Các đặc tính màng chống thấm sinh học Chitosan kết hợp với Lignin thu hồi từ bã mía

Vietnam J. Agri. Sci. 2021, Vol. 19, No. 7: 932-941  
Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2021, 19(7): 932-941  
CÁC ĐẶC TÍNH MÀNG CHỐNG THẤM SINH HỌC CHITOSAN KẾT HỢP VỚI LIGNIN  
THU HỒI TỪ BÃ MÍA  
Chu Thị Thanh1*, Nguyễn Thị Tuyết2, Nguyễn Ngọc Kiên1,  
Ngô Thị Thương1, Nguyễn Thị Bích Thủy3, Lê Thị Thu Hương1  
1Khoa Môi trường, Học viện Nông nghiệp Việt Nam  
2 Sinh viên K60, Khoa Công nghệ thực phẩm, Học viện Nông nghiệp Việt Nam  
3Trường THPT Quang Hà, Vĩnh Phúc  
*Tác giả liên hệ: chuthithanh.hus@gmail.com  
Ngày nhận bài: 25.11.2019  
Ngày chấp nhận đăng: 23.04.2021  
TÓM TẮT  
Hiện nay nhu cầu toàn xã hội trong sự phát triển các loại màng sinh học dễ phân hủy để thay thế vật liệu nhựa  
tổng hợp ngày càng tăng lên nhanh chóng. Mục tiêu của nghiên cứu này là thu hồi lignin từ bã mía - phụ phẩm của  
ngành sản xuất mía đường bằng phương pháp thủy phân kiềm để tổng hợp ra các loại màng sinh học từ chitosan và  
lignin góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy lignin được tách ra từ bã mía sau 2h thủy  
phân với tỉ lệ NaOH/bã mía (1/10 w/w) và kết tủa bằng dung dịch axit tại pH = 2. Các màng tạo thành được đo các đặc  
tính: độ ẩm, độ dày, lực phá vỡ và khả năng chống thấm nước. Trong đó, màng được tạo thành từ chitosan và lignin  
theo tỉ lệ thể tích (1C:1L v/v), độ dày màng từ 27,19-30,13µm, lực phá vỡ màng 259.000-312.000 N/m2 có khả năng  
chống thấm nước tốt nhất và kháng khuẩn với chủng vi sinh vật Escherichia coli Staphylococcus aureus.  
Từ khóa: Bã mía, chitosan, lignin, màng chống thấm, màng sinh học.  
Properties of Biological Waterproof Films Combination Chitosan  
and Lignin Extracted from Sugarcane Bagasse  
ABSTRACT  
Currently, the global demand for development of biodegradable films to replace synthetic plastic materials has  
been rapidly increased. In this study, we aimed to extract lignin from sugarcane bagasse by-products of the  
sugarcane industry in order to fabricate biological membranes from chitosan and lignin to reduce environmental  
pollution. The results revealed that lignin was successfully extracted from sugarcane bagasse by alkaline hydrolysis  
method in 2h with weight ratio NaOH/ sugarcane bagasse of 1:10 w/w and precipitation at pH = 2 by acidic solution.  
Properties of films were measured: moisture, film thickness, tensile strength and waterproof. The biological  
waterproof films were synthesized from chitosan and lignin with a volume ratio (1C:1L v/v), the film thickness of  
27,19-30,13µm and the tensile strength of 259.000-312.000 N/m2 and antimicrobial activity with Escherichia coli and  
Staphylococcus aureus.  
Keywords: Biological films. chitosan, lignin, sugarcane bagasse, waterproof membranes.  
phẩm. Các loại màng PE, PVC, PET và PE khi  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ  
sản xuất thường được thêm các chất hóa dẻo  
Các loại màng bọc và túi được tạo ra từ quá  
trình polyme hóa etilen và vinyl clorua tạo ra  
các túi nilon PE, PVC sử dụng rất rộng rãi ở  
hầu hết các nước trên thế giới với ưu điểm rất rẻ  
tiền, nhẹ, thuận tiện sử dụng, có khả năng tạo  
hình đa dạng để bao bọc và đóng gói các sản  
DEHA, LDPE, DEHP… thuộc nhóm phthalates  
(PAEs) từ 10% tới 60% khối lượng màng nhằm  
cải tiến khả năng đàn hồi, khả năng kéo giãn và  
dễ tạo hình (Giuliani & cs., 2020). Các chất  
phtalates là những chất cấm sử dụng do tác  
động đến hormone gây rối loạn nội tiết, ảnh  
932  
Chu Thị Thanh, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Ngọc Kiên, Ngô Thị Thương, Nguyễn Thị Bích Thủy, Lê Thị Thu Hương  
Lignin hay còn gọi linhin là một hợp chất  
cao phân tử có cấu trúc vô định hình chiếm  
khoảng 1/3 sinh khối của cây trồng. Đây là một  
loại polyme phức tạp, bao quanh tế bào thực  
vật, tạo độ cứng cho cây trồng. Hàm lượng lignin  
trong gỗ khoảng 20-40% (Novaes & cs., 2010),  
bã mía khoảng 25-32% (Haghdan & cs., 2016),  
rơm rạ khoảng 20% (Vũ Đình Ngọ & cs., 2017)...  
