Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
CÁC VẤN ĐỀ TRONG VIỆC KHAI THÁC, SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ
NGUỒN TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG TÂY NGUYÊN
Hà Hải Dương, Nguyễn Minh Tiến
Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường
Tóm tắt: Tây Nguyên là vùng nguồn nước rất dồi dào với tổng lượng nước mặt hàng năm là
khoảng 46 tỷ m3 và trữ lượng nước ngầm khoảng 9 tỷ m3, là vùng rất có tiềm năng về nguồn
nước. Xét theo khả năng nguồn nước bình quân nhiều năm trên đầu người, Tây Nguyên được
xem là đủ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhưng tình trạng thiếu nước và căng thẳng về nguồn nước
vẫn thường xảy ra vào mùa khô. Theo dự báo, dân số và nhu cầu nước đến năm 2025, vùng này
sẽ bị thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô và mức căng thẳng sẽ ở phạm vi cao. Rõ ràng, tiềm
năng nguồn nước ở Tây Nguyên không phải là thiếu mà do thiếu các giải pháp phù hợp lưu giữ
nước trong mùa mưa để sử dụng cho mùa khô. Bài báo này trình bày tranh tổng thể về tài
nguyên nước ở Tây Nguyên và các vấn đề còn tồn tại trong việc quản lý và khai thác nguồn tài
nguyên nước, đặc biệt là tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên.
Từ khóa: Nước dưới đất, tài nguyên nước, Tây Nguyên.
Summary: Central Highland - Vietnam possesses huge water resources potential with available
surface water amount of about 46 billion m3 and ground water reserves of nearly 9 billion m3.
According to multi-year average water resources potential per capita, Central Highland is the
area where the international standard water resources per capita is met, however, water shortage
and water stress usually occur in dry season in this region. In 2025, according to the increase of
population and water demand, this region is projected is at high level of water shortage in dry
season. Thus, it is clear that Central Highland region have abundance of water resources but lack
of the measures to storage water in rainny season for using in dry season. This paper presents a
picture of water resources in Central Highland region and the issues for exploitation, utilization
and management of waer resources, especially groundwater in this region.
Keywords: Ground water, water resources, Central Highland - Vietnam.
GIỚI THIỆU*
nước sinh hoạt cho đồng bào thiểu số, cho vùng
núi cao, vùng khan hiếm nước đóng vai trò rất
quan trọng trong đảm bảo đời sống dân sinh –
kinh tế và an ninh xã hội.
Tây Nguyên có vị trí chiến lược rất quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng của cả nước, là giao điểm của hai khu
vực kinh tế trọng điểm gồm: khu vực kinh tế Theo các nghiên cứu đánh giá trước đây, Tây
trọng điểm Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm Nguyên có tổng lượng mưa trung bình năm
Trung Bộ, được Nhà nước rất quan tâm và đầu lớn nhưng lại phân bố không đồng đều. Lượng
tư trong những năm gần đây. Cùng với sự tăng nước mùa mưa chiếm 85 - 90% tổng lượng
trưởng mạnh mẽ về dân số và kinh tế, nhu cầu mưa năm, riêng 6 tháng mùa khô chỉ chiếm 10
sử dụng nước cũng tăng cao. Do đó, đảm bảo - 15%. Nhu cầu sử dụng nước ở Tây Nguyên
vấn đề cấp nước nói chung và cấp nước sinh hiện chỉ chiếm khoảng 8% so với tiềm năng
hoạt nói riêng là rất cần thiết. Đặc biệt, việc cấp nguồn nước có được. Theo chỉ tiêu của Ngân
hàng Thế giới, Tây Nguyên nằm ngoài vùng
căng thẳng về nước, tuy nhiên vào mùa khô
Ngày nhận bài: 25/4/2019
hàng năm Tây Nguyên vẫn thường xuyên bị
Ngày thông qua phản biện: 10/5/2019
thiếu nước nghiêm trọng do hạn hán kéo dài.
Ngày duyệt đăng: 12/6/2019
1
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
Rõ ràng, tiềm năng nguồn nước ở Tây Nguyên VÙNG TÂY NGUYÊN
không phải là thiếu mà do thiếu các giải pháp
phù hợp lưu giữ nước trong mùa mưa để sử
1.1. Tài nguyên nước mưa
Theo tính toán, lượng mưa hàng năm trung
dụng cho mùa khô. Bức tranh tổng thể về tài
nguyên nước ở Tây Nguyên dưới tác động
hoạt động kinh tế của con người cần phải được
làm sáng tỏ nhằm đề ra các giải pháp khai thác
sử dụng hợp lý, lâu dài nguồn nước, đồng thời
bảo vệ nguồn nước khỏi bị cạn kiệt và ô
nhiễm. Những thành tựu khoa học công nghệ
hiện nay cho phép chúng ta đưa ra các giải
pháp hữu hiệu nhằm khai thác hợp lý và bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên một cách tích cực.
