Hiện trạng, nguồn và các yếu tố ảnh hưởng tới nồng độ bụi PM₂.₅ tại Hà Nội: Tổng quan các nghiên cứu

TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN  
HIỆN TRẠNG, NGUỒN VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG  
TỚI NỒNG ĐỘ BỤI PM2.5 TẠI HÀ NỘI: TỔNG QUAN  
CÁC NGHIÊN CỨU  
(1)  
Lý Bích ủy*  
Văn Diệu Anh  
TÓM TẮT  
Ô nhiễm không khí (ÔNKK), đặc biệt là ô nhiễm bụi mịn là vấn đề đã và đang được quan tâm do các tác  
động bất lợi của nó đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. Bụi mịn (PM ) là bụi có đường kính khí động  
học 2,5 µm. PM2.5 gây ra ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và kinh tế trên phạm 2v.5i toàn cầu. Tại Việt Nam, kết quả  
quan trắc cho thấy, nồng độ PM2.5 trung bình năm tại Hà Nội và nhiều địa phương cao hơn Quy chuẩn kỹ  
thuật quốc gia, QCVN 05:2013/BTNMT (25 µg/m3) và mức khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới - WHO  
(10 µg/m3). Nồng độ PM2.5 trung bình ngày tại Hà Nội và nhiều địa phương cũng bị vượt Quy chuẩn (50 µg/  
m3) và mức khuyến nghị của WHO (25 µg/m3) vào nhiều ngày trong năm. Các nghiên cứu cho thấy, ngoài  
những nguồn sơ cấp, nồng độ PM2.5 tại Hà Nội còn được đóng góp bởi vận chuyển từ xa và phần thứ cấp.  
Một số nghiên cứu đã ghi nhận sự xuất hiện của các đợt ô nhiễm với nồng độ PM2.5 cao (ví dụ như >100 µg/  
m3). Tuy nhiên, chưa có thông tin về thành phần, nguồn đóng góp lên nồng độ PM2.5 trong các giai đoạn này.  
Phần bụi thứ cấp được dự đoán là có đóng góp đáng kể tới nồng độ PM2.5 vào các đợt ô nhiễm. ông tin về  
sự đóng góp của các nguồn có ý nghĩa rất lớn trong việc định hình kế hoạch kiểm soát, ứng phó hiệu quả với  
các đợt ô nhiễm.  
Từ khóa: PM2.5, nguồn bụi, đợt ô nhiễm cao, phần bụi thứ cấp.  
Nhận bài: 10/3/2021; Sưa chha: 1 /3/2021; ;uDêt đtng: 22/3/2021.  
1. Giới thiệu chung  
trắc quốc gia đặt tại Hà Nội, Phú ọ, Quảng Ninh  
đều cao hơn ngưỡng cho phép trong Quy chuẩn quốc  
gia là 25 µg/m3, trong khi đó, ở một số thành phố khác  
như Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa, nồng độ bụi PM2.5  
đạt Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia mặc dù vẫn cao hơn  
mức khuyến nghị của WHO (10 µg/m3) [3]. Kết quả  
quan trắc [3, 4] và mô hình, vệ tinh đều cho thấy nồng  
độ bụi PM2.5 có xu hướng phân vùng không gian rõ rệt  
với nồng độ tại khu vực miền Bắc cao hơn miền Nam  
và miền Trung. Tại Việt Nam, các nghiên cứu về chất  
lượng không khí chủ yếu tập trung tại Hà Nội, ành  
phố Hồ Chí Minh. Trong khuôn khổ của bài báo này,  
chúng tôi tổng hợp và phân tích các kết quả nghiên cứu  
về nguồn, yếu tố ảnh hưởng lên nồng độ bụi PM tại  
Hà Nội. Chúng tôi cũng tổng hợp và phân tích m2.5t số  
kết quả nghiên cứu về các đợt ô nhiễm bụi.  
ÔNKK là vấn đề đang được quan tâm do tác động  
bất lợi của nó đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.  
Các chất ÔNKK bao gồm bụi (particulate matter,  
aerosol) và các chất ô nhiễm dạng khí. PM2.5 là bụi có  
đường kính khí động học 2,5 µm, là tác nhân ÔNKK  
được quan tâm nhất hiện nay. Nhiều nghiên cứu đã chỉ  
ra ảnh hưởng xấu của PM2.5 lên sức khỏe [1, 2]. Gần đây,  
chất lượng không khí kém trong nhiều thời điểm, thể  
hiện qua Chỉ số chất lượng không khí - AQI đã thu hút  
sự chú ý của truyền thông trong nước và quốc tế cũng  
như sự quan tâm của cộng đồng. AQI được quyết định  
bởi thông số thành phần có giá trị chất lượng quy đổi  
kém nhất. Hiện nay, tại Việt Nam, AQI chủ yếu được  
quyết định bởi nồng độ PM . Dữ liệu đo bụi PM ở  
Việt Nam rải rác theo cả th2.5i gian và và không g2i.a5n.  