Trong ngành công nghiệp sản xuất giấy và bột  
giấy, quá trình sản xuất khi bột gỗ được xử lí  
kiềm để tách lấy xenlulo còn sinh ra một lượng  
lớn chất thải hữu cơ chứa lignin trong dung dịch  
bị thải bỏ gây ô nhiễm môi trường.  
hưởng đến sức khỏe sinh sản, gây ung thư và  
rất khó phân hủy phải mất từ 200-500 năm mới  
có thể phân hủy một túi nilon trong môi trường  
tự nhiên, do vậy gây ảnh hưởng rất lớn đến môi  
trường và sức khỏe con người. Tại hội thảo khoa  
học Kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng  
túi nilon khó phân hủy năm 2018 tại Quy Nhơn,  
các nhà khoa học dùng cụm từ “ô nhiễm trắng”  
để nói về hiện tượng ô nhiễm do túi nilon gây ra  
thảm họa đối với môi trường. Trên thế giới và cả  
ở Việt Nam, việc hạn chế sử dụng và tiến tới  
thay thế các bao bì, túi nilon bằng các loại vật  
liệu mới an toàn, thân thiện với sức khỏe và môi  
trường đang ngày càng được quan tâm (Rai &  
cs., 2017).  
Bã mía là một trong những loại sợi phong  
phú và có sẵn trong tự nhiên, một phụ phẩm từ  
các nhà máy mía đường sau khi ép mía để sản  
xuất đường. Trong bã mía chủ yếu chứa  
cellulose, hemicellulose và lignin được kết nối  
với nhau tạo thành tế bào vững chắc Trên thế  
giới, lượng bã mía những năm gần đây lên tới  
1,7 × 103 triệu tấn/năm. Bzazil là nước sản xuất  
mía lớn nhất thế giới, lượng bã mía ghi nhận tới  
175 triệu tấn/năm vào năm 2011. Ở nhiều nước  
như Mỹ, Cuba, Ai Cập đã sử dụng bã mía làm  
bột giấy và sản xuất giấy công nghiệp, vật liệu  
ván ép, sản xuất hộp đựng thực phẩm thay thế  
hộp xốp (Motaung & cs., 2017). Việt Nam cũng  
là quốc gia xuất khẩu mía đường lớn thứ 4 trong  
khu vực Đông Nam Á. Lượng bã mía thải ra mỗi  
năm rất lớn nếu không được xử lý sẽ gây ô  
nhiễm môi trường. Do đó, nếu bã mía được tận  
dụng để tạo các sản phẩm như giấy, hộp đựng  
thực phẩm, màng bọc thực phẩm, nhiên liệu  
sinh học… vừa mang lại giá trị kinh tế vừa góp  
phần giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường.  
Trong quá trình sản xuất giấy từ bã mía, các  
nhà máy chỉ quan tâm lấy bột giấy bã mía còn  
phần nước thải chứa một lượng lớn lignin  
thường không được tận dụng mà xả ra môi  
trường gây ô nhiễm môi trường nước.  
Chitosan là một polysaccharide mạch  
thẳng, có nguồn gốc từ các thành phần cấu trúc  
của vỏ các loài giáp xác như tôm, cua… đã được  
nhiều nhóm nghiên cứu làm màng bảo quản  
thực phẩm do có đặc tính kháng khuẩn, kháng  
nấm tự nhiên (Châu Văn Minh & Bùi Văn  
Miên, 1997). Màng bọc thực phẩm được tạo ra  
bằng cách kết hợp chitosan và các chất khác  
nhau như glycerol, gelatin, polysaccharide, tinh  
bột để cải tiến tính chất vật lý và cơ học của  
màng: Màng chitosan kết hợp glycerol (Lê Hồ  
Khánh Hỷ & cs., 2016; Priyadarshi & cs., 2018),  
màng chitosan-gelatin (Lê Thị Minh Thùy,  
2008; Atmaka & cs., 2018). Màng chitosan kết  
hợp tinh bột ngô (Bof & cs., 2016). Sự kết hợp  
giữa lignin và chitosan để tạo màng bao gói thực  
phẩm có khả năng kháng khuẩn Gram âm và  
Gram dương đã được chứng minh trong nghiên  
cứu của Sudheer Rai (Rai & cs., 2017). Các  
màng bọc từ chitosan đã được chứng minh có  
khả năng bảo quản các loại trái cây, bảo quản  
các loại hải sản, cá ngừ, thực phẩm tươi sống,  
trứng và thịt… màng bọc chitosan vừa giúp kéo  
dài thời gian bảo quản mà không cần sử dụng  
các hóa chất, đồng thời giảm tỉ lệ thất thoát  
chất dinh dưỡng so với màng nilon do khi tạo  
thành lớp phủ chặt chẽ (Lê Hồ Khánh Hỷ & cs.,  
2016; Lê Thị Minh Thùy & cs., 2008; Muxika &  
cs., 2017). Màng chitosan có khả năng ngăn cản  
được các phân tử khí xuyên qua, đồng thời do có  
khả năng kháng nấm và kháng khuẩn tự nhiên  
(Muxika & cs., 2017; Trần Thị Luyến & Lê  
Thanh Long, 2007).  
Trên thế giới và Việt Nam, các loại màng  
bọc thực phẩm được tạo ra từ chitosan kết hợp  
với phụ gia như gelatin, glycerol, tinh bột… đã  
được nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên, ở Việt  
Nam chưa có công trình nghiên cứu về khả năng  
tạo màng giữa chitosan và lignin được công bố.  
Do đó, nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu  
thu hồi lignin từ bã mía theo phương pháp thủy  
933  
Các đặc tính màng chống thấm sinh học chitosan kết hợp với lignin thu hồi từ bã mía  
phân kiềm, đồng thời kết hợp giữa lignin với  
chitosan để tạo màng sinh học có khả năng  
chống thấm và kháng khuẩn tốt có thể ứng  
dụng trong đời sống.  
dịch và sấy khô. Cân khối lượng lignin rắn thu  
được sau khi sấy.  
