Nht  
Bn bgián đoạn; còn quan hệ thương mại vi Trung Quốc cũng dần trnên mnht.  
Và cũng trừ đây, ngoại thương Đàng Trong bước vào giai đoạn suy yếu trong quan hệ  
buôn bán với các nước bên ngoài.  
73  
Quan hệ thương mại gia Đàng Trong thi Chúa Nguyn vi Trung Quc và Nht Bn  
TÀI LIU THAM KHO  
[1]. Nguyn Duy Chính (2016), Xứ Đàng Trong thời chúa Nguyn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.  
[2]. Nguyen Quoc Dinh (1941), Les congrégations chinoises en Indochine francaise, Paris.  
[3]. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, Nxb Giáo dc, Hà Ni  
[4]. Lê Quý Đôn (1964), Phbiên tp lc, Nxb Khoa hc xã hi, Hà Ni.  
[5]. Vũ Minh Giang (1991), “Người Nht, phNht và di tích Nht Bn Hội An”, in trong Đô  
thcHi An, Nxb Khoa hc xã hi, Hà Ni.  
[6]. C. B. Maybon (2011), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế gii, Hà Ni.  
[7]. Quc squán triu Nguyn (2007), Đại Nam thc lc, Nxb Giáo dc, Hà Ni.  
[8]. Nguyn Thanh Nhã (2015), Bc tranh kinh tế Vit Nam thế kXVII XVIII, Nguyn Nghị  
dch, Nxb Tri thc, Hà Ni.  
[9]. Nöel. Péri (1923), Essai sur les relations du Japon et de l'Indochine aux XVIe et XVIIe siècles, In  
Bulletin de l'Ecole française, d'Extrême-Orient, Tome 23.  
[10]. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, Lịch skinh tế - xã hi Vit Nam thế k17 và 18, Nxb Tr, Tp  
HChí Minh,  
[11]. Cận Đằng ThTrng, An Nam Quốc thư, Bức thư thứ 46, bn dch tr.137-139. Tư liệu Đề tài  
Nghiên cu biên son bLch sVit Nam, tp XI, Mã sKX LSVN.11/14-18.  
[12]. Cận Đằng ThTrng, An Nam Quốc thư, Bức thư thứ 47, bn dch, tr. 140-142. Tư liệu Đề  
tài Nghiên cu biên son bLch sVit Nam, tp XI, Mã sKX LSVN.11/14-18.  
74  
TP CHÍ KHOA HC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại hc Khoa hc, ĐH Huế  
Tp 17, S3 (2020)  
TRADE RELATIONS BETWEEN DANG TRONG (INNER REGION) WITH CHINA  
AND JAPAN DURING THE NGUYEN DYNASTY  
Ho Chau  
University of Sciences, Hue University  
Email: hochausu@gmail.com  
ABSTRACT  
th  
th  
During the 16 and 18 centuries, the Nguyen Dynasty in Dang Trong (Inner  
Region) implemented an open-door policy, promoting foreign trade, and entering  
the regional market and the world sea trade. During this period, many foreign  
merchants from both Western and Oriental countries came to Dang Trong to  
establish trade relations, among which the reations with China and Japan were the  
strongest. The presence of traders from these two countries exerted a significant  
impact on different aspects of Dang Trong, including the politics, military,  
economy, socio-cultural practices, and urban development.  
Keywords: Dang Trong, foreign trade, the Nguyen Lords.  
HChâu sinh ngày 20/4/1987 ti Tha Thiên Huế. Ông nhn bng Cử  
nhân năm 2011 và bằng Thạc sĩ năm 2013 tại Trường Đại học Sư phạm,  
Đại hc Huế. Hiện ông đang công tác tại Trường Chính trtnh Tha  
Thiên Huế  
Lĩnh vực nghiên cu: Lch sử Đảng Cng sn Việt Nam; Đàng Trong thi  
chúa Nguyn.  
75  
pdf 10 trang yennguyen 21/04/2022 660
Bạn đang xem tài liệu "Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfquan_he_thuong_mai_giua_dang_trong_thoi_chua_nguyen_voi_trun.pdf