Tuy nhiên, những kết quả đo được cho thấy nồng độ  
PM2.5 ở Việt Nam cao tại nhiều địa phương cũng như  
nhiều thời điểm. Ví dụ như trong giai đoạn 2010 - 2018,  
nồng độ hàng năm sẵn có của PM2.5 tại các trạm quan  
2. Ô nhiễm bụi PM2.5 tại Hà Nội  
Những nghiên cứu đầu tiên về hiện trạng ô nhiễm  
bụi của Hà Nội đã được thực hiện và công bố vào  
khoảng những năm 2000. Nồng bộ bụi PM2.5 trung  
1 Viên Khoa học và Công nghê Môi trường, Đại học Bách khoa Hà Nội  
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 9  
bình năm hoặc vài năm tại Hà Nội được tổng hợp tại (khoảng không chắc chắn 95% (UI)) (số liệu theo  
Hình 1. Bên cạnh đó, kết quả diễn biến nồng độ bụi Cohen và cs [2], xử lý số liệu và trích dẫn bởi tác giả  
PM tại trạm Nguyễn Văn Cừ giai đoạn 2010 - 2018 Nguyễn ị Nhật anh và cs [7]. Tử vong do tiếp xúc  
cũn2g.5 có thể tìm thấy trong một số nghiên cứu [3, 5]. với PM2.5 ở Việt Nam là 42,2 nghìn ca (95% UI) vào  
Những kết quả trên cho thấy, nồng độ PM trung bình năm 2015 (số liệu theo Cohen và cs [2], xử lý số liệu và  
năm ở Hà Nội cao hơn nhiều lần ngưỡng2k.5huyến nghị trích dẫn bởi Nguyễn ị Nhật anh và cs [7]). Ngoài  
của WHO và hiện nay cao gấp khoảng 1,5 lần ngưỡng ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra tác động ngắn hạn của  
quy định trong Quy chuẩn quốc gia. Mặc dù bộ số liệu PM2.5 bụi đối với việc nhập viện của trẻ em [8, 9].  
có được chưa đầy đủ, kết quả tổng hợp ở Hình 1 cho  
thấy nồng độ bụi PM2.5 tại Hà Nội không tăng lên trong  
giai đoạn 2000 - 2020, khác với xu hướng gia tăng nhận  
thức về ÔNKK. Nồng độ bụi PM tại các đô thị cũng  
được nhận định là có xu hướng gi2.5m [5]. Việc nồng độ  
bụi PM tại Hà Nội không gia tăng hay giảm trong khi  
dân số,2.q5 uy mô các nguồn nội sinh/lân cận như giao  
thông, công nghiệp và các nguồn bên ngoài như nhiệt  
điện gia tăng đáng kể, thể hiện hiệu quả của các chính  
sách kiểm soát ÔNKK trong nước cũng như tác động  
của việc cải thiện chất lượng không khí của các nước  
khác trong khu vực. Có thể liệt kê một số hoạt động  
nhằm kiểm soát chất lượng không khí của Việt Nam  
Hình 1: Nồng độ bụi PM2.5 tại Hà Nội  
nói chung và Hà Nội nói riêng như sau: ắt chặt quy  
Ghi chú: Nồng độ bụi PM2.5 trong hai nghiên cứu của Hopke và  
chuẩn/tiêu chuẩn phát thải, tiêu chuẩn nhiên liệu, tăng  
cs [10] và Cohen và cs [11] được xác định bằng phương pháp lấD  
cường quan trắc nguồn thải, yêu cầu các nguồn thải  
mẫu, cân khối lượng. Nồng độ bụi PM tại trạm NguDễn Văn  
Cừ được trích xuất từ nghiên cứu [12].2N.5 ồng độ PM2.5 tại trạm  
lớn lắp đặt hệ thống quan trắc tự động; Quy hoạch vị  
trí đặt, di dời và đóng cửa các nhà máy gây ô nhiễm  
NguDễn Văn Cừ và nồng độ thu thập từ AirNow được quan trắc  
nghiêm trọng; Nâng cấp/cải tạo hệ thống giao thông,  
bằng các thiết bị đo tự động liên tục  
phát triển hệ thống giao thông công cộng… Tuy nhiên,  
kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng mục tiêu hiện tại  
là nồng độ bụi PM2.5 đạt Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia  
QCVN 05:2013/BTNMT (đây cũng là mức mục tiêu 2  
do WHO đề xuất) và ngưỡng khuyến nghị của WHO.  
Trên thực tế không có nhiều nước, kể cả khối các nước  
đã phát triển kiểm soát nồng độ bụi PM2.5 về ngưỡng  
khuyến nghị của WHO. Một nghiên cứu tổng kết từ  
số liệu PM2.5 tại Đại sứ quán và Lãnh sứ quán Mỹ ở 15  
thành phố châu Á trong giai đoạn 2016 - 2018 cho thấy,  
giá trị trung bình năm tại các thành phố này đều lớn  
hơn mức mục tiêu 2 do WHO đề xuất [4]. Tuy nhiên,  
nhiều nước, bao gồm các nước láng giềng trong khu  
vực như Trung Quốc cũng đã có những chính sách can  
thiệp thành công khiến nồng độ bụi PM2.5 giảm dần  
theo các năm [6]. Việc thiết kế và thực hiện các hoạt  
động kiểm soát nhằm đưa nồng độ bụi PM2.5 đạt Quy  
chuẩn quốc gia, hướng tới việc đạt ngưỡng khuyến  
nghị của WHO là rất cần thiết.  