TN2. Khảo sát thời gian thủy phân bã mía  
Chuẩn bị 4 cốc chịu nhiệt có dung tích  
2.000ml, cho vào mỗi cốc 5g NaOH rắn sau đó  
thêm vào các cốc 700ml nước cất và 50g bã mía  
khuấy đều. Đun sôi hỗn hợp bã mía trong cốc  
theo khoảng thời gian khảo sát là 30 phút; 1h;  
2h; 3h. Hút 80ml dung dịch sau thủy phân cho  
vào cốc thủy tinh, thêm từ từ dung dịch H2SO4  
10% đến pH = 2 để tách lignin ra khỏi dung  
dịch. Ly tâm tách phần kết tủa ra khỏi dung  
dịch và sấy khô thu khối lượng ligin rắn.  
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
2.1. Vật liệu  
Toàn bộ thân mía sau khi được cạo lớp vỏ  
mỏng bên ngoài, cho qua máy ép để lấy nước  
bán tại các cửa hàng nước mía ở khu vực Gia  
Lâm, phần bã mía còn lại được thu gom đem về  
phòng thí nghiệm rửa sạch dưới vòi nước, cắt  
thành các đoạn ngắn cỡ 2-3cm, sấy khô ở nhiệt  
độ 70C trong 24h đến độ ẩm 15%. Bã mía khô  
cho vào máy nghiền nhỏ và rây qua rây có kích  
thước lỗ sàng 5mm. Bột bã mía được bảo quản  
trong túi nilon kín.  
TN3. Khảo sát tỉ lệ NaOH/bã mía  
Lấy 3 cốc thủy tinh chịu nhiệt dung tích  
2000ml đánh số thứ tự từ 1 đến 3. Cân lần lượt  
2,5g , 5g và 10g NaOH rắn cho vào từng cốc  
tương ứng, sau đó thêm 700ml nước cất và 50g  
bã mía (tương đương với các tỉ lệ khối lượng  
NaOH/ bã mía 1/20, 1/10 và 1/5 w/w). Tiến hành  
đun sôi hỗn hợp bã mía trong thời gian 2h sau  
đó hút 80ml dung dịch sau thủy phân và thêm  
từ từ dung dịch axit H2SO4 10% đến pH = 2 để  
kết tủa lignin. Ly tâm tách kết tủa và sấy khô  
để thu lignin rắn.  
Hóa chất sử dụng: Bột chitosan được mua từ  
công ty TNHH MTV chitosan VN, NaOH, H2SO4,  
axit axetic (độ tinh khiết phân tích 99,9%).  
Dung dịch chitosan 2% (w/v) được chuẩn bị  
bằng cách hòa tan 2g chitosan trong 100 ml  
dung dịch axit axetic 2%, khuấy đều và để qua  
đêm cho chitosan tan hoàn toàn (Lê Hồ Khánh  
Hỷ & cs., 2016; Rai & cs., 2017).  
2.2.2. Nghiên cứu quá trình tạo màng từ  
chitosan và lignin  
Dung dịch lignin 0,5% (w/v) được chuẩn bị  
bằng cách hòa tan 1g lignin khô trong 200ml  
dung dịch NaOH 0,1M (Ajao & cs., 2018).  
Dung dịch chitosan và lignin được phối trộn  
theo các tỉ lệ khác nhau và được đổ vào khuôn  
nhựa mica có cùng kích thước 26 × 20 × 3cm.  
Sau đó được sấy tại nhiệt độ 40C đến khi màng  
khô và bóc ra khỏi khuôn (Lê Hồ Khánh Hỷ &  
cs., 2016, Rai & cs., 2017).  
2.2. Phương pháp nghiên cứu  
2.2.1. Ảnh hưởng của các điều kiện công  
nghệ đến khối lượng lignin thu được từ bã  
mía (Rai & cs., 2017; Vũ Đình Ngọ & cs.,  
2017; Wunna & cs., 2017)  
TN1. Ảnh hưởng của pH đến khả năng kết  
tủa lignin  
2.3. Phương pháp phân tích  
2.3.1. Xác định độ ẩm màng (Rai & cs., 2017)  
Cho 50g bã mía cho vào cốc thủy tinh chịu  
nhiệt dung tích 2.000ml có chứa 700ml dung  
dịch NaOH (tỉ lệ NaOH/bã mía 1/10 w/w), đun  
sôi hỗn hợp trong thời gian 1h. Dịch lọc thu được  
sau khi đun được chia vào 4 cốc thủy tinh, mỗi  
cốc chứa 80ml dung dịch. Cho từ từ từng giọt  
H2SO4 10% vào dung dịch để điều chỉnh pH từ 1  
đến 4. Ly tâm tách phần kết tủa ra khỏi dung  
Màng được xác định khối lượng trước và sau  
khi sấy trong tủ sấy ở nhiệt độ 80C trong 48h.  
Độ ẩm màng được tính theo công thức:  
m0 m1  
100  
Độ ẩm màng (%) =  
m0  
Trong đó m0: là khối lượng màng trước khi  
sấy; m1: là khối lượng màng sau khi sấy khô.  
934  
Chu Thị Thanh, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Ngọc Kiên, Ngô Thị Thương, Nguyễn Thị Bích Thủy, Lê Thị Thu Hương  
Bảng 1. Các công thức phối trộn màng chitosan và lignin  
Thể tích dung dịch 150ml  
CT1.1 Chitosan  
Thể tích dung dịch 200ml  
CT2.1 Chitosan  
CT1.2. Tỉ lệ chitosan : lignin (2C:1L v/v)  
CT1.3. Tỉ lệ chitosan : lignin (1C:1L v/v)  
CT1.4. Tỉ lệ chitosan : lignin (1C:2L v/v)  
CT1.5. Lignin  
CT2.2. Tỉ lệ chitosan : lignin (2C:1L v/v)  
CT2.3. Tỉ lệ chitosan : lignin (1C:1L v/v)  
CT2.4. Tỉ lệ chitosan : lignin (1C:2L v/v)  
CT2.5. Lignin  
Gram (-) Escherichia coli. Các chủng vi sinh vật  
được cất ở tủ-80C và hoạt hóa để đạt nồng độ  
106 cfu/ml trước khi tiến hành thí nghiệm.  
