Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị

ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP NHẰM GIẢM THIỂU CÁC TÁC ĐỘNG  
TIÊU CỰC DO HOẠT ĐỘNG GIAO THÔNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG  
ĐÔ THỊ  
Nguyễn Phương Ngọc 1  
TÓM TẮT  
Bài báo phân tích các ảnh hưởng tiêu cực do quá trình vận hành hệ thống giao thông vận tải (GTVT) đến  
hoạt động đời sống và sức khỏe của dân cư tại các thành phố (TP) lớn. Cần nhấn mạnh rằng, các tác động của  
việc ô nhiễm không khí (ÔNKK) do hoạt động GTVT gây nên có liên quan khá nhiều đến tỷ lệ mắc các bệnh  
hô hấp của dân cư trong khu vực bị ảnh hưởng. Do đó, cần thiết xây dựng phương án quy hoạch tối ưu nhằm  
loại trừ các trường hợp ÔNKK nguy hiểm tại các tuyến phố đô thị. ực tế cho thấy, việc xây dựng các tuyến  
đường liên tỉnh nằm trong khu vực ngoại thành, quy hoạch các khu vực cấm phương tiện và tuyến phố đi bộ  
đã mang lại hiệu quả tích cực trong việc giảm thiểu mức độ ô nhiễm trong đô thị.  
Từ khóa: ÔNKK, chế độ thông gió (sục khí), giao thông đường bộ, đường đô thị, vận tốc gió, công trình xây  
dựng, quy hoạch đô thị.  
Nhận bài: 2/3/2021; Sưa chha: 1 /3/2021; ;uyut đtng: 22/3/2021.  
1. Đặt vấn đề  
- Các tòa nhà dân cư có các biện pháp cách âm, được  
lắp đặt nằm bao quanh cấu trúc bên ngoài tòa nhà;  
- Các tòa nhà dân cư, mà trong đó có cửa sổ của  
phòng tiện ích nằm về phía hướng nguồn tiếng ồn  
(Phòng tiện ích là phòng được thiết kế để đáp ứng nhu  
cầu gia đình như nhà bếp, nhà vệ sinh, phòng tắm, nhà  
kho…).  
Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ bệnh lý của dân cư  
đô thị sống tại các khu vực tiếp giáp với đường phố  
chính cao hơn so với dân cư sống tại các khu vực khác.  
Điều này càng khẳng định thêm về sự không phù hợp  
trong các chỉ số chất lượng môi trường tại khu vực dân  
cư sinh sống, đó là các yếu tố về ÔNKK và tiếng ồn.  
Vấn đề cấp bách nhất hiện nay là xây dựng các biện  
pháp nhằm cải thiện chất lượng môi trường tại khu vực  
đô thị.  
Nồng độ trung bình của các chất ô nhiễm tại TP.  
Hà Nội và TP. HCM luôn lớn hơn so với khu vực nông  
thôn và ở khu vực trung tâm của TP, hàm lượng của  
chúng cao hơn so với các vùng ngoại ô từ 15-30%. eo  
các số liệu thống kê, mức độ ô nhiễm tại các TP lớn ở  
Hà Nội thường xuyên ở mức xấu, rất xấu, đặc biệt vào  
những ngày sương mù dày đặc và mùa đông [1]. eo  
PGS.TS. Vũ Văn Giáp, Phó Giám đốc Trung tâm Hô  
hấp, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, có sự liên quan giữa  
Các nghiên cứu hiện nay cho thấy, hàng năm có  
hàng triệu dân cư ở nhiều TP lớn mắc các bệnh liên  
quan do tác động tiêu cực của hiện tượng ÔNKK và ô  
nhiễm tiếng ồn từ hoạt động GTVT trong khu vực đô  
thị.  
Các biện pháp nhằm giảm thiểu tiếng ồn ở khu vực  
phức hợp giao thông và đường bộ tại các TP lớn đối  
với dân cư sinh sống gần đường cao tốc, đường sắt bao  
gồm:  
- Gia tăng khoảng cách giữa nguồn phát tiếng ồn và  
đối tượng được bảo vệ;  
- Phân vùng phát triển đô thị hợp lý - tăng số lượng  
tầng của các tòa nhà dân cư, bố trí nhà dân nằm sâu vào  
các khu đô thị;  
- Bố trí không gian xanh ven đường giao thông;  
- Lắp đặt các tấm chắn tường cách âm.  