bình khu vực Tây Nguyên nhìn chung thuộc
loại cao hơn so với trung bình của cả nước và
có sự khác biệt theo từng vùng. Vùng có lượng
mưa năm lớn nhất Tây Nguyên là vùng phía
Tây Nam Đà Lạt (LVS Đồng Nai) có lượng
mưa từ 2400–2600mm và khu vực quanh
thành phố Pleiku – Gia Lai có lượng mưa từ
2200-2400mm (Hình 1). Lượng mưa năm tuy
lớn nhưng phân bố không đồng đều theo
không gian, đặc biệt là theo thời gian (Hình
2). Cụ thể như sau:
1. TIỀM NĂNG TÀI NGUYÊN NƯỚC
Hình 1: Bản đồ đẳng trị mưa năm khu vực Tây Nguyên
Vùng phía Bắc thuộc LVS Sê San: Lượng mưa tập trung chủ yếu vào 6 tháng mùa mưa, từ tháng
2
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
V - X, lượng mưa mùa mưa là 1671.8 mm (chiếm Lượng mưa trong mùa mưa (V - X) trung bình
khoảng 85.95% lượng mưa cả năm). Mùa khô, từ là 1580.1 mm (chiếm khoảng 83.1% lượng
tháng XI-IV, có lượng mưa mùa khô là 286.6 mm mưa năm). Lượng mưa trong cả mùa khô, từ
(chiếm 14.7% lượng mưa năm).
tháng XI - IV, chỉ là 392.7mm (chiếm khoảng
20.6% lượng mưa năm).
Vùng giữa Tây Nguyên thuộc LVS Srêpok:
Mùa mưa, từ tháng V- X, có Xmùa mưa = Vùng phía Đông Tây Nguyên thuộc LVS Ba:
1474.9 mm (chiếm khoảng 82.2% lượng mưa Mùa mưa, từ tháng V - XI, có lượng mưa là
cả năm). Lượng mưa mùa khô, từ tháng XI - 1383.6 mm (chiếm 90.9% lượng mưa năm).
IV, là Xmùa khô = 318 mm (chiếm khoảng Mùa khô, từ tháng XII-IV, có lượng mưa trung
17.7% lượng mưa năm).
bình là 137.5mm (chiếm khoảng 9.04% lượng
mưa năm).
Vùng Nam Tây Nguyên thuộc LVS Đồng Nai:
Phân phối lượng mưa năm LVS Sê San
Phân phối lượng mưa năm LVS Srêpok
Phân phối lượng mưa năm LVS Đồng Nai
Phân phối lượng mưa năm LVS Ba
Hình 2: Biểu đồ phân phối lượng mưa năm khu vực Tây Nguyên
(Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015)
năm, lượng dòng chảy năm cũng chia ra thành
1.2. Tài nguyên nước mặt
2 mùa rất rõ rệt là mùa lũ và mùa cạn và cũng
có sự biến đổỉ khác nhau giữa các lưu vực
sông (Hình 3 và Hình 4).
Dòng chảy năm là kết quả của sự tương tác
giữa lượng mưa hàng năm và bề mặt của lưu
vực sông. Chính vì vậy sự biến đổi của dòng
chảy năm phụ thuộc hoàn toàn vào chế độ mưa
và khả năng điều tiết của lưu vực. Tương tự
như sự phân phối và biến đổi của lượng mưa
Vùng Bắc Tây Nguyên thuộc lưu vực sông Sê
San: Vùng này có lượng mưa lớn nhất Tây
Nguyên nên cũng có mô đun dòng chảy năm
3
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
lớn nhất Tây Nguyên. Mtb năm 46.1 l/s/km2. trung bình trong khu vực, Mtbnăm = 34.9
Mùa lũ, từ tháng VII - XI (5 tháng) có tổng l/s/km2. Mùa lũ từ tháng VIII - XII (5
lượng dòng chảy chiếm tới 68.9% tổng lượng tháng) chiếm khoảng 69.3% tổng lượng
dòng chảy năm (Wnăm). Mùa cạn, từ tháng dòng chảy năm. Lượng dòng chảy ba tháng
XII - VI (7 tháng) có tổng lượng dòng chảy liên tục lớn nhất (IX - XI) chiếm tới 46.7%
chiếm 31.1% tổng lượng dòng chảy năm.
tổng lượng dòng chảy năm. Mùa cạn, từ
tháng I - VII (7 tháng) có tổng lượng dòng
chảy trung bình chiếm 30.6% tổng lượng
dòng chảy năm.