2.3.2. Xác định độ dày của màng (TCVN  
10101:2013)  
Sử dụng kính hiển vi điện tử quét (SEM,  
Model NANOSEM 450, Hà Lan) để đo độ dày  
màng với độ chính xác đến ± 0,001mm. Đo tại  
các vị trí của 4 góc màng và giữa màng tại 10  
điểm cách đều nhau dọc theo chiều rộng màng.  
Giá trị trung bình cộng nằm trong dung sai cho  
phép ± 10%.  
Tiến hành thí nghiệm bằng cách sử dụng  
pipet hút dung dịch vi sinh vật đã được hoạt hóa  
và trang đều trên bề mặt thạch, đục lỗ trên bề  
mặt thạch. Hút lần lượt 50µl dung dịch mẫu  
nhỏ vào giếng thạch. Đậy nắp đĩa petri lại và  
cho vào tủ ấm 37C để vi khuẩn phát triển trong  
18-24h. quan sát và đo đường kính vòng vô  
khuẩn trên đĩa thạch.  
2.3.3. Xác định lực phá vỡ màng  
Mẫu được cắt ra thành những mảnh nhỏ,  
rồi được gắn chặt vào một vòng tròn có đường  
kính 50mm. Sau đó, dùng một thanh hình trụ  
bằng thép đặt chính giữa ngay phía trên màng  
để lực tác dụng vào bề mặt màng (phần tiếp xúc  
với màng là hình tròn đường kính 7mm). Lực  
tương tác với màng được ghi lại bằng đồng hồ có  
độ chính xác đến 0,1N, giới hạn đo là 100N. Từ  
từ tăng giá trị của lực tác dụng vào màng từ 0  
đến 100N, bước nhảy là 0,1N để xác định lực  
phá vỡ màng.  
2.3.6. Xử lý số liệu  
Kết quả thí nghiệm được xử lý trên phần  
mềm Minitab 17 theo phương pháp phân tích  
phương sai ANOVA một yếu tố. Các giá trị  
trung bình được so sánh theo chuẩn Turkey. Kết  
quả thí nghiệm được biểu diễn bằng đồ thị  
Microsoft Excel.  
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN  
3.1. Ảnh hưởng các yếu tố đến khối lượng  
lignin thu hồi từ bã mía  
2.3.4. Xác định tính chống thấm của màng  
(TCVN 9067-4-2012)  
Khả năng chống thấm của màng được xác  
định bằng cách đặt các màng lên trên phễu và  
rót vào màng 30 ml nước, quan sát khả năng  
nước chảy qua lớp màng của các công thức mỗi  
giờ trong 7 ngày.  
3.1.1. Ảnh hưởng của pH đến khả năng kết  
tủa lignin  
Bã mía sau khi thủy phân kiềm sẽ phá vỡ  
các liên kết của hợp chất cao phân tử lignin  
chuyển thành dạng muối R-ONa trong dung  
dịch. Do đó, để kết tủa lignin từ dung dịch cần  
điều chỉnh về môi trường axit. Khối lượng lignin  
thu được khi thay đổi pH thể hiện tại bảng 2.  
2.3.5. Thử khả năng kháng khuẩn bằng  
phương pháp đục lỗ thạch  
Kết quả ở bảng 2 cho thấy pH ảnh hưởng  
trực tiếp tới khối lượng lignin thu hồi được. Khối  
lượng lignin thu được ở 4 giá trị pH đều khác  
nhau có ý nghĩa thống kê. Tại giá trị pH = 2,  
Công thức tạo màng có khả năng chống  
thấm tốt nhất được đem thử khả năng kháng  
khuẩn trên hai chủng vi sinh vật. Vi khuẩn  
Gram (+) Staphylococcus aureus và vi khuẩn  
935  
Các đặc tính màng chống thấm sinh học chitosan kết hợp với lignin thu hồi từ bã mía  
khối lượng lignin thu được là nhiều nhất. Kết  
3.1.2. Khảo sát thời gian thủy phân bã mía  
quả này tương đồng với nghiên cứu của nhóm  
tác giả Vũ Đình Ngọ (Vũ Đình Ngọ & cs., 2017)  
khi tiến hành thu hồi lignin từ rơm sử dụng axit  
HCl để điều chỉnh dịch lọc về môi trường pH =  
2, sản phẩm lignin thu được có màu nâu đen.  
Phương trình phản ứng để thu hồi lignin được  
biểu diễn như sau:  
Khi thời gian đun càng kéo dài thì lượng  
lignin được tách ra khỏi bã mía càng nhiều  
(Hình 1). Khi tăng thời gian đun từ 0,5h đến 2h  
khối lượng lignin thu được tăng gấp 2 lần (từ  
0,767g lên 1,422g). Tuy nhiên khi tiếp tục kéo  
dài thời gian thủy phân lên 3h thì khối lượng  
lignin thay đổi không có ý nghĩa thống kê với  
mức tin cậy 95% so với thời gian đun 2h.  
2R- ONa + H2SO4 2R-OH+ Na2SO4  
Do đó, để tiết kiệm thời gian và năng lượng,  
chỉ cần tiến hành thủy phân bã mía trong kiềm  
với thời gian 2h. Quá trình xử lý kiềm làm phá  
vỡ tế bào do hòa tan các lignin, hemicellulose và  
cắt đứt các liên kết ete, este giữa lignin với  
hemicellulose để phân tách các liglocellulose  
thành lignin, hemicellulose, cellulose. Quá trình  
xử lý kiểm để tách lignin từ bã mía, khi tăng  
nhiệt độ đun lên 121C, nhóm tác giả Sudheer  
Rai (Rai & cs., 2017) chỉ cần thủy phân trong 30  
phút với nồng độ NaOH 1%. Tại nhiệt độ thủy  
phân kiềm NaOH 1M thấp tại 30C thì thời  
gian cần kéo dài lên tới 18 h để tách được lignin  
ra khỏi rơm rạ (Xiao & cs., 2001).  
