Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng

Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020  
Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở  
bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng  
Dương Thị Bích Thuận1, Hoàng Thị Lan2, Hoàng Anh Dũng1, Nguyễn Đông Hải1  
(1) Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế  
(2) Bệnh viện Đa khoa Trung ương Quảng Nam  
Tóm tắt  
Một số nghiên cứu cho thấy folate receptor alpha (FRA) biểu hiện cao ở các khối u buồng trứng ác ꢀnh có  
nguồn gốc biểu mô. Chúng tôi ꢁến hành thực hiện đề tài với 2 mục ꢁêu chính là xác định nồng độ của folate  
receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng và khảo sát mối liên quan, tương  
quan giữa nồng độ folate receptor alpha huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh, phân loại mô bệnh  
học và giai đoạn bệnh. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang khảo sát 26 bệnh nhân ung  
thư biểu mô buồng trứng và 56 bệnh nhân có khối u buồng trứng lành ꢀnh. Các đối tượng này được ꢁến  
hành đo nồng độ folate receptor alpha huyết thanh, nồng độ CA125 huyết thanh, kết hợp với các thông ꢁn  
lâm sàng, cận lâm sàng. Kết quả: Trung vị nồng độ FRA huyết thanh của nhóm bệnh nhân ung thư biểu mô  
buồng trứng cao hơn rất nhiều so với nhóm có u buồng trứng không phải ung thư rất có ý nghĩa thống kê  
(1683,0 so với 6,1, p < 0,001) Với điểm cắt > 209,8pg/mL, xét nghiệm folate receptor alpha huyết thanh có  
giá trị chẩn đoán ung thư biểu mô buồng trứng với độ nhạy Se = 84,6%, độ đặc hiệu Sp = 98,2%, giá trị chẩn  
đoán dương ꢀnh PPV = 95,65%, giá trị chẩn đoán âm ꢀnh NPV = 93,22%, AUC = 0,978. Có sự liên quan, tương  
quan giữa nồng độ folate receptor alpha huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh, phân độ mô học và  
giai đoạn bệnh. Kết luận: Folate receptor alpha huyết thanh là một chỉ điểm sinh học mới ꢁềm năng để gợi ý  
giúp chẩn đoán ung thư buồng trứng.  
Từ khóa: folate receptor alpha huyết thanh, ung thư biểu mô buồng trứng.  
Abstract  
Serum folate receptor alpha levels in paꢀents of epithelial ovarian  
carcinoma  
Duong Thi Bich Thuan1, Hoang Thi Lan2, Hoang Anh Dung1, Nguyen Dong Hai1  
(1) Hue Univeristy of Medicine and Pharmacy, Hue University  
(2) Quang Nam Central General Hospital  
High expression of FRA is observed in malignant epithelial ovarian tumors. This study is aimed to  
determine of serum folate receptor alpha levels in paꢁents of epithelial ovarian carcinoma and to invesꢁgate  
the relaꢁonship between serum folate receptor alpha levels and serum CA125 levels and histopathological  
characterisꢁcs in paꢁents of epithelial ovarian carcinoma. Materials and methods: Cross-secꢁonal study was  
conducted on 26 paꢁents with epithelial ovarian carcinoma and 56 paꢁents with benign ovarian tumors.  
The subjects’ blood was collected to measure serum folate receptor alpha levels and serum CA125 levels.  
Informaꢁon of clinical and subclinical characterisꢁcs were collected. Results: Median of serum folate receptor  
alpha levels in paꢁents of epithelial ovarian carcinoma is higher than those with benign ovarian tumors  
(1683,0 compared with) 6.1, p < 0.001). With the cut-off point > 209.8 pg/mL, serum folate receptor alpha  
test has the diagnosꢁc value of epithelial ovarian carcinoma with Se = 84.6%, Sp = 98.2%, PPV = 95, 65%,  
NPV = 93.22%, AUC = 0.978. Levels of serum alpha folate receptor were highly correlated to levels of serum  
CA125, tumor grade, and clinical stage of the disease. Conclusions: We suggest that serum alpha folate  
receptor is a highly promising biomarker for epithelial ovarian carcinoma.  