Một số nghiên cứu về sức khỏe cộng đồng cho thấy,  
bụi PM2.5 có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng.  
Tiếp xúc với bụi trong không khí xung quanh làm tăng  
tỷ lệ nhập viện và tử vong ở Việt Nam. Ví dụ, Tổ chức  
Gánh nặng bệnh tật toàn cầu ước tính rằng, vào năm  
2015, việc tiếp xúc với PM2.5 trong không khí xung  
quanh ở Việt Năm làm mất đi 806.900 năm sống khỏe  
mạnh do bệnh tật (tương đương với 806.900 DALY-  
số năm sống được hiệu chỉnh theo mức độ bệnh tật)  
Trong một năm, nồng độ bụi PM2.5 tại Hà Nội  
thường cao vào mùa đông và thấp vào mùa hè [3, 13,  
14, 15]. Biến thiên nồng độ bụi PM đã được nhiều  
nghiên cứu chứng minh là liên quan c2h.5ủ yếu đến yếu tố  
khí tượng và vận chuyển dài hạn [14,16]. Hà Nội cũng  
như các khu vực khác của Việt Nam có khí hậu nóng  
ẩm gió mùa. Tác giả Phạm Duy Hiển và cs, 2002 cũng  
đã phân tích đặc trưng khí tượng ảnh hưởng tới ÔNKK  
ở miền Bắc Việt Nam, được tóm tắt như sau [17]. Vào  
mùa đông, điều kiện khí tượng bị tác động bởi các đợt  
gió mùa Đông Bắc, xuất phát từ các khối cao áp phía  
trên Xibia và biển Đông Trung Hoa. Khi gió mùa tràn  
về, khí áp tăng cao, nhiệt độ hạ xuống làm cho không  
khí bị tù hãm, chất ô nhiễm khó phát tán lên cao và  
vận chuyển đi xa. Tùy theo hướng đi của khối khí qua  
lục địa hay đại dương mà không khí sẽ mang theo ít  
hay nhiều hơi ẩm. Vào mùa hè, điều kiện khí tượng  
tại miền Bắc Việt Nam được quyết định bởi khối khí  
từ vùng áp suất cao ở biển Ấn Độ và vùng áp suất cao  
dưới nhiệt đới ở biển Đông, mang theo khí ẩm, mưa  
nhiệt đới. Tuy nhiên, mưa lớn chủ yếu xảy ra vào tháng  
7 và tháng 8.  
Biến trình nồng độ bụi PM trong ngày tại 1 điểm  
đo nền đô thị và 1 điểm đo 2g.5iao thông tại Hà Nội  
không có đỉnh (peak) vào giờ cao điểm [3, 18], phản  
ảnh tương quan yếu với nguồn giao thông. Một nghiên  
10 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021  
TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN  
cứu gần đây cho thấy, nồng độ PM2.5 tại 1 điểm nền đô diesel trong giao thông (10%); nấu ăn tại hộ gia đình  
thị tại Hà Nội, 1 điểm ngoại thành Hà Nội và 1 điểm và thương mại (16%); thứ cấp giàu sunphat (16%);  
tại ái Nguyên cách xa nhau trong vòng bán kính 60  
km vào các tháng mùa đông có sự thăng giáng, đồng  
thời, cho thấy sự chi phối rất lớn của nguồn khu vực  
đến nồng độ bụi PM2.5 [19]. Cụ thể là ảnh hưởng tức  
thời của các nguồn cục bộ bị lấn át bởi sự đóng góp của  
nhiều nguồn phát thải xung quanh đến nồng độ bụi  
PM cũng như tích lũy bụi PM2.5 trong quá khứ do nó  
có t2h.5ời gian lưu trong khí quyển lớn.  
Để có thể kiểm soát tốt ô nhiễm bụi PM , việc  
nghiên cứu nhằm xác định rõ nguồn, các yếu2t.5ố ảnh  
hưởng lên nồng độ bụi là rất quan trọng, nhằm tránh  
tình trạng đầu tư lãng phí hay kiểm soát nghiêm ngặt  
thái quá gây ảnh hưởng đến các hoạt động phát triển  
kinh tế - xã hội.  
thứ cấp giàu muối hình thành từ nguồn biển (11%);  
công nghiệp/đốt rác (6%); xây dựng/bụi đất (1%). Kết  
quả của hai nghiên cứu này được trình bày ở Hình 2.  