Do khi thủy phân trong môi trường kiềm,  
các liên kết ete bị phá vỡ, các hợp chất cao  
phân tử lignin bị cắt đứt nhanh chóng thành  
dạng muối natri R-ONa, sau đó lignin được  
tách ra khỏi dung dịch bằng axit H2SO4 chuyển  
thành dạng kết tủa ROH (quá trình Kraft  
lignin tách lignin từ dịch đen sản xuất giấy tại  
pH = 2,5). Tại pH = 4 nồng độ axit chưa đủ lớn  
để kết tủa hoàn toàn lignin nên khối lượng  
lignin thu được là thấp nhất. Do đó, chúng tôi  
chọn môi trường pH = 2 để thu hồi lignin từ  
dung dịch thủy phân bã mía để khảo sát các  
điều kiện tiếp theo.  
Bảng 2. Ảnh hưởng của pH đến khối lượng lignin  
Giá trị pH  
1
2
3
4
0,784  
Khối lượng lignin (g)  
0,965  
1,097  
1,018  
0,962  
0,960  
1,090  
1,086  
1,020  
1,002  
0,777  
0,781  
Khối lượng trung bình (g)  
0,962a ± 0,002  
1,091b ± 0,005  
1,013c ± 0,006  
0,781d ± 0,004  
Ghi chú: Các giá trị trung bình mang các chữ khác nhau (a, b,c, d) là khác nhau có ý nghĩa thống kê ( P <0,05).  
Ghi chú: Các giá trị trung bình mang các chữ khác nhau (a, b,c) là khác nhau có ý nghĩa thống kê ( P <0,05).  
Hình 1. Ảnh hưởng của thời thủy phân đến khối lượng lignin  
936  
Chu Thị Thanh, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Ngọc Kiên, Ngô Thị Thương, Nguyễn Thị Bích Thủy, Lê Thị Thu Hương  
Bảng 3. Ảnh hưởng của tỉ lệ khối lượng NaOH/bã mía  
Tỉ lệ NaOH/bã mía (w/w)  
Khối lượng Lignin(g)  
1/20  
1/10  
1/5  
0,908b ± 0,002  
1,422a ± 0,002  
1,423a ± 0,003  
Ghi chú: Các giá trị trung bình mang các chữ khác nhau (a, b) là khác nhau có ý nghĩa thống kê ( P <0,05).  
Màng chỉ chứa chitosan có màu trắng ngà,  
sáng, bề mặt nhẵn, bóng. Các màng được tạo bởi  
3.1.3. Khảo sát tỉ lệ NaOH/ bã mía  
Mục đích của quá trình thủy phân kiềm sẽ  
dung dịch hỗn hợp chitosan và lignin có màu hơi  
làm phá vỡ thành tế bào do kiềm hòa tan các  
vàng nâu, do thành phần lignin được phối trộn  
hemicellulose, lignin, phân hủy các liên kết este  
vì bột lignin khi được tách ra từ bã mía và hòa  
do đó khi tăng nồng độ NaOH thì quá trình  
tan trong dung dịch NaOH 0,1M có màu nâu.  
thủy phân hemicellulose, độ hòa tan lignin  
Khi hàm lượng lignin trong hỗn hợp càng nhiều  
trong NaOH và sự trương nở cấu trúc cellulose  
thì màu sắc màng càng đậm. Bề mặt các màng  
sẽ tăng lên tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình  
này cũng đều nhẵn và bóng. Phương pháp tạo  
hòa tan lignin ra khỏi bã mía. Khối lượng lignin  
chế tạo màng đơn giản, chitosan được hòa tan  
thu được trong TN3 được thể hiện tại bảng 3.  
trong dung dịch axit axetic loãng 2% và lignin  
Bảng 3 cho thấy khi tăng khối lượng NaOH  
từ 2,5g lên 5g khối lượng lignin thu được tăng từ  
0,908g lên 1,422g khoảng 1,56 lần, nhưng tiếp  
tục tăng gấp đôi khối lượng NaOH thì sự thay đổi  
tan trong NaOH 0,1M sau khi bay hơi để lại lớp  
màng trên khuôn nhựa, dễ dàng bóc tách ra  
khỏi khuôn.  
không đáng kể do khi nồng độ NaOH quá cao sẽ  
làm tăng độ nhớt dung dịch làm giảm tốc độ  
3.3. Các đặc tính của màng  
khuếch tán ion OH- vào bên trong nguyên liệu,  
nên khả năng cắt các liên kết sẽ trở lên chậm lại,  
hiệu quả xử lý không tăng thêm. Do đó, tỉ lệ  
NaOH/bã mía là 1/10 w/w được lựa chọn để thủy  
phân bã mía. Nhóm nghiên cứu Wunna đã khảo  
sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xử lý  
kiềm để tách lignin từ bã mía đã nhận thấy khi  
thay đổi đồng thời các yếu tố nhiệt độ, nồng độ  
kiềm với thời gian sẽ ảnh hưởng đến khối lượng  
lignin thu được. Điều kiện tối ưu tìm được khi  
thủy phân để thu hồi lignin ở nhiệt độ 120C  
trong 1h với tỉ lệ khối lượng NaOH 2% và tỉ lệ  
chất rắn: lỏng là 1:20 w/v (Wunna & cs., 2017).  