Vật thể dùng làm chắn tường cách âm có thể sử  
dụng các loại sau:  
- Các yếu tố địa hình nhân tạo và tự nhiên (đất đào,  
đất đắp, đồi…);  
- Các tòa nhà, mà các phòng sử dụng trong đó cho  
phép mức âm thanh lớn hơn 50 dBA;  
1 Khoa Xây dựng, Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng  
22 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021  
TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN  
đối diện H và khoảng cách giữa chúng dọc theo mặt  
quay ra đường B [3]. Các chỉ số kích thước hình học  
này có ảnh hưởng đến nồng độ chất ô nhiễm CO trong  
không khí của khu vực đường phố. Đây là chất độc hại  
nhất chứa trong khí thải, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong  
tổng số lượng khí thải phát ra, được ước tính bằng tỷ số  
tương quan r trong khoảng 0,6-0,7, tương ứng với ảnh  
hưởng của tốc độ gió (r = 0,7 - 0,8) và cường độ giao  
thông (r = 0,85 - 0,9) [9].  
tỷ lệ về tần suất nhập viện của bệnh hô hấp ở trẻ em với  
những đợt ÔNKK cao điểm. Trong những đợt ÔNKK  
này, tần suất nhập viện tăng lên đáng kể [2].  
Ngoài ra, tại TP. Saint Peterburg (Liên bang Nga),  
các nhà nghiên cứu đã khảo sát tỷ lệ mắc bệnh của trẻ  
em sinh sống tại cùng một tuyến phố cho thấy kết quả  
về sự không đồng đều của chỉ số mắc bệnh đối với trẻ  
em sống tại các dãy nhà chẵn và lẻ. Lý do cho sự khác  
biệt này là số trẻ em sống tại các dãy nhà lẻ có vị trí nằm  
theo hướng gió chính của luồng không khí, do đó tỷ lệ  
mắc bệnh của trẻ em tại đây nhỏ hơn so với trẻ em sống  
tại các dãy nhà chẵn [6].  
Công thức tính toán sự phụ thuộc của nồng độ CO  
ban đầu vào tốc độ (vận tốc) gió thu được trên cơ sở  
khảo sát thực địa tại đường phố chính [8] được thể hiện  
qua công thức sau:  
2. Ý nghĩa của việc tạo nên chế độ thông gió trong  
việc giảm thiểu mức độ ÔNKK tại không gian đô thị  
q A.eu  
,
0
(1)  
0
Trong đó: q0 và u0 - nồng độ CO trong không khí và  
vận tốc gió trên mép đường ở độ cao 1,5 m (mg/m3);  
e - logarit; A và α là hệ số đặc trưng cho giá trị nồng độ  
CO cực đại ở trạng thái tĩnh, khi u0 = 0.  
Các nghiên cứu cho thấy, gió được tạo ra do sự hình  
thành các dòng xoáy tuần hoàn trong không gian của  
đường phố, mang theo các chất ô nhiễm từ lòng đường  
đến mặt tiền của các tòa nhà [6]. Hơn nữa, các xoáy  
nhỏ sẽ xuất hiện ở các bức tường chắn gió của dãy nhà  
đón gió [3].  
Sự lưu thông không khí ở trong các khu vực đường  
phố dạng “hẻm núi” dẫn đến sự gia tăng nồng độ khí  
thải ô nhiễm gần các tòa nhà ở phía đón gió, vì dòng  
xoáy lớn nhất mang hầu hết các chất ô nhiễm từ nguồn  
thải và dòng thứ hai giữ chúng ở tầng thấp hơn của tòa  
nhà.  
Giá trị của hệ số α theo cấp số nhân được tính đối  
với từng loại đường giao thông: Đường trong đô thị  
vào mùa hè là 0,453 và 0,430 cho mùa đông. Đối với  
đường quốc lộ và cao tốc, khu vực có lưu lượng xe tải  
và phương tiện công cộng di chuyển tương ứng lần lượt  
là 0,437 và 0,418. Đường cong hồi quy được biểu diễn  
trong Hình 1.  
Việc theo dõi nồng độ ô nhiễm theo chiều cao của  
địa hình cho thấy, khu vực chịu tác động ô nhiễm chính  
của khí thải phương tiện vận tải là tầng 1-3 và ít hơn là  
từ tầng 4, do đó tỷ lệ mắc các bệnh hô hấp ở trẻ em sống  
từ tầng 4 trở xuống cao hơn các tầng khác.  