Hai nghiên cứu nói trên đều dựa trên số liệu trong  
toàn bộ khoảng thời gian nghiên cứu. Trong khi đó,  
nghiên cứu của tác giả Phạm Duy Hiển và cs 2004  
[13] đánh giá phần đóng góp của các nguồn lên phân  
đoạn bụi mịn, bụi thô (trong nghiên cứu này, hai  
phân đoạn tương ứng với bụi đường kính khí động  
học <2,2 và 2,2 - 10 µm) ở Hà Nội, tương ứng với  
các nhóm khối khí thổi đến Hà Nội như sau: (1) từ  
phía Bắc đi qua lục địa Trung Quốc, (2) từ phía Đông  
Bắc đi qua biển Đông, (3) từ phía Tây Nam qua bán  
đảo Đông Dương. Mục đích chính của nghiên cứu  
là xác định mức ảnh hưởng của vận chuyển dài hạn.  
Các nguồn được xác định bao gồm: Vận chuyển từ  
xa; phát thải sơ cấp từ hoạt động đốt sinh khối tại  
đia phương; bụi đất; thứ cấp từ nguồn địa phương;  
muối biển suy giảm Cl; từ phương tiện giao thông và  
bụi đường; nguồn tương ứng với phần nitrat chủ đạo  
trong bụi thô. Kết quả cho thấy, các nguồn có mức  
đóng góp khác nhau vào nồng độ bụi khi khối khí  
đến Hà Nội xuất phát từ các hướng khác nhau. Phần  
vận chuyển từ xa chiếm 50%, 34% và 33% nồng độ  
PM , tương ứng với khối khí nhóm 1, 2 và 3. Trong  
các 2n.5hóm khối khí, nồng độ bụi PM2.5 tương ứng với  
nhóm số 2 có sự đóng góp lớn nhất của nguồn thứ cấp  
11%. Từ kết quả, có thể nhận thấy, ngoài phần phát  
thải sơ cấp, vận chuyển từ xa, phần thứ cấp cũng đóng  
góp đáng kể lên nồng độ bụi. Kết quả phân bổ nguồn  
từ 3 nghiên cứu trên có những sự khác biệt. Nguyên  
nhân đầu tiên liên quan đến thời gian và địa điểm đo  
đạc. Sự đóng góp của các nguồn có thể thay đổi theo  
thời gian và không gian. Nguyên nhân thứ hai liên  
quan đến loại thông số thành phần bụi đưa vào mô  
hình. Ví dụ như trường hợp các thành phần hóa học  
điển hình của một nguồn nhất định không được đưa  
vào mô hình thì có thể mô hình sẽ không thể nhận  
dạng được nguồn đó. Do đó, sự khác biệt trong loại  
thành phần bụi được sử dụng trong ba nghiên cứu  
trên cũng có thể góp phần dẫn đến sự khác biệt trong  
nhận dạng và phân bổ nguồn.  
3. Nguồn/nguyên nhân hình thành bụi PM2.5  
và các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ, thành phần  
bụi PM2.5  
2.1. Nguồn/nguyên nhân hình thành bụi PM2.5  
Hiện nay, có hai hướng tiếp cận chính để định  
lượng mức đóng góp của các nguồn thải hay phân bổ  
nguồn (source apportionment) đó là: i) Dựa vào mô  
hình tiếp nhận và ii) Dựa vào mô hình vận chuyển  
hóa học (hay còn gọi là mô hình khuyếch tán). Ngoài  
ra còn nhiều phương pháp khác cho phép nhận dạng  
và phần nào định lượng nguồn thải.  
Mô hình tiếp nhận sử dụng số liệu đầu vào là số  
liệu vật lý/hóa học của chất ô nhiễm, đặc biệt là bụi  
tại nơi tiếp nhận. Có hai mô hình được sử dụng chủ  
yếu để nhận dạng, định lượng mức đóng góp của các  
nguồn (phân bổ nguồn), gồm: Mô hình cân bằng khối  
lượng hóa học (CMB), nhân tố hóa ma trận dương  
(PMF). Một số mô hình khác được sử dụng chủ yếu  
để nhận dạng nguồn là: Mô hình phân tích nhân tố  
(FA), phân tích thành phần chính (PCA)... Mô hình  
phân bổ nguồn dựa trên cân bằng vật chất, trong đó  
khối lượng của từng chất tại điểm tiếp nhận bằng tổng  
đóng góp từ các nguồn. Từ số liệu tại nơi tiếp nhận  
và thông tin đặc trưng hóa lý/hóa học (source profile)  
phân bổ nguồn sẽ được xác định. Có ba nghiên cứu  
điển hình đã định lượng được mức đóng góp của các  
nguồn lên nồng độ PM tại Hà Nội đều sử dụng mô  
hình PMF. Cohen và c2s.5[11] đã xác định mức đóng  
góp của các nguồn vào nồng độ PM ở Hà Nội (trạm  
Láng) vào giai đoạn 2001 - 2008 là:2G.5 iao thông (40 ±  
10)%; bụi đất (3.4 ± 2)%; phần sunphat thứ cấp (7.8 ±  
10)%; đốt sinh khối (13 ± 6)%; công nghiệp hợp kim  
sắt và xi măng (19 ± 8)%; đốt than (17 ± 7)%. Tác giả  
Cao Dũng Hải và Nguyễn ị Kim Oanh [16] đã xác  
định nguồn đóng góp đến nồng độ bụi PM2.5 tại một  
điểm đo hỗn hợp ở Hà Nội vào thời gian 12/2006 -  
Hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu sử dụng mô  
hình vận chuyển hóa học để xác định nguồn ÔNKK ở  
Hà Nội do sự thiếu hụt các số liệu kiểm kê chính xác.  