Sau khi màng được hình thành, tiến hành  
xác định các chỉ tiêu độ ẩm màng bằng phương  
pháp sấy ở nhiệt độ 80C, xác định độ dày màng  
bằng phương pháp kính hiển vi điện tử quét và  
lực phá vỡ màng theo các công thức phối trộn tỉ  
lệ giữa chitosan và lignin được thể hiện trong  
bảng 4.  
Bảng 4 cho thấy độ ẩm màng dao động trong  
khoảng 15-25%, màng có tỉ lệ chitosan : lignin  
(2C:1L v/v) tương ứng công thức CT1.2.và CT2.2  
có độ ẩm cao hơn các công thức màng còn lại và  
màng dày hơn có độ ẩm cao hơn. Với công thức  
màng CT1.4 là màng mỏng nhất độ dày 22,12µm  
có lực phá vỡ màng nhỏ nhất từ 130.000 N/m2,  
khi giảm tỉ lệ lignin trong màng xuống với tỉ lệ  
chitosan: lignin (1C:1L v/v) tại CT1.3 thì lực phá  
vỡ tăng lên gấp khoảng 2 lần. Màng chỉ có chứa  
chitosan CT1.1 có độ ẩm thấp nhất nhưng có độ  
dày lớn 50,97µm và lực phá vỡ màng lớn 624.000  
N/m2. Khi thể tích đổ màng 200ml, độ dày và lực  
phá vỡ tăng lên, tương ứng với CT2.1 màng chỉ  
chứa chitosan có lực phá vỡ tới 728.000 N/m2 khi  
màng có độ dày 55,10µm. So sánh với kết quả  
nghiên cứu của tác giả Bùi Văn Miên & cs.  
3.2. Hình ảnh màng sinh học từ chitosan  
và lignin  
Với 10 công thức phối trộn tỉ lệ giữa  
chitosan và lignin thì công thức CT1.5 và CT2.5  
khi chỉ có dung dịch lignin không tạo được  
màng. Các tỉ lệ phối trộn chitosan với lignin và  
công thức chỉ chứa chitosan đều thành các màng  
mỏng và bóng, các màng được làm khô ở nhiệt  
độ 40C, màng có thể bóc ra dễ dàng khỏi khuôn  
nhựa. Hình 2 là ảnh một màng thu được.  
937  
Các đặc tính màng chống thấm sinh học chitosan kết hợp với lignin thu hồi từ bã mía  
(2003), màng hình thành từ chitosan/ PEG-EG  
(với nồng độ phụ gia tối ưu là 10% so với  
chitosan, tỉ lệ PEG : EG là (1:1) thì lực phá vỡ  
màng là 6,86 kg/cm2, với độ dày màng 52,6µm,  
nếu màng không được bổ sung chất phụ gia, lực  
phá vỡ màng chỉ 1,66 kg/cm2 thấp hơn từ 6-7 lần  
so với kết quả của nghiên cứu không cần bổ sung  
chất phụ gia với độ dày màng chitosan 50,97 µm  
ở CT1.1 có lực phá vỡ 624.000 N/m2 (tương đương  
6,24 kg/cm2) và màng chitosan dày 55,10µm ở  
CT2.1 có lực phá vỡ màng 728.000 N/m2 (tương  
đương 7,28 kg/cm2).  
CT1.1  
CT1.2  
CT1.3  
CT1.4  
CT1.5  
CT2.2  
Hình 2. Màng sinh học từ chitosan và màng phối trộn chitosan/lignin  
Bảng 4. Một số chỉ tiêu màng tạo bởi chitosan và lignin  
Tổng thể tích đổ màng 150ml  
Tổng thể tích đổ màng 200ml  
Công thức màng  
CT1.1  
14,99  
CT1.2  
24,46  
CT1.3  
20,68  
CT1.4  
18,35  
CT2.1  
16,31  
CT2.2  
25,34  
CT2.3  
22,08  
CT2.4  
19,81  
Độ ẩm (%)  
Lực phá vỡ màng (N/m2)  
Độ dày (µm)  
624.000  
50,97  
286.000  
47,88  
259.000  
27,19  
130.000 728.000  
22,12 55,10  
702.000  
49,41  
312.000  
30,13  
156.000  
27,25  
Ghi chú: C: chitosan, L: lignin.  
938  
Chu Thị Thanh, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Ngọc Kiên, Ngô Thị Thương, Nguyễn Thị Bích Thủy, Lê Thị Thu Hương  
Bảng 5. Khảo sát khả năng chống thấm của màng  
Tổng thể tích đổ màng : 150ml  
CT1.2 CT1.3  
Không  
Tổng thể tích đổ màng : 200ml  
CT2.2 CT2.3  
Thấm nước Dễ thấm Thấm nước Không  
Công thức màng  
CT1.1  
CT1.4  
CT2.1  
CT2.4  
Tính chống thấm Dễ thấm nước Thấm nước  
sau 3 ngày  
Thấm nước  
thấm nước sau 1h  
nước  
sau 3 ngày  
thấm nước sau 3h  
Staphylococcus aureus  
Escherichia coli  
Hình 3. Hình ảnh đo đường kính vòng vô khuẩn S. aureus E. coli  
CT2.3 khi tỉ lệ chitosan : lignin là (1C :1L v/v)  
độ dày màng trong khoảng 27,19-30,13 µm thì  
đều có khả năng chống thấm nước tốt, sau thời  
gian quan sát 7 ngày, nước vẫn được giữ trên  
màng. Do chitosan khi hòa tan trong dung dịch  
axit có điện tích dương, còn lignin khi hòa tan  
trong dung dịch kiềm phân tử lignin mang điện  
tích âm do bị hydroxyl và carboxyl hóa. Khi  
phối trộn chitosan với lignin với nhau chúng  
tạo liên kết ngang tạo nên một lớp phủ polymer  
chặt chẽ (Santam & cs., 2018 ; Ajao & cs.,  
2018). Khi tỉ lệ của chitosan với lignin thích  
hợp vừa để trung hòa phần axit và kiềm thì tạo  
thành màng có khả năng chống thấm tốt nhất.  