Để giảm thiểu tác động tiêu cực đến sức khỏe của  
cộng đồng dân cư sống gần tuyến đường phố trong đô  
thị, cần áp dụng các phương pháp tiếp cận tổng hợp để  
đánh giá chất lượng môi trường sống, có tính đến các  
yếu tố ảnh hưởng chính đến môi trường xung quanh.  
Đồng thời, quan trọng cần phải xác định các nguồn lực  
có sẵn nhằm giảm tác động tiêu cực của hoạt động giao  
thông đường bộ đến môi trường sống bằng các biện  
pháp kỹ thuật trong việc quy hoạch đô thị.  
ực tế cho thấy, trong quá trình lập đồ án quy  
hoạch khu dân cư có tính đến các yếu tố an toàn môi  
trường, trước hết cần đưa ra đánh giá các tác động  
môi trường và dự kiến mức độ ÔNKK [7]. Trong việc  
đánh giá tổng thể này tồn tại mối quan hệ chức năng  
giữa các yếu tố, là chất lượng thông gió của không  
gian đường phố phải đảm bảo từ quan điểm cảm nhận  
nhiệt của con người và việc tuân thủ yếu tố mức độ  
ÔNKK không vượt quá nồng độ giới hạn.  
Hình 1. Biểu đồ thể hiên sự phụ thuộc của nồng độ ban đầu  
của CO trong không khí vào vận tốc gió trên đường giao thông:  
1,4 - đường trong thành phố; 2 - đường quốc lộ, chủ yếu xe tải  
chạy; 3 - đường quốc lộ chủ yếu là xe con và phương tiên công  
cộng. A - mùa hè; B - mùa đông [8].  
Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, nồng độ ban đầu  
khí nito dioxit (NO ) cũng giảm đáng kể khi vận tốc gió  
Nghiên cứu chỉ ra, chỉ số quan trọng nhất đặc trưng nằm trong khoảng20-2,5 m/s với mật độ phương tiện  
cho sự ảnh hưởng của các tòa nhà đối với sự biến dạng nằm trong khoảng 103 xe/giờ, chất khí oxi hóa cũng  
của gió và sự lưu thông các tạp chất trong khu vực “hẻm thay đổi với tốc độ gió nằm trong phạm vi từ 0-3 m/s  
núi”, là tỷ số giữa chiều cao của các tòa nhà ở các dãy với mật độ phương tiện là 102 xe/giờ. Ngoài ra, còn  
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 23  
quan sát thấy nồng độ nhất định của khí hydrocacbon (CO, NO , C Hm) có thể đạt giá trị 40-70% trên tổng  
chiều dài2cácnđường phố chính [10] trong phạm vi tốc  
trong hàm lượng các khí thải này [6].  
độ gió 3-4 m/s; tương ứng với điều kiện thời tiết thoải  
mái và dễ chịu để con người hoạt động ngoài trời.  
Điều này cho phép khằng định rằng, trong quá  
trình hòa trộn vào không khí, các chất khí thải riêng lẻ  
đã mất đi động năng của chúng, do quá trình khuyếch  
tán khiến cho việc cân bằng mật độ và khối lượng riêng  
giữa hỗn hợp khí thải và không khí diễn ra nhanh  
chóng.  
Điều này càng được thể hiện rõ ở Hình 2, ta thấy  
các đường cong về sự sụt giảm nồng độ CO và nito oxit  
(NO+NO ) trong điều kiện mô hình hóa sự phát tán  
khí thải tr2ong một khu vực mở.  
Việc nghiên cứu các mục tiêu quy hoạch và công  
tác phát triển đô thị đóng góp vai trò quan trọng trong  
việc phát triển đô thị bền vững. Hịên nay, các dự án quy  
hoạch ít quan tâm đến tiêu chuẩn vệ sinh môi trường  
không khí. Vì vậy, để xây dựng được một phương án  
thiết kế tối ưu, phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường  
cần thiết phải đảm bảo phương trình cơ bản sau [10]:  
C
j
C
A.e.u (2)  
max j  
Trong đó:  
Cmaxj - nồng độ tối đa cho phép thành phần riêng lẻ  
của khí thải;  
UCj - vận tốc gió (m/s), cung cấp sự pha loãng của  
các thành phần trong không khí đến nồng độ cho phép  
trên 1 đoạn đường.  