Key words: serum folate receptor alpha, epithelial ovarian carcinoma.  
Địa chỉ liên hệ: Dương Thị Bích Thuận, email: duongthuan@huemed-univ.edu.vn  
Ngày nhận bài: 11/9/2020; Ngày đồng ý đăng: 29/10/2020  
DOI: 10.34071/jmp.2020.5.4  
24  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020  
-Nhóm so sánh: Gồm những bệnh nhân được  
chẩn đoán khối u buồng trứng lành ꢀnh bởi kết  
quả mô bệnh học vào viện điều trị từ tháng 4/2017  
đến tháng 7/2018 tại Khoa Phụ sản của Bệnh viện  
Trường Đại học Y Dược Huế (n = 56).  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Ung thư buồng trứng là một trong các bệnh lý ác  
ꢀnh phổ biến trong các bệnh ung thư phụ khoa với  
tỷ lệ tử vong cao vì các triệu chứng không dễ dàng  
phát hiện ở giai đoạn sớm [3], [8]. Kháng nguyên  
ung thư 125 (CA125) là chỉ điểm ung thư phổ biến  
và kinh điển nhất để phát hiện và theo dõi ung thư  
buồng trứng. Tuy nhiên, một trong những hạn chế  
của CA125 là độ nhạy thấp ở giai đoạn I của ung  
thư biểu mô buồng trứng nên không giúp ích trong  
việc phát hiện sớm [6]. Chất chỉ điểm này cũng tăng  
trong các loại ung thư khác và các bệnh lý lành ꢀnh  
của buồng trứng. Giá trị ꢁên đoán dương ꢀnh của  
CA125 chỉ khoảng 10% trong giai đoạn đầu của bệnh  
[2]. Vì vậy, việc ꢂm ra một chỉ điểm sinh học mới hiệu  
quả hơn trong việc chẩn đoán sớm và giúp phân biệt  
trường hợp dương ꢀnh giả khác là cần thiết. Folate  
receptor alpha là những protein màng liên kết với  
glycosyl-phosphaꢁdylinositol có trọng lượng phân  
tử 38-40 kDa. Một số nghiên cứu cho thấy biểu hiện  
folate receptor alpha cao được quan sát thấy ở các  
khối u ác ꢀnh có nguồn gốc biểu mô, bao gồm cả ung  
thư buồng trứng nhưng lại biểu hiện rất hạn chế ở  
các tế bào bình thường. Không chỉ có mặt trên bề  
mặt tế bào, folate receptor alpha còn có thể tách  
ra khỏi tế bào vào trong máu ở dưới dạng hòa tan.  
Ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào về xác định  
nồng độ của folate receptor alpha huyết thanh ở  
bệnh nhân ung thư buồng trứng, vì vậy chúng tôi  
ꢁến hành thực hiện đề tài với 2 mục ꢁêu chính:  
1. Xác định nồng độ của folate receptor alpha  
huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng  
trứng.  
-Tiêu chuẩn loại trừ:  
Bệnh nhân có khối u buồng trứng kèm có thai.  
Bệnh nhân có khối u buồng trứng kèm ung thư  
cơ quan khác như ung thư vú, ung thư cổ tử cung,  
ung thư đường ꢁêu hóa,…  
Bệnh nhân không hợp tác trong quá trình  
nghiên cứu.  
2.2. Phương pháp nghiên cứu  
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.  
Bệnh nhân đến khám nếu nghi ngờ có khối u  
buồng trứng dựa vào kết quả lâm sàng, cận lâm sàng  
thì sẽ được lấy máu bảo quản, ꢁến hành xét nghiệm  
CA125, đồng thời khai thác các thông ꢁn về ꢁền sử,  
bệnh sử. Sau đó, bệnh nhân được làm phẫu thuật và  
khối u buồng trứng được xét nghiệm giải phẫu bệnh.  
Tùy theo kết quả giải phẫu bệnh mà bệnh nhân sẽ  
được chia vào nhóm bệnh hay nhóm chứng.  