Vùng Trung Tây Nguyên thuộc lưu vực sông
Sê Rê Pốk: Vùng này có lượng mưa thuộc loại
trung bình nên dòng chảy cũng thuộc loại
Hình 3: Bản đồ mô-đun dòng chảy năm khu vực Tây Nguyên
4
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
Vùng Nam Tây Nguyên thuộc lưu vực sông năm Mtbnăm = 27.5l/s/km2. Vùng này tuy mùa
Đồng Nai: Vùng này có lượng mưa tương đối mưa cũng bắt đầu từ tháng V như các vùng
lớn (xấp xỉ vùng phía Bắc thuộc lưu vực sông khác, nhưng lượng mưa trong các tháng V,
Sê San) và có tâm mưa khá lớn ở Đắc Nông - VI cũng chưa lớn (vừa xấp xỉ đạt tháng mùa
Bảo Lộc nên lượng dòng chảy năm tương đối mưa), dòng chảy do mưa sinh ra còn khá
lớn, Mtbnăm = 55.0l/s/km2. Mùa lũ từ tháng nhỏ, chưa đạt tháng dòng chảy mùa lũ. Vì
VII - XI (mùa lũ bắt đầu và kết thúc giống như vậy, mùa lũ ở đây muộn và ngắn hơn các
ở vùng Bắc Tây Nguyên và cũng bắt đầu và vùng khác, từ tháng IX – XII. Thời kỳ này, ở
kết thúc sớm hơn 1 tháng so với vùng Trung lưu vực sông Ba cũng chịu ảnh hưởng khá
Tây Nguyên), có tổng lượng dòng chảy chiếm lớn của các đợt mưa lớn do bão, áp thấp
tới 74.3% tổng lượng dòng chảy năm. Mùa cạn nhiệt đới đổ vào khu vực Trung Trung Bộ.
từ tháng XII - VI (7 tháng), nhưng tổng lượng Vì vậy lượng dòng chảy mùa lũ tập trung cao
dòng chảy chỉ chiếm 25.6% tổng lượng dòng hơn các vùng khác, tuy mùa lũ chỉ có 4 tháng
chảy năm. Ba tháng liên tục có dòng chảy nhỏ nhưng lượng dòng chảy mùa lũ đã chiếm tới
nhất (tháng I - III) chỉ chiếm 6.65% tổng lượng 64.4% tổng lượng dòng chảy năm. Lượng
dòng chảy năm.
dòng chảy ba tháng liên tục lớn nhất (X -
XII) chiếm tới 49.5% tổng lượng dòng chảy
năm. Mùa cạn rất dài từ tháng I - VIII (8
tháng), nhưng tổng lượng dòng chảy chỉ
chiếm 35.53% tổng lượng dòng chảy năm.
Ba tháng liên tục có dòng chảy nhỏ nhất
(tháng II - IV) chiếm khoảng 6.65 % tổng
lượng dòng chảy năm.
Vùng phía Đông thuộc lưu vực sông Ba nằm
kẹp giữa Đông và Tây Trường Sơn: Vùng
này có nhiều đặc điểm khác biệt so với các
vùng khác ở Tây Nguyên. Do ảnh hưởng của
địa hình làm giảm lượng mưa nên lượng
dòng chảy năm tương đối nhỏ và nhỏ nhất
Tây Nguyên, mô đun dòng chảy trung bình
Hình 4: Biểu đồ phân phối mô-đun dòng chảy mặt năm các LVS vùng Tây Nguyên
Theo tính toán, tổng lượng dòng chảy năm của kiệt đạt gần 14 tỷ m3 và mùa mưa đạt hơn 32
Tây Nguyên đạt 46.44 tỷ m3 một năm, mùa tỷ m3, cụ thể trong bảng sau:
5
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
Bảng 1: Tổng lượng và phân bổ dòng chảy năm tại Tây Nguyên
Tổng lượng dòng chảy (tỷ m3)
Diện tích
(km2)
11620
18480
10983
10970
Mtb
(l/s.km2)
31.70
22.61
42.81
STT
Lưu vực
Cả năm
11.62
13.18
14.83
6.82
Mùa lũ
7.92
%
Mùa kiệt
3.69
%
1
2
3
4
Sê San
Srêpok
Đồng Nai
Ba
68.2
69.3
74.3
64.5
31.8
30.7
25.7
35.5
9.13
4.05
11.02
4.40
3.81
2.42
19.70
Tổng
46.44
32.47
13.97
1.3. Tài nguyên nước ngầm
vậy nếu không có nguồn bổ sung thì lượng
nước tích chứa trong các tầng chứa nước chỉ 12
năm sau là hết. Rất may là lượng thất thoát này
được bổ cập một cách tức thời bằng nước mưa
vào mùa mưa. Nhưng do lượng bổ cập từ nước
mưa không ngang bằng với lượng dòng ngầm
chảy ra sông và lượng nước lấy đi, nên hàng
năm mạng quan trắc động thái mực nước vẫn
ghi nhận thấy mực nước ngầm giảm liên tục
vào mùa không có bổ cập.
Về mặt trữ lượng, do đối tượng nghiên cứu
lãnh thổ Tây Nguyên rộng lớn, nên để có cái
nhìn khái quát toàn cảnh về trữ lượng nước
dưới đất toàn vùng Tây Nguyên, ở đây chúng
tôi sử dụng khái niệm tiềm năng trữ lượng
khai thác nước dưới đất. Tiềm năng trữ lượng
khai thác nước dưới đất được hiểu là khả năng
khai thác tối đa từ một tầng chứa nước hay
một cấu trúc ĐCTV với thời gian khai thác
tính toán lâu dài xác định. Tiềm năng trữ Nghiên cứu sự hình thành trữ lượng nước dưới
lượng khai thác có thể được hình thành từ một đất ở Tây Nguyên, cho đến nay, mới chỉ xác định
hay nhiều nguồn khác nhau. Các nguồn hình được hai nguồn trữ lượng chính là nguồn trữ
thành tiềm năng trữ lượng khai thác nước dưới lượng tĩnh tự nhiên và trữ lượng động tự nhiên.