Kết quả chia (1) cho (2) và logarit, ta thu được  
phương trình sau:  
qj  
1
(3)  
uC u ln  
0
j
C
max j  
Trong đó:  
Hình 2. Sự phụ thuộc nồng độ ban đầu khí thải CO (1) và  
NO+NO (2) trong không khí vào vận tốc gió trong điều kiên  
mô phỏn2g [6]  
u - vận tốc gió trên đường phố theo phương án  
thiết0kế quy hoạch sẽ được điều chỉnh (m/s);  
qj  
- dung trọng của thành phần trong không  
C
Để nghiên cứu, người ta sử dụng một đường ống  
thiết kế đặc biệt, được kết nối với ống xả của động cơ  
ô tô. Ống thải được mô phỏng cùng hướng theo luồng  
giao thông trên đường, các khí thải được thoát ra liên  
tục và theo chiều ngang từ những lỗ nhỏ nằm dọc bên  
sườn của ống thải. Việc này đã loại bỏ được sự ảnh  
hưởng của vận tốc ban đầu và hướng phát thải theo  
vecto vận tốc của dòng khí tại điểm xác định nồng độ  
ban đầu của chất được nghiên cứu.  
maxj  
khí (tính theo 1 đơn vị Cmax) với các thông số về lưu  
lượng giao thông trên đường phố.  
Vế trái của phương trình (3) phản ánh sự thiếu hụt  
khí hoặc vận tốc gió ∆u = (u - u), cần thiết để đưa  
dung trọng của các thành phầCnj trong không khí xung  
quanh đạt tiêu chuẩn vệ sinh bằng cách thay đổi các  
quyết định quy hoạch.  
Nghiên cứu của Balakin V.V. đã chỉ ra sự phụ thuộc  
về thông số H/B và chu vi mật độ xây dựng có ảnh  
hưởng đến nồng độ khí thải và vận tốc gió với hướng  
chính của nó đối với trục đường phố [9], có thể khẳng  
định rằng, việc đảm bảo nồng độ ô nhiễm ở mức cho  
phép trên các tuyến phố chính trong công tác dự báo có  
thể xây dựng dựa trên các biện pháp kỹ thuật để duy trì  
chế độ thông khí (sục khí) tối ưu của không gian đường  
phố. Phương thức thông gió này được xây dựng dựa  
trên việc bố trí và lựa chọn vị trí của tuyến đường theo  
hướng gió tự nhiên chính, số tầng của tòa nhà và các kỹ  
thuật trong công tác quy hoạch khu dân cư.  
Do đó, có thể coi mô hình thể hiện sự phụ thuộc  
giữa nồng độ ô nhiễm khí thải CO vào mức độ thông  
gió (tốc độ gió) đại diện cho toàn bộ hỗn hợp khí thải  
do các luồng giao thông thải ra.  
Từ đồ thị ở Hình 1 cho thấy, với tốc độ gió lớn hơn  
3 m/s, mức độ ÔNKK trên các khu vực được quan sát  
giảm đáng kể (3-5 lần) và đạt đến mức tối thiểu. Điều  
này phù hợp với các kết quả thu được khi khảo sát ở  
các giao lộ, nơi ghi nhận nồng độ các chất ô nhiễm vượt  
quá 2-3 lần nồng độ ô nhiễm cho phép, với tốc độ gió  
trên 3 m/s nồng độ ô nhiễm giảm xuống đáng kể. Nói  
cách khác, khi chế độ thông gió có vận tốc trên 3 m/s  
sẽ làm giảm mức độ ÔNKK và cân bằng mật độ, khối  
lượng riêng giữa hỗn hợp khí thải và không khí.  
Tại từng khu vực có đặc điểm địa lý riêng, trong quá  
trình phát triển các khu dân cư, hệ thống đường giao  
thông, cần tính toán đến yếu tố thông khí để đảm bảo  
giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực do việc ÔNKK  
ực tế quan sát tại một số TP lớn ở Liên bang Nga  
cho thấy, nồng độ ô nhiễm cho phép của các khí thải do khí thải của các phương tiện giao thông cơ giới.  