Một báo cáo về nguồn của bụi PM2.5 dựa trên mô hình  
GAINS đã xác định mức đóng góp của các nguồn nội  
sinh và bên ngoài bao gồm: Nguồn tự nhiên và các  
nguồn khác; nhiệt điện và gia nhiệt; công nghiệp lớn;  
công nghiệp nhỏ; đốt dân dụng; giao thông; đốt rác  
nông nghiệp; sử dụng phân bón và vật nuôi trong  
2/2007 là: Phần thứ cấp hỗn hợp (40%); nhiên liệu nông nghiệp; rác thải [20].  
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 11  
Sự đóng góp của nguồn nhiệt điện đốt than lên  
4. Nghiên cứu tại Việt Nam và trong khu vực  
nồng độ bụi tại Hà Nội là một đề tài được tranh luận về các đợt ô nhiễm và nguyên nhân/cơ chế hình thành  
rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng  
4.1. Nghiên cứu trong khu vực  
và mạng xã hội tại Việt Nam. Trong 3 mô hình tiếp  
Trong khu vực đã có nhiều nghiên cứu về nồng  
nhận đã trình bày ở trên, chỉ có 1 mô hình thể hiện  
độ, thành phần, cơ chế và ảnh hưởng đến sức khỏe  
mức độ đóng góp của nguồn đốt nhiệt điện đốt than  
của các đợt ô nhiễm hay khói mù (haze).  
nằm trong phần đốt than nói chung là (17 ± 7)%  
Tại Trung Quốc, sau sự kiện xảy ra các đợt nồng  
độ ô nhiễm cao kéo dài vào năm 2013, nhiều nhà  
khoa học đã tập trung tìm hiểu đặc trưng nồng độ  
và cơ chế khiến cho nồng độ bụi tăng cao vào các  
đợt ô nhiễm [23]. Kết quả cho thấy, tại nhiều địa  
phương, mức đóng góp của phần thứ cấp lên nồng  
độ bụi PM2.5 vào các đợt ô nhiễm lớn hơn thời điểm  
bình thường. Hay nói cách khác, việc hình thành bụi  
thứ cấp với tốc độ cao hơn đã góp phần làm gia tăng  
đáng kể nồng độ trong các đợt ô nhiễm. Điều kiện  
khí tượng ảnh hưởng lên tốc độ hình thành bụi thứ  
cấp cũng đã được nghiên cứu. Một nghiên cứu gần  
đây tại quốc gia này cho thấy, phần ô nhiễm thứ cấp  
hữu cơ và vô cơ chiếm ưu thế trong các đợt ô nhiễm  
với độ ẩm cao, trong khi đó, phần sơ cấp chiếm ưu  
thế trong các đợt ô nhiễm với độ ẩm thấp và điều kiện  
khí tượng tù đọng [24].  
[11]. Một nghiên cứu sử dụng mô hình vận chuyển  
hóa học GEOS-Chem đã tính toán các nhà máy nhiệt  
điện than ở Việt Nam đóng góp 3 µg/m3 (trung bình  
năm) lên nồng độ PM ở miền Bắc Việt Nam vào  
năm 2011 [21]. Bên c2.5nh đó, một nghiên cứu sử  
dụng mô hình quỹ đạo khối khí HYSPLIT, PMF với  
bộ số liệu như nghiên cứu [11] (thời điểm 2001 -  
2008) đã xác định số ngày ô nhiễm bởi nguồn đốt  
than là 25 trong số 748 ngày nghiên cứu [22]. Tiêu  
chí để xác định những ngày ô nhiễm bởi nguồn đốt  
than là khi mức đóng góp của nguồn này lên nồng độ  
bụi PM2.5> 30 µg/m3. Có 3 nhà máy nhiệt điện Việt  
Nam và 7 nhà máy Trung Quốc nằm trong quỹ đạo  
của các khối khí tới Hà Nội vào ngày ô nhiễm do đốt  
than. Những nhà máy khác có tần suất khối khí này  
đi qua không đáng kể. Tần suất các khối khí đi qua 3  
nhà máy tại Việt Nam là 15%.  
Một nghiên cứu tại Malaixia cũng cho thấy, vào  
giai đoạn khói mù, phần thứ cấp vô cơ đóng góp lên  
nồng độ bụi PM2.5 nhiều hơn 2, 3 lần so với giai đoạn  
trước và sau đó [25].  
Các thông tin trên đây cho thấy, thông tin/số liệu  
về nguồn đóng góp đến nồng độ bụi PM tại Hà  
Nội chưa đầy đủ, đặc biệt là những số liệu2.m5 ới. Độ  
chính xác của các số liệu cũng cần được cải thiện. Để  
có thể thu được số liệu tốt về nguồn đóng góp lên  
bụi PM ,việc chuẩn hóa hoạt động kiểm kê nguồn  
thải chí2n.5h để làm dữ liệu đầu vào cho mô hình vận  
chuyển hóa học là rất cần thiết. Ngoài ra cũng cần  
tiếp tục tiến hành quan trắc/phân tích đặc tính hóa  
lý của bụi để làm đầu vào cho mô hình tiếp nhận.  