3.4. Xác định khả năng chống thấm nước  
của màng  
Khảo sát khả năng chống thấm nước của  
màng được đánh giá theo theo TCVN 9067-4-  
2012. Kết quả nghiên cứu tính chống thấm của  
các tỉ lệ phối trộn giữa chitosan và lignin được  
thể hiện tại bảng 5.  
Bảng 5 cho thấy, nếu màng chỉ tạo bởi  
chitosan CT1.1 và CT2.1 có lực phá vỡ màng lớn  
nhất nhưng rất dễ thấm nước, khi rót nước vào  
màng thì màng đã thấm nước và trương lên, sau  
đó nước chảy qua màng dễ dàng. Các công thức  
được phối trộn thêm lignin thì đã kéo dài được  
thời gian giữ nước trên màng. Màng CT1.4 và  
CT2.4 có tỉ lệ chitosan : lignin (1C:2L v/v) thì lực  
phá vỡ màng là nhỏ nhất và thấm nước sau  
khoảng thời gian từ 1-3h. Với công thức tạo  
màng CT1.2 và CT2.2 chỉ thấm nước sau thời  
gian 3 ngày, màng được tạo theo CT1.3 và  
3.5. Khả năng kháng khuẩn bằng phương  
pháp đục lỗ thạch  
Kết quả thử khả năng kháng khuẩn trên  
hai chủng vi khuẩn Gram (+) Staphylococcus  
939  
Các đặc tính màng chống thấm sinh học chitosan kết hợp với lignin thu hồi từ bã mía  
aureus và vi khuẩn Gram (-) Escherichia coli  
của công thức tạo màng CT1.1 công thức có khả  
năng chống thấm tốt nhất cho đường kính vòng  
vô khuẩn lần lượt là 18mm và 16mm. Kết quả  
phân tích cho thấy khi phối trộn giữa chitosan  
và lignin để tạo màng có khả năng kháng khuẩn  
tốt, có thể sử dụng để làm màng ứng dụng trong  
bao gói sản phẩm. Kết quả thử vi khuẩn được  
thể hiện trên hình 3.  
LỜI CẢM ƠN  
Kết quả nghiên cứu của bài báo nhận được  
một phần kinh phí hỗ trợ từ đề tài cấp Học viện  
với mã số T2019-04-18. Nhóm tác giả xin gửi lời  
cảm ơn cán bộ, sinh viên khoa Môi Trường, khoa  
Công nghệ thực phẩm, Học viện Nông nghiệp  
Việt Nam và Khoa Vật lý, Trường Đại học Khoa  
học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Viện  
Hóa học, Viện Hàn lâm và Khoa học Việt Nam  
đã hỗ trợ để thực hiện nghiên cứu.  
Kiểm tra hai chủng vi khuẩn Gram (+)  
Staphylococcus aureus và vi khuẩn Gram (-)  
Escherichia coli được a cho thấy khi phối trộn  
chitosan và lignin để tạo màng sinh học có hoạt  
tính ức chế vi sinh vật. Trong kết quả nghiên cứu  
của Rai & cs. (2017), khi chỉ có dung dịch lignin  
nồng độ 200µg có khả năng kháng khuẩn Gram  
(+) Bacillus subtilis và vi khuẩn Gram (-)  
Pseudomonas aeruginosa với đường kính vòng  
kháng khuẩn lần lượt là 19mm và 14mm, khi kết  
hợp giữa chitosan và lignin (200µg) để tạo màng  
đã tăng khả năng kháng khuẩn Gram (-) lên  
28mm và Gram (+) là 30mm. Do vi khuẩn Gram  
dương thường nhạy với các hợp chất vòng thơm  
và các chất kháng sinh hơn vi khuẩn Gram âm vì  
trong thành tế bào vi khuẩn gram dương giàu  
lipoprotein và phospholipid nên có đường kính vô  
khuẩn lớn hơn. Màng chitosan và lignin được ứng  
dụng làm bao bì thực phẩm giúp bảo quản và kéo  
dài thời hạn của thực phẩm.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Ajao O., Jeaidi J., Benali M., Restrepo M.A., Mehdi El  
M., Boumghar Y. (2018). Quantification and  
variability analysis of lignin optical properties for  
colour-dependent  
industrial  
applications.  
Molecules. 23(2) : 377.  
Atmaka W., Yudhistira B. & Putro M.I.S. (2018).  
Characteristic study of chitosan addition in Tilapia  
(Oreochromis niloticus) bone base gelatin film.  
Conference series Earth and Environmental  
Science.  
142.  
DOI:10.1088/1755-  
1315/142/1/012028.  
Bof M.J., Jimenez A., Locaso D.E., Garcia M.A &  
Chiralt A. (2016). Grapefruit seed extract and  
lemon essential oil as active agents in corn starch-  
chitosan blend films. Food and Bioprocess  
Techonogy. 9(12): 2033-2045.  
Bộ Khoa học và Công nghệ (2012). TCVN 9067-4-  
2012: quy định phương pháp xác định độ thấm  
nước dưới áp lực thủy tĩnh của tấm trải chống thấm  
trên cơ sở bitum biến tính được gia cường bằng sợi  
hữu cơ và/hoặc sợi vô cơ.  
4. KẾT LUẬN  
Bộ Khoa học và Công nghệ (2013). TCVN 10101:2013  
- Quy định phương pháp xác định độ dày của mẫu  
thử màng hoặc tấm chất dẻo bằng phương pháp  
quét cơ học.  