đất có thể là trữ lượng động tự nhiên, trữ
Nguồn trữ lượng tĩnh tự nhiên ở đây được hình
lượng động nhân tạo, một phần trữ lượng tĩnh
thành chủ yếu trong các đới nứt nẻ, hổng hốc
tự nhiên, tĩnh nhân tạo và trữ lượng cuốn theo
của thành tạo bazan, các thành tạo lục nguyên
được hình thành khi khai thác nước.
và các đá xâm nhập. Đới nứt nẻ và hổng hốc
Ở Tây nguyên, nước dưới đất chủ yếu tồn tại của các thành tạo bazan có chiều dày lớn nên
trong các thành tạo bazant với tổng lượng tích chúng có một khối lượng trữ lượng tĩnh đáng
chứa trong tầng chứa nước ước tính 88,2 tỷ m3. kể, còn trong các thành tạo khác, một phần do
Theo thống kê mới nhất hiện nay, toàn bộ 5 tỉnh nghiên cứu chưa đầy đủ, một phần chiều dày
Tây Nguyên hàng ngày bằng mọi hình thức đang đới phong hóa nứt nẻ mỏng, không có khả
lấy đi khoảng 1,5 triệu m3/ngày, và dòng ngầm năng tích chứa, nên cũng ít có giá trị khai thác
thất thoát chảy ra sông hình thành nên dòng chảy sử dụng. Kết quả xác định trữ lượng tĩnh tự
kiệt trong 4 hệ thống sông chính ở Tây Nguyên nhiên một số vùng tự nhiên của Tây Nguyên
vào mùa khô là 18 tr m3/ngày, thì tổng lượng trong các thành tạo địa chất khác nhau được
thất thoát nước dưới đất là 19,5 tr m3/ngày. Như trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2: Trữ lượng tĩnh tự nhiên một số vùng tự nhiên của Tây Nguyên
Lượng nước tĩnh (Vttn)
106 m3
Trữ lượng nước tĩnh (Qttn)
106 m3/năm
Vùng lãnh thổ
Cao nguyên Pleiku
Cao nguyên Kon Hà Nừng
33.000,00
5.443,00
1.222,22
201,59
6
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
Lượng nước tĩnh (Vttn)
106 m3
Trữ lượng nước tĩnh (Qttn)
Vùng lãnh thổ
106 m3/năm
201,59
7,93
Cao nguyên Buôn Ma Thuột
Cao nguyên M'Đrăk
25.000,00
214,00
Cao nguyên Đăk Nông
Cao nguyên Di Linh, Bảo Lộc
Cao nguyên Đức Trọng
Cao nguyên Đà Lạt
3.506,00
10.000,00
1.400,00
277,00
129,85
370,37
51,85
10,26
Đăk Tô
381,00
14,14
Vùng trũng Kon Tum
Vùng trũng An Khê
624,00
200,00
23,11
7,41
Vùng trũng Cheo Reo - Phú Túc
Vùng trũng Krông Păk - Lăk
Đồng bằng bắc mòn Ea Súp
Toàn Tây Nguyên
1.980,00
202,40
5.997,60
88.225,83
73, 34
7,49
222,13
3.267,62
(Nguồn: Đoàn Văn Cánh, 2010)
Trữ lượng động tự nhiên của nước dưới đất là lượng động tự nhiên của nước dưới đất được
lưu lượng dòng chảy tự nhiên, nó thể hiện sự xác định bằng phương pháp thuỷ văn. Để xác
cung cấp, sự thoát nước trong điều kiện tự định lượng dòng ngầm, những số đo trực tiếp
nhiên của nước dưới đất. Trữ lượng động tự và những tính toán dòng chảy mùa kiệt, chúng
nhiên có thể được xác định bằng nhiều phương đặc trưng cho dòng ngầm ở Tây Nguyên, được
pháp, nhưng đối với một vùng rộng lớn như sử dụng để tính toán. Trữ lượng động tự nhiên
Tây Nguyên, với tập hợp số liệu có được, trữ được thể hiện như bảng sau:
Bảng 3: Lưu lượng dòng ngầm Tây Nguyên
Mô đun dòng
ngầm trung bình
(l/s.km2)
4.50
Lưu lượng
dòng ngầm
Q (l/s)
49165.50
56750.13
22567.29
47805.91
176288.83
Diện tích lưu
vực (km2)
STT
Lưu vực
LVS Sê San
1
2
3
4
11620
18480
10970
10983
LVS Srêpok
LVS Ba
4.25
4.75
LVS Đồng Nai
Toàn Tây Nguyên
4.93
Như vậy, tiềm năng nguồn nước dưới đất ở lượng động tự nhiên được xác định trên cơ
Tây Nguyên đặc trưng bởi hai giá trị là trữ sở số liệu quan trắc nhiều năm, còn trữ
lượng động tự nhiên (lưu lượng dòng ngầm) lượng tĩnh tự nhiên trình bày trong Bảng 2
và trữ lượng tĩnh tự nhiên. Hai nguồn này được tính toán trên cơ sở những giả thiết về
hình thành nên tiềm năng trữ lượng khai thác chiều dày và giá trị các thông số chứa. Giá
của nước dưới đất, trong đó trữ lượng tĩnh tự trị lưu lượng dòng ngầm hoàn toàn phản ánh
nhiên (3,27 tỷ m3/năm) chiềm gần một nửa đầy đủ về tiềm năng nước dưới đất ở vùng
trữ lượng động tự nhiên. Tuy nhiên, trữ nghiên cứu.