4.2. Nghiên cứu tại Việt Nam  
Hà Nội có nhiều ngày nồng độ PM2.5 cao hơn mức  
quy định trong Quy chuẩn là 50 µg/m3 [4]. Những  
đợt ô nhiễm (episode) bụi, với tiêu chí là nồng độ  
bụi PM2.5 > 100 µg/m3, xảy ra 13 lần trong thời gian  
10/2016 - 3/2017 [19]. Vào một đợt ô nhiễm được  
phân tích, nồng độ bụi PM2.5 tăng cao vào ban đêm,  
muộn hơn vài giờ so với thời điểm nồng độ CO tăng  
cao [19]. Nếu điều kiện khí tượng tù đọng chỉ đơn  
thuần làm các chất ô nhiễm tích tụ lại thì nồng độ  
PM2.5, CO phải tăng đồng thời. Việc nồng độ PM2.5  
tăng cao sau CO gợi ý khả năng tốc độ lớn lên và  
hình thành của bụi được tăng lên. Sự gia tăng tốc độ  
phản ứng tạo thành phần thứ cấp được dự đoán. Mức  
đóng góp của phần thứ cấp lên nồng độ bụi PM2.5  
vào các đợt ô nhiễm có thể được đánh giá đựa vào  
kết quả phân tích nồng độ bụi trong giai đoạn này.  
Tuy nhiên, hiện nay chưa có công bố nào về bộ số  
liệu này.  
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ  
và thành phần của bụi PM2.5  
Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của  
các yếu tố khí tượng lên biến thiên nồng độ bụi PM2.5  
[14, 16, 17, 18]. Một nghiên cứu sử dụng mô hình  
hồi quy cho thấy, có nhiều thông số khí tượng ảnh  
hưởng đến biến thiên nồng độ bụi, trong đó, tốc  
độ gió và nhiệt độ là ảnh hưởng đáng kể đến biến  
thiên theo ngày của nồng độ bụi PM2.5; mưa và độ  
ẩm tương đối có ảnh hưởng đáng kể đến biến thiên  
theo ngày của PM2.5-10 [17]. Một số nghiên cứu đã xác  
định tính quy luật của hiện tượng tăng nồng độ một  
số chất ÔNKK sau mỗi đợt gió lạnh tràn về (cold  
surge) [14, 18]. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, điều  
Để có thể ứng phó/kiểm soát các đợt ô nhiễm  
kiện khí tượng bất lợi, bao gồm nghịch nhiệt dẫn đến nồng độ cao, việc hiểu rõ cơ chế hình thành các đợt ô  
việc gia tăng nồng độ chất ÔNKK trong đợt ô nhiễm nhiễm này là rất quan trọng. Trong trường hợp phần  
[14]. Việc gia tăng nồng độ chất ô nhiễm sau mỗi đợt bụi thứ cấp đóng góp đáng kể lên nồng độ bụi vào các  
gió lạnh tràn về cũng được ghi nhận tại một số nước đợt ô nhiễm thì việc kiểm soát các khí tiền chất hình  
xung quanh.  
thành nên phần bụi thứ cấp rất quan trọng.  
12 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021  
TRAO ĐỔI - THẢO LUẬN  
5. Kết luận  
thiên nồng độ bụi chịu ảnh hưởng của các yếu tố  
khí tượng.  
Tổng quan này đã tổng hợp và phân tích hiện  
trạng, nguồn, các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ  
Sự đóng góp đáng kể của phần bụi thứ cấp lên  
bụi PM tại Hà Nội. Trong thời gian qua, nồng độ nồng độ bụi PM vào một số đợt ô nhiễm cũng như  
PM tr2u.5ng bình năm tại Hà Nội luôn cao hơn Quy  
chu2.5n kỹ thuật quốc gia, QCVN 05:2013/BTNMT  
và mức khuyến nghị của WHO. Nồng độ bụi PM2.5  
không có xu hướng tăng lên nhưng cần được tiếp  
tục kiểm soát để đạt mức quy định trong Quy chuẩn  
và tiến tới đạt mức khuyến nghị của WHO. Bên  
cạnh các nguồn tại chỗ, nồng độ PM được đóng  
việc hình thành2c.5ác đợt này được dự đoán dựa trên  
các quả nghiên cứu hiện tại ở Việt Nam và khu vực.  
Một số kiến nghị về các hoạt động cần thiết để cải  
thiện chất lượng không khí cũng đã được trình bày.  