Tiến hành định lượng nồng độ folate receptor  
alpha huyết thanh bằng kit hóa chất ELISA dựa theo  
phương pháp hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme,  
Mẫu được đo trên máy Đọc quang phổ ELISA tự  
động với hóa chất hãng Abcam của Hoa Kỳ tại Bộ  
môn Ký sinh trùng Trường Đại học Y Dược Huế. Định  
lượng nồng độ CA125 trên máy xét nghiệm Cobas  
6000 hoặc Cobas 8000 sử dụng kỹ thuật miễn dịch  
điện hóa phát quang tại Đơn vị Xét nghiệm trung  
tâm, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế và Khoa  
Sinh hóa, Bệnh viện Trung ương Huế. Kết hợp thông  
ꢁn lâm sàng, mô bệnh học, giai đoạn bệnh.  
2.3. Xử lý số liệu sau khi thu thập bằng phương  
pháp thống kê y học với sự hỗ trợ của phần mềm  
SPSS 20.0, phần mềm Medcalc 18.2, Microsoꢃ  
Excel 2010.  
2. Khảo sát mối liên quan, tương quan giữa nồng  
độ folate receptor alpha huyết thanh với nồng độ  
CA125 huyết thanh, phân loại mô bệnh học và giai  
đoạn bệnh.  
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
2.1. Đối tượng nghiên cứu  
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
3.1. Nồng độ FRA huyết thanh, xác định điểm  
cắt, đánh giá độ nhạy, độ đặc hiệu của FRA huyết  
thanh tương ứng với điểm cắt  
3.1.1. Nồng độ FRA ở nhóm ung thư biểu mô  
buồng trứng và nhóm so sánh  
Phân phối của dữ liệu nồng độ FRA ở cả nhóm  
bệnh và nhóm so sánh đều không có phân phối  
chuẩn qua đánh giá bằng biểu đồ histogram, biểu  
đồ Q-Q và kiểm định Shapiro-Wilk (p < 0,05).  
-Nhóm bệnh: Gồm những bệnh nhân được chẩn  
đoán ung thư biểu mô buồng trứng bởi kết quả mô  
bệnh học, chưa điều trị bằng bất kỳ phương pháp  
nào (phẫu thuật, hóa trị, xạ trị) ở thời điểm được lấy  
mẫu máu bảo quản. Bệnh nhân vào viện từ tháng  
/
/
4 2017 đến tháng 7 2018 tại Khoa Phụ sản, Khoa  
Ung bướu Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế và  
Khoa Phụ sản, Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Trung  
ương Huế (n = 26).  
25  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020  
Bảng 1. Phân bố nồng độ FRA ở nhóm UTBMBT và nhóm so sánh  
Nồng độ FRA (pg/mL)  
Nhóm so sánh (n = 56)  
Nhóm bệnh (n = 26)  
1683,0  
Trung vị  
Q1  
6,1  
2,5  
301,5  
Q3  
4620,0  
23,5  
1,3  
Nhỏ nhất  
Lớn nhất  
Giá trị p  
47,1  
11100  
286,0  
p < 0,001  
Ở nhóm bệnh nhân UTBMBT với Q1 = 301,5 thì có khoảng > 75% giá trị nồng độ FRA lớn hơn 301,5. Với  
Q3 = 4620 thì có khoảng > 25% giá trị nồng độ FRA lớn hơn 4620. Trung vị nồng độ FRA của nhóm UTBMBT là  
1683, điều này có nghĩa là có khoảng < 50% giá trị nồng độ FRA nhỏ hơn 1683, hoặc có khoảng > 50% giá trị  
nồng độ FRA lớn hơn 1683. Trung vị nồng độ FRA của nhóm UTBMBT là 1683 cao hơn nhiều so với trung vị  
của nhóm so sánh là 6,1; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê qua kiểm định Mann-Whitney U (p < 0,001).  
Nồng độ FRA lớn nhất của nhóm UTBMBT là 11100, lớn hơn nhiều so với nhóm so sánh là 286.  
Nồng độ FRA nhỏ nhất của nhóm UTBMBT là 47,1, lớn hơn đáng kể so với nhớm so sánh là 1,3.  