7
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
Tóm lại, tiềm năng nguồn nước Tây nguyên tổng lượng nước mưa, nước mặt và nước ngầm
được thống kê theo lưu vực đặc trưng bởi: và được trình bày trong Bảng 4.
Bảng 4: Tiềm năng nước ở Tây Nguyên tính trung bình theo lưu vực sông
Diện tích
lưu vực
(km2)
11620
18480
Tổng lượng
nước mưa
(tỷ m3/năm)
22.37
Tổng lượng
dòng mặt
(tỷ m3/năm)
11.62
Tổng lượng
dòng ngầm
(tỷ m3/năm)
2.24
STT
Lưu vực
1
2
3
4
LVS Sê San
LVS Srêpok
LVS Ba
LVS Đồng Nai
Toàn Tây Nguyên
32.64
17.28
21.01
93.29
13.18
14.83
6.82
46.44
2.07
0.82
1.62
6.75
10970
10983
(Nguồn: Đoàn Văn Cánh, 2010)
đích sử dụng, các hình thức khai thác nước
cũng khác nhau. Xét riêng về khai thác nước
phục vụ sinh hoạt, các hình thức khai thác chủ
yếu là: giếng đào, khai thác nước tại điểm lộ,
giếng khoan đơn lẻ và tập trung, số lượng
được thống kê theo Bảng 5.
2. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC VÀ CÁC
VẤN ĐỀ TRONG QUẢN LÝ, KHAI THÁC
TÀI NGUYÊN NƯỚC DƯỚI ĐẤT VÙNG
TÂY NGUYÊN
Tại Tây Nguyên, các hình thức khai thác nước
nước dưới đất rất phong phú, tùy theo mục
Bảng 5: Thống kê số lượng công trình khai thác nước phục vụ sinh hoạt Tây Nguyên
Hình thức khai thác
STT
Tỉnh
Giếng
đào
GK đường
kính nhỏ
GK sâu, đường
kính lớn
Điểm lộ
158
1
2
3
4
5
Kon Tum
Gia Lai
17,000
211
39
54,181
68,204
9,102
1,638
2,571
628
355
303
89
231
256
167
124
936
Đăk Lăk
Đăk Nông
Lâm Đồng
Tổng cộng
1,718
890
63
150,205
5,938
849
Nguồn: Sở Tài Nguyên và Môi trường các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng
Nhìn chung, hiện trạng cấp nước sinh hoạt tập mm) và độ sâu của GK đạt trên 60m cũng khá
trung tại Tây Nguyên cơ bản như sau:
đáng kể, tập trung vào các nhà máy, xí nghiệp
sản xuất kinh doanh, các bệnh viện, các trường
học, đơn vị quân đội với tổng lượng nước khai
thác 8,000m3/ngđ.
Ở tỉnh Kon Tum, tổng công suất các nhà máy
cấp nước đạt khoảng 22,000m3/ngđ, và hiện
khai thác khoảng 9,000m³/ngđ. Trong đó nổi
bật là nhà máy nước KonTum với công suất Ở Gia Lai có 12 khu vực có nhà máy cấp nước
15.000 m3/ngđ và hiện khai thác khoảng phục vụ cấp nước tập trung, trong đó có
7,500m3/ngđ. Ngoài ra, việc khai thác nước TP.Pleiky và 11 thị trấn thuộc các huyện với
dưới đất với lỗ khoan có đường kính lớn (≥110 công suất thiết kế 68,000m3/ngđ, công suất
8
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
đang khai thác 30,500m3/ngđ, với 50,833 hộ và đang khai thác NDĐ ở Lâm Đồng là 1,718
sử dụng nước trong đó có 50.500 hộ nhân dân, giếng. trong đó có 108 giếng cung cấp nước
số còn lại là đơn vị cơ quan và nhà hàng khách cho các cụm dân cư; 1,610 giếng do tư nhân
sạn. Ngoài ra, các cơ quan quốc phòng, các quản lý và khai thác. Theo kết quả khảo sát lập
trường học nội trú, bệnh viện, nông trường xí Bản đồ Quản lý NDĐ ở TX Bảo Lộc, huyện
nghiệp cũng được đầu tư khai thác nước cho miền núi Bảo Lâm và huyện Cát Tiên, số
ăn uống và sinh hoạt bằng công trình khai thác lượng các công trình khai thác nước đơn lẻ
nước ngầm. Trữ lượng nước ngầm đang được tỉnh Lâm Đồng là được thống kê là 890 lỗ
khai thác trên địa bàn tỉnh Gia Lai bằng các khoan với tổng lượng khai thác là
LK đường kính lớn (≥110mm) tính đến hết 18,400m3/ngđ.
năm 2001 là khoảng 12,118m3/ngđ.