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi  
Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia  
góp bởi vận chuyển từ xa và phần bụi 2t.h5 ứ cấp. Biến (NAFOSTED) trong Đề tài mã số 105.99-2019.322  
respiratorD admissions among Doung children in Hanoi,  
Vietnam" Sci Total Environ, 578, p. 249 - 255, 2017.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Landrigan, P.J., Fuller, R., Acosta, N.J.R., AdeDi, O.,  
Arnold, R., Basu, N.N., Baldé, A.B., Bertollini, R., Fuster,  
V., Greenstone, M., Haines, A., Hanrahan, ;., Hunter, ;.,  
Khare, M., Krupnick, A., Lanphear, B., Lohani, B., Martin,  
K., Mathiasen, K. V., Mcteer, M. A., MurraD, C.J.L.,  
Ndahimananjara, J.;., Perera, F., Potočnik, J., Preker,  
A.S., Ramesh, J., Rockström, J., Salinas, C., Samson, L. ;.,  
SandilDa, K., SlD, P.;., Smith, K.R. and Steiner, A., "e  
Lancet Commission on pollution and health," 2017.  
2. Cohen, A. J., Brauer, M., Burnett, R., Anderson, H. R.,  
Frostad, J., Estep, K., … Forouzanfar, M. H. "Estimates and  
25-Dear trends of the global burden of disease attributable to  
ambient air pollution: An analDsis of data from the Global  
Burden of ;iseases StudD (2015)", e Lancet, 389(10082),  
p.1907 - 1918, 2019.  
3. Hoang Anh L., Nam ;.T., Luan V.N, "Ô nhiễm bụi PM  
tại một số thành phố ở Viêt Nam - Biến động theo không  
gian, thời gian của PM10 và PM2.5" Tạp chí Môi trường. Số  
chuDên đề IV năm 2018, 2018.  
4. Luận V.N. và Trà M.T.M, "Ô nhiễm bụi mịn (PM ) tại  
một số thành phố châu Á" Tạp chí Môi trường. Số C2h.5uDên  
đề tháng 4 năm 2019, 2019.  
5. Phạm Ngọc Đăng, "Đánh giá diễn biến chất lượng không  
khí một số đô thị nước ta và đề xuất giải pháp cải thiên"  
Tạp chí Môi trường. Số 2/2021, 2020.  
6. Vu, V.T., Shi, Z., Cheng, J., Zhang, Q., He, K., Wang, S.,  
Harison, M.R., "Assessing the impact of clean air action  
on air qualitD trends in Beijing using a machine learning  
technique" Atmos. Chem. PhDs. 19, pp. 11303 - 11314, 2019.  
7. NguDen, T.N.T., Le, H.A., Mac, T.M.T., NguDen, T.T.N.,  
Pham, V.H., Bui, Q.H., "Current status of PM and its  
mitigation in Vietnam" Glob. Environ. Res. 22,2p.5p. 073 -  
083, 2018.  
8. Nhung N.T.T., Schindler C., ;ien T.M., Probst-Hensch N.,  
Perez L., Künzli N., "Acute effects of ambient air pollution on  
lower respiratorD infections in Hanoi children: An eight-Dear  
time series studD,=" Environ Int. 110, pp. 139 - 148, 2018.  
10. Hopke, P.K., Cohen, ;.;., Begum, B.A, Biswas, S.K., Ni, B.,  
Pandit, G.G., Santoso, M., Chung, Y. S., ;avD, P., Markwitz,  
A., Waheed, S., Siddique, N., Santos, F.L., Pabroa, P.C.B.,  
Seneviratne, M.C.S., Wimolwattanapun, W., Bunprapob,  
S., Vuong, T.B., Hien, "Urban air qualitD in the Asian  
region" Sci. Total Environ., p. 404 103 - 112, 2008.  
11. Cohen, ;.;., Crawford, J., Stelcer, E. and Bac, V.T.,  
"Characterisation and source apportionment of fine  
particulate sources at Hanoi from 2001 to 2008" Atmos.  
Environ. 44 (3), pp. 320 - 328, 2010a.  
12. Phạm Ngọc Hóa, "Tính toán mức độ đóng góp của bụi  
PM2.5, PM1 trong bụi PM10 tại khu vực Long Biên, Hà Nội  
và khả năng ảnh hưởng của chúng đến sức khỏe con người"  
Luận văn thạc sĩ khoa học, Trường Đại học Khoa học Tự  
nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội., 2015.  
13. Hien, P. ;., V. T. Bac, and N. T.H. inh., "PMF Receptor  
Modelling of Fine and Coarse PM10 in Air Masses  
Governing Monsoon Conditions in Hanoi, Northern  
Vietnam," Atmospheric Environment 38(2) , p. 189 - 201,  
2004.  
14. Hien, P.;., Loc, P.;., & ;ao, N.V., "Air pollution episodes  
associated with East Asian winter monsoons" Science of the  
Total Environment, 409(23), p. 5063 - 5068, 2011.  
15. Tổng cục Môi trường, "Báo cáo Hiên trạng môi trường quốc  
gia giai đoạn 2011 - 2015" 2015.  
16. Hai C.;, Kim Oanh N.T., "Effects of local, regional  
meteorologDandemissionsourcesonmassandcompositions  
of particulate matter in Hanoi" Atmos. Environ. 78, pp. 105  
- 122, 2013.  