3.1.2. Xác định điểm cắt của FRA ở nhóm ung thư biểu mô buồng trứng với nhóm so sánh  
:
Điểm cắt > 209,8 (pg/mL)  
AUC = 0,978  
Biểu đồ 1. Đường cong ROC biểu diễn độ nhạy và độ đặc hiệu của FRA  
3.1.3. Đánh giá độ nhạy và độ đặc hiệu của FRA tương ứng với các điểm cắt  
Bảng 2. Độ nhạy và độ đặc hiệu của FRA tương ứng với các điểm cắt  
Chỉ số  
FRA (n = 82)  
0,978 (0,953- 1,000)  
p < 0,001  
AUC (KTC 95%)  
Giá trị p  
Điểm cắt tối ưu  
Độ nhạy  
209,8  
84,6  
Độ đặc hiệu  
98,2  
Giá trị ꢁên đoán dương ꢀnh (KTC 95%)  
Giá trị ꢁên đoán âm ꢀnh (KTC 95%)  
95,65 (79,97 – 99,49)  
93,22 (83,06 – 96,11)  
Ghi chú: AUC: diện ꢀch dưới đường cong ROC; KTC 95%: khoảng ꢁn cậy 95%  
26  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020  
Với điểm cắt tối ưu của FRA huyết thanh > 209,8 pg/mLcho độ nhạy và độ đặc hiệu tối ưu (84,6% và 98,2%) và  
diện ꢀch dưới đường cong là AUC = 0,978, p < 0,001. Giá trị ꢁên đoán dương 95,65%, giá trị ꢁên đoán âm 93,22%.  
3.1.4. Khảo sát giá trị của nồng độ FRA huyết thanh và nồng độ CA125 huyết thanh trong chẩn đoán ung thư  
biểu mô buồng trứng  
Biểu đồ 2. Đường cong ROC tương ứng với xét nghiệm FRA huyết thanh và CA125 huyết thanh  
trong chẩn đoán ung thư biểu mô buồng trứng.  
Bảng 3. So sánh giá trị diện ꢀch dưới đường cong ROC của FRA huyết thanh và CA125 huyết thanh trong  
chẩn đoán ung thư biểu mô buồng trứng  
Xét nghiệm chẩn đoán  
FRA  
CA125  
AUC  
0,978  
0,956  
Giá trị p  
p < 0,001  
p < 0,001  
KTC 95%  
0,953 - 1,000  
0,902 - 1,000  
FRA huyết thanh có diện ꢀch dưới đường cong ROC (AUC = 0,978) cao hơn CA125 huyết thanh (AUC = 0,956)  
3.2. Tương quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh ở nhóm ung thư biểu  
mô buồng trứng  
rs: Hệ số tương quan spearman  
Biểu đồ 3. Tương quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh (n = 26)  
Có sự tương quan thuận khá chặt chẽ giữa nồng độ FRA huyết thanh với nồng độ CA125 huyết thanh (rs  
= 0,665; p < 0,001)  
27  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020  
3.3. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với phân loại mô bệnh học  
Bảng 4. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với phân loại mô bệnh học  
FRA huyết thanh (pg/mL)  
Phân loại  
Trung vị  
< 209,8  
≥ 209,8  
mô bệnh học  
n
4
%
n
22  
0
%
91,6  
0,0  
Ung thư biểu mô  
6,9  
1683,0  
3,55  
-
U nang thanh dịch  
U nang nhầy  
U nang bì  
16  
1
27,6  
1,7  
0
0,0  
24  
13  
58  
41,4  
22,4  
100,0  
1
4,2  
5,90  
12,15  
22,4  
U buồng trứng lành ꢀnh  
Tổng  
1
4,2  
24  
100,0  
Giá trị p  
p < 0,001  
K-W X2 = 50,978  
p < 0,001*  
*Giá trị p được ꢀnh sau khi loại bỏ trường hợp U nang nhầy.  
Trong nhóm ung thư biểu mô, tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ FRA huyết thanh ≥ 209,8 pg/mL cao hơn bệnh  
nhân có nồng độ FRA huyết thanh < 209,8 pg/mL.  
Trung vị của nhóm ung thư biểu mô cao hơn nhiều so với các nhóm khác, sự khác biệt có ý nghĩa thống  
kê. Do vậy có sự liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với phân loại mô bệnh học.  