Tuy nhiên, việc khai thác tự phát, không theo tư
Hiện nay TP. Buôn Ma Thuột đã có hệ thống vấn, hướng dẫn của các đơn vị, cơ quan chuyên
khai thác nước ngầm khá hoàn chỉnh nhờ môn, đặc biệt việc tự phát xây dựng các lỗ
chính phủ Đan Mạch tài trợ. Với số lượng 33 khoan, giếng đào khai thác nước phục vụ sản
GK trên 5 bãi giếng và hai cụm điểm lộ Ea Cô xuất nông nghiệp đã dẫn đến sự suy giảm mực
Tam và Cư Pul có thể khai thác 49,000m3/ngđ nước ngầm trong mùa khô. Theo số liệu của
(điểm lộ Ea Cô Tam: 15,000m3/ngđ; điểm lộ Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên
Cư
Pul:
10,000m3/ngđ;
Ea
M’sen: nước Quốc Gia, từ tháng 12/2014 đến tháng
10,000m3/ngđ; bãi giếng Thắng Lợi cũ và mới 4/2015 mực nước ngầm liên tục giảm ở hầu hết
với 12 GK: 8,000m3/ngđ; bãi giếng Đạt Lý 14 các lỗ khoan quan trắc Hình 5 và Hình 6).
GK: 6,000m3/ngđ và bãi giếng Hòa Thắng 7
Đối với tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng Bazan
GK: 4,000m3/ngđ). Ngoài ra, gần đây trung
Pleistocen giữa βQII, xu thế hạ thấp chiếm ưu thế
tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường
trong các tháng mùa khô, điển hình tại Ea Nam,
nông thôn đã đầu tư các cụm khai thác nước
Ea H’leo, Đăk Lăk và Ia Dom, Đức Cơ, Gia Lai.
quy mô nhỏ phục vụ cho các thị tứ, thị trấn.
Trong 6 tháng đầu năm 2015, lỗ khoan LK29T
Tại Lâm Đồng, theo số liệu của Bộ TN&MT, (Ea Nam) ghi nhận mực nước hạ thấp 7.05m và
tính đến cuối năm 2011, số lượng giếng đài đã 5.06m đối với lỗ khoan LK166T.
Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015
Hình 5: Dự báo độ sâu mực nước tháng 2 và 3 năm 2015 tầng βQII
9
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015
Hình 6: Dự báo độ sâu mực nước tháng 2 và 3 năm 2015 tầng βN2-QI
Đối với tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng Đức Cơ, tỉnh Gia Lai (LK163T). Tháng
Bazan Pliocen - Pleistocen dưới βN2-QI, xu 2/2015, Giá trị hạ thấp nhất là 4,75m tại
thế hạ thấp cũng chiếm ưu thế, điển hình là TT.Chư Ty, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai
các lỗ khoan quan trắc ở Đức Cơ, Gia Lai và (K165T) và mực nước sâu nhất là 126.33m tại
ở Tp. Bảo lộc, Lâm Đồng. Tháng 1/2015, giá Phường 2, TP.Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng
trị hạ thấp nhất là 13.9m tại xã Ia Din, huyện (C10o).
Mực nước tháng 10/2014
Mực nước tháng 12/2014
10
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
Mực nước tháng 2/2015
Mực nước tháng 3/2015
Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015
Hình 7: Diễn biến mực nước tầng Bazan Pleistocen giữa βQII mùa khô năm 2015 Tây Nguyên
Mực nước tháng 10/2014
Mực nước tháng 12/2014
11
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
Mực nước tháng 2/2015
Mực nước tháng 3/2015
Nguồn: TT Quy hoạch và điều tra TNN Quốc Gia, 2015
Hình 8: Diễn biến mực nước tầng Bazan Pliocen-Pleistocen dưới βN2-QI
mùa khô năm 2015 Tây Nguyên
Theo kết quả điều tra, khảo sát thực địa năm Lai) và nhỏ nhất là 20m3/ngđ (LK CJ21 là lỗ
2016 thuộc đề tài “Nghiên cứu đề xuất các mô khoan cấp nước sinh hoạt cho thôn 2 – Nam
hình, giải pháp công nghệ khai thác và bảo vệ Dong – Cư Jút – Đăk Nông). Lưu lượng khai
nguồn nước trong các thành tạo Bazan phục vụ thác của các lỗ khoan này không giảm nhiều
cấp nước sinh hoạt bền vững tại các vùng núi so với lưu lượng thiết kế.