17. Hien, P.;., Bac, V.T., am, H.C., Nhan, ;.;., & Vinh,  
L.;., " Influence of meteorological conditions on PM2.5  
and PM2.5-10 concentrations during the monsoon season  
in Hanoi, Vietnam" Atmospheric Environment, 36(21), p.  
3473 - 3484, 2002.  
18. Bich-uD L., Matsumi Y., NakaDama T., Sakamoto Y.,  
Kajii Y., and Nghiem ;. T., "Characterizing PM2.5 in Hanoi  
with new high temporal resolution sensor" Aerosol Air  
Qual. Res. 18(9), pp. 2487 - 2497, 2018.  
9. Luong L.M., Phung ;., SlD P.;., Morawska L, T.P.,  
"e association between particulate air pollution and  
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 13  
19. Bich uD L., Matsumi Y., Tuan V.V., Sekiguchi K., u-  
uD N., Chau-uD P., Trung-;ung N., Ich-Hung N.,  
Kurotsuchi Y., u-Hien N., NakaDamT., "e effects of  
meteorological conditions and long-range transport on  
PM2.5 levels in Hanoi revealed from multi-site measurement  
using compact sensors and machine learning approach." J.  
Aerosol Science, 152, 105716, 2021.  
F., Zotter, P., Wolf, R., Pieber, S.M., Bruns, E.A., Crippa, M.,  
Ciarelli, G., Piazzalunga, A., Schwikowski, M., Abbaszade,  
G., Schnelle-Kreis, J., Zimmermann, R., An, Z., Szidat, S.,  
Baltensperger, U., Haddad, I.E. and Prévôt, A.S.H., "High  
secondarD aerosol contribution to particulate pollution  
during haze events in China" Nature, 514, pp. 218 - 222,  
2014.  
20. Koplitz, S.N., Jacob, ;.J., Sulprizio, M.P., MDllDvirta, L., 23. Huang R., Wang Y., Cao J., Lin C., ;uan J., Chen Q., …  
Reid C., "Burden of ;isease from Rising Coal-Fired Power  
Plant Emissions in Southeast Asia" Environmental Science  
& TechnologD, 51(3), pp. 1467 - 76, 2017.  
;owd, C. ;. O., "PrimarD emissions versus secondarD  
formation of fine particulate matter in the most polluted citD  
(Shijiazhuang ) in North China" Atmospheric ChemistrD  
and PhDsics, 19, p. 2283 - 2298, 2019.  
21. Cohen, ;.;., Crawford, J., Stelcer, E. and Bac, V.T., "Long  
range transport of fine particle windblown soils and coal 24. Sulong N.A., Latif M.T., Khan M.F., Amil N., Ashfold  
fired power station emission into Hanoi between 2001 to  
2008" Atmos. Environ. 44 (31), pp. 3761 - 3769, 2010b.  
M.J., Wahab M.I.A., Chan K.M., Sahani M., "Source  
apportionment and health risk assessment among specific  
age groups during haze and non-haze episodes in Kuala  
Lumpur, MalaDsia" Sci Total Environ, pp. 601 - 602:556-  
570, 2017.  
22. Huang, R.J., Zhang, Y., Bozzetti, C., Ho, K.F., Cao, J.J., Han,  
Y., ;aellenbach, K.R., Slowik, J.G., Platt, S.M., Canonaco,  
OCCURRENCE, SOURCES AND AFFECTED FACTORS OF PM2.5 IN  
HANOI: A REVIEW  
Ly Bich uy*, Van Dieu Anh  
School of Environmental Science and TechnologD  
ABSTRACT  
Air pollution, especially PM2.5, has recently raised a great concern due to its adverse effects on the  
environment and public health. PM2.5 is particulate matter with an aerodynamic diameter less than or equal  
to 2.5 µm. PM2.5 causes serious health effects and economic impacts worldwide. In Vietnam, the monitoring  
data showed that the annual PM2.5 concentration in many places was higher than the permitted levels of  
national technical regulation, QCVN 05:2013/BTNMT (25 µg/m3) and recommendation level of World  
Health Organization (WHO) (10 µg/m3). Daily concentration of PM2.5 also exceeded the permitted values of  
national regulation (50 µg/m3) and the recommendation level of WHO (25 µg/m3) in many days of the year.  
Studies showed that beside the primary sources there were contribution of long-range transportation and  
secondary formation to PM2.5 concentrations in Hanoi. e occurrence of pollution episodes with high PM2.5  
concentration (e.g. >100 µg/m3) has been reported, but the information on the composition and sources of  
PM2.5 in these periods has not been reported yet. Secondary formation is assumed to have a large contribution  
to PM2.5 concentration in pollution episodes. Source apportionment of PM2.5 pollution is important to plan  
effective pollution control.  
Key words: PM2.5, sources, episode, secondarD particulate matter.  
14 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021  
pdf 6 trang yennguyen 21/04/2022 820
Bạn đang xem tài liệu "Hiện trạng, nguồn và các yếu tố ảnh hưởng tới nồng độ bụi PM₂.₅ tại Hà Nội: Tổng quan các nghiên cứu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhien_trang_nguon_va_cac_yeu_to_anh_huong_toi_nong_do_bui_pm.pdf