24 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021  
TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN  
Ở những khu vực địa lý, nơi có gió mạnh chiếm ưu pháp tái thiết và lập kế hoạch triệt để theo hướng mới  
thế, dẫn dến hiện tượng mất nhiệt cơ thể của dân cư như việc đưa xe tải, container ra khỏi khu vực khu dân  
sống tại đó và ảnh hưởng đến sức khỏe của họ, thì việc  
bảo vệ khu dân cư khỏi các ảnh hưởng của gió lạnh là  
cần thiết. Ở đây bao gồm các phương tiện quy hoạch  
chắn gió, có tính đến đặc điểm của địa hình, số tầng  
của các tòa nhà, phương pháp quy hoạch, trồng cây…  
cư, mở rộng khu phố, mở rộng phố đi bộ…  
Giảm tỷ lệ mắc bệnh tại các khu vực dân cư do tác  
động tiêu cực của phương tiện giao thông là kết quả của  
việc thực hiện các hoạt động giao thông và quy hoach  
đô thị quy mô lớn. Ví dụ: Chuyển đổi giao thông dừng  
sang mạng lưới đường cao tốc tại khu vực ngoại ô; phát  
triển mạng lưới đường hiện có và bổ sung mới ngoài  
hiện trạng đang có; thiết lập hệ thống góc bến đỗ, trang  
thiết bị cho bãi đỗ; trong khu vực dân cư trung tâm loại  
trừ các vùng giao thông bằng phương tiện và thay vào  
đó bằng hình thức đi bộ.  
Cùng với đó, sự thông gió trên đường chưa đảm  
bảo yếu tố thoải mái - với vận tốc gió nhỏ hơn 5 m/s  
được quan sát thấy trong năm tại các vùng rừng và đồi  
núi vào mùa hè. ậm chí có nơi tốc độ gió thấp hơn  
(dưới 3 m/s), gió tĩnh (0-1 m/s) được ghi nhận tại các  
vùng ẩm ướt. Rõ ràng, trong khu vực khí hậu này, cần  
phải quan tâm đến các yếu tố nhằm phát triển đô thị để  
mang lại cảm giác nhiệt thoải mái và mức độ thông gió  
tự nhiên của đường phố. Có thể giữ gìn và tăng cường  
tốc độ gió ban đầu tại các khu vực này bằng cách tăng  
khoảng cách giữa các tòa nhà. Ở một số TP sử dụng khả  
năng giữ lại vận tốc gió ban đầu bằng cách vận dụng địa  
hình thung lũng, sự lưu thông gió của các khối không  
khí…  
3. Kết luận  
Vấn đề ÔNKK từ khí thải phương tiện cơ giới hiện  
nay được tất cả các TP lớn trên thế giới quan tâm. Hoạt  
động GTVT gây nên vấn đề ÔNKK và tiếng ồn, ảnh  
hưởng không nhỏ đến dân cư sinh sống trong đô thị.  
Tỷ lệ dân cư tại TP lớn mắc các bệnh liên quan đến  
ÔNKK và ô nhiễm tiếng ồn ngày càng gia tăng.  
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, nên loại bỏ khả  
năng xuất hiện một luồng không khí lưu thông tại  
không gian đường phố làm ngăn cản sự trao đổi không  
khí của các hướng gió chính. Do đó, khi xây dựng  
đường phố cần áp dụng phương pháp kỹ thuật với số  
lượng hạn chế các tòa nhà nhiều phần, nhiều góc cạnh,  
tạo nên các hẻm núi. Ví dụ: Dịch chuyển trục của các  
tòa nhà vào một hàng, vị trí của chúng ở một góc hoặc  
thụt vào từ đường vạch xây nhà và thay đổi số lượng  
tầng hoặc cấu trúc thiết kế của tòa nhà [4].  
Trong quá trình lập đồ án quy hoạch khu dân cư  
cần phải đưa ra đánh giá tác động môi trường và dự  
kiến mức độ ÔNKK tại đó. ông qua các biện pháp kỹ  
thuật để duy trì chế độ thông khí (sục khí) tối ưu của  
không gian đường phố để xây dựng các dự báo mức độ  
ô nhiễm có thể đạt được. Phương thức thông gió này  
được xây dựng dựa trên việc bố trí và lựa chọn vị trí của  
tuyến đường theo hướng gió tự nhiên chính, số tầng  
của tòa nhà và các kỹ thuật trong công tác quy hoạch  
khu dân cư.  