cao, khan hiếm nước khu vực Tây Nguyên”,
Các lỗ khoan này chủ yếu tập trung ở các khu
trong số 501 lỗ khoan khai thác tập trung cấp
vực thị trấn, thị tứ, hoặc là các lỗ khoan cấp
nước sinh hoạt đã được điều tra chi tiết, toàn
nước cho các trường học, bệnh viện và đơn vị
vùng Tây Nguyên có tổng cộng 206 lỗ khoan
quân đội. Còn nhân dân sống tại các buôn, đặc
có lưu lượng khai thác lớn hơn 180m3/ngđ, 13
biệt là đồng bảo dân tộc thiểu số sông tại vùng
lỗ khoan đã ngừng khai thác do lưu lượng quá
nông thôn vẫn dùng nước chủ yếu tại các điểm
thấp. Các lỗ khoan lớn chủ yếu tập trung ở 2
lộ và giếng đào tự phát. Tại các vùng khan
tỉnh Đăk Lăk và Gia Lai với số lượng lỗ
hiếm nước (theo QĐ264/TT-TTG), nước sinh
khoan tương ứng là 84 và 72. Ít nhất là tại
hoạt cho nhân dân chủ yếu được cung cấp từ
Kon Tum (7 lỗ khoan), Đăk Nông (19 lỗ
các mạch lộ, một số nơi có giếng đào và giếng
khoan) và Lâm Đồng (26 lỗ khoan). Tổng lưu
khoan đơn lẻ đường kính nhỏ nhưng số lượng
lượng khai thác của các lỗ khoan đã điều tra
rất ít và lưu lượng thấp, các giếng khoan sâu
là 115.144m3/ngđ. Lỗ khoan có lưu lượng
khai thác nước tập trung hầu như không có
khai thác lớn nhất là 2074 m3/ngđ (LK PKL9
hoặc có nhưng không đảm bảo lưu lượng cấp
– cấp nước cho bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia
nước tập trung. Bên cạnh đó, việc xây dựng lỗ
12
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
khoan phục vụ nông nghiệp một cách tự phát KẾT LUẬN
CÔNG NGHỆ
khiến mực nước ngầm hạ thấp, nguồn nước
sinh hoạt cho đồng bào rất hạn chế, đặc biệt là
vào mùa khô. Theo kết quả điều tra, tại xã
Iabang, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai, trong
2 năm gần đây, các giếng phải đào sâu thêm
3m/năm thì người dân mới đủ nước ăn trong
mùa khô. Tình trạng cạn kiệt cũng diễn ra
tương tự tại tất cả 36 xã khan hiếm nước ở Tây
Nguyên thời điểm mùa khô năm 2015 và 2016.
Việc quản lý, vận hành các trạm cấp nước sinh
hoạt tập trung cũng gặp nhiều khó khăn do
thiếu nhân lực, kinh phí, hiệu quả khai thác
thấp và tập quán sinh hoạt đặc thù của đồng
bảo dân tộc thiểu số. Đồng bào dân tộc thiểu
số tại nhiều buôn, làng có thói quen sử dụng
nước từ các điểm lộ (giọt nước) và không sẵn
lòng chi trả chi phí điện năng để vận hành các
giếng khoan cấp nước tập trung.
Như vậy, nguồn tài nguyên nước Tây Nguyên
có tiềm năng lớn trong khai thác, với tổng
lượng mưa hơn 93 tỷ m3, tổng lượng dòng mặt
hơn 46 tỷ m3 và lượng nước ngầm hơn 9 tỷ m3.
Tuy nhiên, nguồn tài nguyên nước lại phân bố
không đồng đều theo không gian với mùa khô
kéo dài (6 tháng từ tháng XI đến tháng IV năm
sau). Lượng mưa mùa khô trung bình chỉ
chiếm 15% lượng mưa năm, dòng chảy mùa
khô chỉ chiếm khoảng 30% tổng lượng dòng
chảy mặt.
Nguồn tài nguyên nước ngầm có trữ lượng khá
lớn với trữ lượng tĩnh khoảng 3.2 tỷ m3 và trữ
lượng động khoảng 6.7 tỷ m3/năm. Tuy nhiên,
hiện tượng khai thác nước ngầm tự phát không
theo hướng dẫn, tư vấn để phục vụ tưới cho
nông nghiệp đã làm cho mực nước ngầm hạ
thấp. Các công trình cấp nước tập trung cho
nhân dân ở vùng nông thôn lại thiếu, khả năng
vận hành và duy trì vận hành còn yếu. Kết hợp
với tình trạng hạn hán diễn ra nghiêm trọng
trong 2 năm vừa qua, hiện tượng thiếu nước
sinh hoạt diễn ra tại nhiều vùng ở Tây Nguyên.
Hơn nữa, các công trình cấp nước đảm bảo về
mặt chất lượng nước cấp cũng là một vấn đề
cần phải quan tâm trong tương lai.