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã chế tạo  
thành công màng sinh học khi kết hợp chitosan  
với lignin, mở ra một hướng nghiên cứu mới về  
vật liệu thân thiện môi trường từ phụ phẩm  
nông nghiệp. Trong các tỉ lệ phối trộn chitosan  
và lignin thì công thức tạo màng CT1.3 và  
CT2.3 có tỉ lệ chitosan : lignin 1C:1L (v/v) có  
khả năng chống thấm nước tốt nhất, màng có  
khả năng kháng khuẩn với hai chủng vi khuẩn  
E. coli S. aureus với đường kính vòng vô  
khuẩn lần lượt 16mm và 18mm. Các màng sinh  
học được tạo thành rất mỏng độ dày dao động  
trong khoảng 22-55µm nhưng có lực phá vỡ  
màng lớn từ 130.000-728.000 N/m2 mà không  
cần bổ sung thêm chất phụ gia và chất hóa dẻo.  
Bùi Văn Miên & Nguyễn Anh Trinh (2004). Nghiên  
cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến độ dày và áp suất  
phá vỡ của màng chitosan. Tạp chí Khoa học Kỹ  
thuật Nông Lâm nghiệp. 3: 1-6.  
Châu Văn Minh, Phạm Hữu Điển, Đặng Lan Hương,  
Trịnh Đức Hưng & Hoàng Thanh Hương (1997).  
Sử dụng chitosan làm chất bảo quản thực phẩm  
tươi sống. Tạp chí Hóa học. 4: 75-78.  
Giuliani A., Zuccarini M., Cichelli A., Khan H & Reale  
M (2020). Critical review on the presence of  
Phthalates in food and evidence of their biological  
impact. International Journal of Enviromental  
research and public health. 17(16): 5655.  
940  
Chu Thị Thanh, Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Ngọc Kiên, Ngô Thị Thương, Nguyễn Thị Bích Thủy, Lê Thị Thu Hương  
Haghdan S., Rennecker S. & Smith G.D. (2016). Ligin  
in polymer Composites. Journal and Books.  
pp. 1-11.  
extension of green chilli shelf life. Carbohydrate  
Polymers. 1(195): 329: 338.  
Rai S., Dutta P. K & Mehrotra G.K. (2017). Lignin  
Incorporated Antimicrobial Chitosan Film for  
Food Packaging Application. Journal Polymer  
Material. 34(1): 171-183.  
Lê Hồ Khánh Hỷ, Nguyễn Thu Hồng, Đào Việt Hà,  
Phạm Xuân Kỳ, Phạm Bảo Vi & Đoàn Thị Thiết  
(2016). Chế tạo màng chitosan/ glycerol và  
chitosan/glycerol bổ sung nanochitosan trong bảo  
quản thực phẩm cá thu. Tuyển Tập Nghiên Cứu  
Biển. 22: 48-58.  
Satam C.C., Irvin W.C., Lang W.A., Jallorina R.C.J.,  
Shofner L.M., Reynolds R.J. & Meredith C.J.  
(2018).  
Spray-Coated  
multilayer  
cellulose  
nanocrystal-Chitin nanofiber films for barrier  
applications. ACS Sustainable chemistry and  
engineering. 6 : 10637-10644.  
Lê Thị Minh Thùy (2008). Nghiên cứu phối trộn  
chitosan-gelatin làm màng bọc thực phẩm bao gói  
bảo quản phi lê cá ngừ đại dương. Tạp chí Khoa  
học, Trường Đại học Cần Thơ. 1:147- 153.  
Trần Thị Luyến & Lê Thanh Long (2007). Nghiên cứu  
bảo quản trứng gà tươi bằng màng bọc chitosan kết  
hợp phụ gia. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy  
sản, Đại học Nha Trang. 01: 3-11  
Motaung E.T., Mochane J.M. (2017). Systematic  
review on recent studies on sugar cane bagasse and  
bagasse cellulose polymer composites. Journal of  
thermoplastic composite materials. 1-17. DOI:  
10.1177/0892705717738292.  
Vũ Đình Ngọ, Trần Thị Hằng & Vũ Đức Cường  
(2017). Sự ảnh hưởng của các yếu tố tới quá trình  
tách cellulose và lignin từ rơm rạ bằng phương  
pháp kiềm. Tạp chí Phân tích Hóa, Lý và Sinh học.  
22(1): 38-44.  
Muxika A., Zugasti I., Guerrero P & Caba K. D. L.  
(2017). Application of chitosan in Food packaging.  
Reference Module in Food Science. 1-12. DOI:  
10.1016/B978-0-08-100596-5.22400-1.  
Wunna K., Nakasaki K & Joseph L. (2017). Effect of  
alkali pretreament on removal of lignin from  
Novaes E., Kirst M & Chiang V. (2010), Lignin and  
sugarcane  
bagasse.  
Chemical  
Engineering  
Biomass:  
A
negative correlation for woof  
Transactions. 56: 1831-1836  
formation and lignin conntent in trees. Plant  
Physsiol. 154(2): 555- 561.  
Xiao B., Sun X.F & Sun R. C. (2001). Chemical,  
structural, and thermal characterization of alkali-  
soluble lignins and hemicelluloses and cellulose  
from maize, stems, rye straw, and rice straw.  
Polymer Degradation and Stability. 74(2): 307-319.  
Priyadarshi R., Sauraj., Kumar B & Negi (2018).  
Chitosan film incorporated with citric acid and  
glycerol as an active packaging material for  
941  
pdf 10 trang yennguyen 21/04/2022 160520
Bạn đang xem tài liệu "Các đặc tính màng chống thấm sinh học Chitosan kết hợp với Lignin thu hồi từ bã mía", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcac_dac_tinh_mang_chong_tham_sinh_hoc_chitosan_ket_hop_voi_l.pdf