ực tế cho thấy rằng, tại các TP lớn có yếu tố quy  
hoạch lịch sử lâu đời thì không bắt kịp với tốc độ cơ giới  
hóa của xã hội. Hiện trạng quy hoạch cũ chịu áp lực  
lớn và nhiều rủi ro bởi các yếu tố tác động môi trường  
gây nên.  
Việc quy hoạch đô thị hiện nay hướng đến xây dựng  
đô thị thông minh, mà trong đó cần tạo ra một môi  
trường an toàn và lành mạnh. Để giải quyết vấn đề này  
cần thiết sử dụng các biện pháp tái thiết và lập kế hoạch  
triệt để theo hướng mới như việc kiểm soát phương  
tiện giao thông trong đô thị, đưa xe tải, container ra  
Để giải quyết vấn đề này cần tạo ra một môi trường  
sống lành mạnh, chủ yếu phát sinh ở trung tâm TP lớn khỏi khu vực khu dân cư, mở rộng khu phố, mở rộng  
trong điều kiện tự động hóa cần thiết sử dụng các biện phố đi bộ  
5. Chan T. L., Dong G., Leung C. W., Cheung C. S., Hung W.  
T., Validation of a two -dimensional pollutant dispersion  
model in an isolated street canyon// Atmospheric  
Environment. - 2002. - Vol. 36, no. 5. - P. 861-872.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
o-ha-noi-20-nam-nghien-cuu  
dang-ngay-cang-gia-tang-376930.  
3. Nguyễn Phương Ngọc (2019), Đề xuất mô hình tính toán  
quá trình phân tán chất ô nhiễm trên không gian đô thị  
đường phố, Tạp chí Môi trường, Chuyên đề Tiếng Viêt  
I/2019, tr. 14.  
6. Балакин В. В., Сидоренко В. Ф. Обеспечение  
гигиенических  
нормативов  
выбросов  
автомобильного транспорта в воздухе жилой  
застройки градостроительными средствами/  
Современное строительство и архитектура.. -  
2016, №1(01). С.7-12.  
4. Nguyễn Phương Ngọc (2020), Đánh giá mức độ ô nhiễm của  
các khí thải độc hại trong khu vực không gian ven đường,  
Tạp chí Môi trường, Chuyên đề Tiếng Viêt II/2020, tr. 35.  
7. Балакин В. В., Сидоренко В. Ф., Сидоренко И. В. и  
др. Градостроительные мероприятия по снижению  
загазованности урбанизированных территорий  
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 25  
выбросами  
автомобильного  
транспорта// 9. Балакин В. В., Сидоренко В. Ф. Трансформация  
Экология урбанизированных территорий. - 2015, №4,  
с.79-85.  
воздушного потока при обтекании жилых зданий  
на городских улицах// Вестник ВолгГАСУ. Сер.  
Строительство и архитектура. 2016.Вып. 44(63).  
Часть 2. С.4-18.  
8. Балакин В.В. Влияние ветрового режима на  
очищение воздуха магистральных улиц от выбросов  
автотранспорта// Гигиена и санитария. - 1980, №6, 10. Балакин В. В. Расчет загрязнения атмосферного  
с.5-8.  
воздуха на застраиваемых участках городских  
дорог// Вестник ВолгГАСУ. Сер. Строительство и  
архитектура. - 2010. - Вып. 18 (37). - С. 138-143.  
PROPOSED METHODS FOR REDUCING THE POSITIVE IMPACT ON  
THE URBAN ENVIRONMENT BY TRANSPORTATION  
Nguyen Phuong Ngoc  
Faculty of Construction, Da Nang Architecture University  
ABSTRACT  
e paper analyzes the negative effects of the transportation system's operation on life activities and health  
of residents in big cities. It should be emphasized that the effects of air pollution caused by transportation  
activities are significantly related to the incidence of respiratory diseases among the population in the affected  
area. erefore, it is necessary to develop optimal planning options to eliminate dangerous air pollution  
cases in urban streets. Construction of intercity roads in suburban areas, planning of no-vehicle zones and  
pedestrian streets have brought about a positive effect in reducing urban pollution levels.  
Key words: Air pollution, ventilation (aeration) regime, road traffic, urban roads, wind speed, construction  
works, urban planning.  
26 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021  
pdf 5 trang yennguyen 21/04/2022 740
Bạn đang xem tài liệu "Đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực do hoạt động giao thông đến môi trường đô thị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfde_xuat_bien_phap_nham_giam_thieu_cac_tac_dong_tieu_cuc_do_h.pdf