Bên cạnh việc thiếu hụt về lượng, chất lượng
nước cũng là vấn đề cần được quan tâm. Mặc
dù kết quả đo nhanh cho thấy chất lượng
nước trong tầng chứa Bazan khá tốt (pH từ
6.0 đến 7.6; TDS từ 0.03 đến 0.93g/l) nhưng
hầu hết các giếng khoan cấp nước tập trung
không có hệ thống xử lý nước. Trong số các
giếng khoan đã điều tra, chỉ có 5 lỗ khoan có
đầu tư công nghệ lọc nước, tại các đơn vị
quân đội, công ty cao su (cấp nước cho cán
bộ công nhân viên) và bệnh viện. Như tại
tỉnh Kon Tum, trong tổng số 17.000 giếng
đào, số giếng đạt vệ sinh ăn uống khoảng
15.000 giếng, chiếm gần 90%, số còn lại
trong tình trạng không có nền giếng, thành
giếng, hoặc có nhưng không đảm bảo cách ly
nước mặt ngấm xuống, một số giếng gần khu
vực vệ sinh, khu chăn nuôi gia súc, gia cầm
nên thường bị ô nhiễm vi sinh.
Lí do của tình trạng thiếu nước vẫn xảy ra
thường xuyên mặc dù nguồn nước có tiềm
năng lớn là hiệu quả của các công trình khai
thác còn kém, các công trình trữ nước, phân
phối nước theo mùa còn thiếu. Ngày nay, với
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều mô
hình công nghệ vừa giúp nâng cao hiệu quả
khai thác nước, vừa bảo vệ nguồn tài nguyên
nước đã được áp dụng và mang lại kết quả rất
tốt. Qua nghiên cứu, các mô hình thu gom
nước mưa, thu gom nước mặt sau đó tích chứa,
bổ cập vào các tầng chứa nước để sử dụng vào
mùa khô đã được áp dụng thành công cả trên
thế giới và Việt Nam. Xây dựng đập ngầm để
thay đổi kết cấu tầng trữ nước cũng là một
biện pháp khả thi. Các công nghệ này hoàn
Do đó, các biện pháp quản lý khai thác, bảo vệ
nước dưới đất và áp dụng các công nghệ khai
thác hợp lý, tiết kiệm để quản lý bền vững tài
nguyên nước ngầm là vấn đề rất cấp thiết cho
Tây Nguyên.
13
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
toàn có thể áp dụng để đảm bảo cấp nước sinh thác và bảo vệ nguồn nước trong các thành tạo
Bazan phục vụ cấp nước sinh hoạt bền vững
tại các vùng núi cao, khan hiếm nước khu vực
Tây Nguyên” mã số ĐTĐL.CN-65/15. Nhóm
tác giả xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới
Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện khoa học
thủy lợi Việt Nam đã tạo điều kiện và hỗ trợ
trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu.
hoạt và khai thác tài nguyên một cách bền
vững trong bối cảnh của Tây Nguyên.
LỜI CẢM ƠN
Nội dung của bài báo là một phần kết quả 3
năm nghiên cứu thuộc đề tài “Nghiên cứu đề
xuất các mô hình, giải pháp công nghệ khai
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] CGWB (Central Ground Water Board), 2007. Manual on Artificial Recharge of Ground Water.
Technical Series-M, No. 3. Ministry of Water Resources, Government of India, pp. 215.
[2] Đoàn Văn Cánh, 2005. Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học và đề xuất các giải pháp bảo
vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên nước vùng Tây Nguyên. Báo cáo tổng kết Đề tài nghiên
cứu trọng điểm cấp Nhà nước KC.08.05 giai đoạn 2000-2005. Trung tâm thông tin KHKT
Quốc gia. Hà Nội, 2005. 260 trang.
[3] Đoàn Văn Cánh, 2010. Nghiên cứu cơ sở khoa học và xây dựng các giải pháp lưu giữ nước
mưa vào lòng đất phục vụ chống hạn và bảo vệ tài nguyên nước dưới đất vùng Tây
Nguyên. Đại học Mỏ - Địa chất. Hà Nội.
[4] Nilson, A., 1988. Groundwater dams for small-scale water supply. IT Publications,
London.
[5] Nguyễn Cao Đơn, 2012. Vai trò và tiềm năng ứng dụng của đập dâng nước ngầm trong
phát triển bền vững tài nguyên nước. Tạp chí khoa học kỹ thuật thủy lợi và môi trường - số
39 (12/2012).
[6] Osuga, K. ,1997. The development of groundwater resources on the Miyakojima Islands.
In: J.I Uilto, and J. Schneider (eds.), Freshwater resources in arid lands, United Nations
University, Tokyo
[7] Trung tâm Cảnh báo và Dự báo tài nguyên nước, 2015. Bản tin dự báo, cảnh báo tài
nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên. Trung tâm Điều tra và Quy hoạch tài nguyên
nước Quốc Gia, Hà Nội
14
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 54 - 2019
Bạn đang xem tài liệu "Các vấn đề trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nước dưới đất vùng Tây Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- cac_van_de_trong_viec_khai_thac_su_dung_va_quan_ly_nguon_tai.pdf