3.4. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với phân độ của FIGO  
Bảng 5. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh với phân độ của FIGO  
FRA huyết thanh (pg/mL)  
Trung vị  
FIGO  
Giai đoạn II  
< 209,8  
≥ 209,8  
(pg/mL)  
n
1
2
1
4
%
n
3
%
25,0  
50,0  
25,0  
100,0  
13,6  
54,6  
31,8  
100,0  
296,0  
2715,0  
1683,0  
1683,0  
Giai đoạn III  
Giai đoạn IV  
Tổng  
12  
7
22  
p = 0,563*  
K-W X2 = 6,961  
Kiểm định  
p = 0,041  
* Fisher’s exact test; K-W X2: Kruskal Wallis Chisquare  
Không có trường hợp ung thư nào ở giai đoạn I  
UTBMBT giai đoạn III có giá trị trung vị FRA cao nhất 2715pg/mL, cao hơn so với giai đoạn II, IV. Sự khác biệt  
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Bệnh nhân giai đoạn IV có giá trị trung vị FRA là 1683pg/mL, cao hơn so với giai  
đoạn II là 296 pg/mL. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nhóm bệnh nhân có nồng độ FRA ≥ 209,8 pg/  
mL chiếm tỷ lệ cao thuộc giai đoạn III, IV.  
4. BÀN LUẬN  
độ đặc hiệu (so với nhóm so sánh) là tối ưu (84,6%  
và 98,2%). Điều này chứng tỏ FRA huyết thanh là  
một chất chỉ điểm rất tốt trong chẩn đoán ung thư  
biểu mô buồng trứng.  
4.1. Nồng độ FRA huyết thanh, xác định điểm  
cắt, đánh giá độ nhạy, độ đặc hiệu của FRA huyết  
thanh tương ứng với điểm cắt  
Dựa vào phần mềm xử lý đường cong ROC và  
ꢀnh diện ꢀch đường cong AUC, chúng tôi chọn điểm  
cắt của FRA huyết thanh. Biểu đồ 1 cho thấy đường  
cong ROC mô tả giá trị FRA huyết thanh xác định ung  
thư biểu mô buồng trứng có AUC = 0,978. Với điểm  
cắt FRA huyết thanh > 209,8 pg/mL cho độ nhạy và  
Dựa vào kết quả nghiên cứu ở bảng 1, nồng độ  
FRA huyết thanh lớn nhất là 11100 pg/mL trong  
nhóm ung thư biểu mô buồng trứng, cao hơn nhiều  
so với nhóm so sánh là 286 pg/mL.  
Giá trị trung vị của FRA huyết thanh của nhóm  
ung thư biểu mô buồng trứng là 1683 pg/mL, cao  
28  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020  
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm so sánh với giá  
trị trung vị FRA huyết thanh là 6,1 pg/mL (p < 0,001).  
Trong nghiên cứu của Akira Kurosaki và cộng sự,  
nồng độ FRA huyết thanh trung bình của bệnh nhân  
ung thư biểu mô buồng trứng ở nhóm độ tuổi dưới  
60 là (4504,2 ± 7663,9) pg/mL, ở nhóm ≥ 60 tuổi là  
(5316,1 ± 7869,1) pg/mL đều cao hơn so với nghiên  
cứu của chúng tôi với giá trị trung vị 1886 pg/mL (do  
nghiên cứu của chúng tôi nồng độ FRA là phân phối  
không chuẩn nên dùng giá trị trung vị thay cho giá  
trị trung bình) [2]  
Như vậy có thể thấy giá trị điểm cắt, giá trị trung  
vị nồng độ FRA huyết thanh ở bệnh nhân ung thư  
biểu mô buồng trứng theo nghiên cứu của chúng tôi  
thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Akira Kurosaki  
và cộng sự. Nguyên nhân khách quan có thể do  
nghiên cứu của Akira Kurosaki và cộng sự thực hiện  
trên người nước ngoài nên hằng số sinh học sẽ thay  
đổi so với người Việt Nam. Cỡ mẫu nghiên cứu của  
chúng tôi nhỏ hơn rất nhiều lần (n = 26), nồng độ  
FRA huyết thanh phân phối không chuẩn, cũng là  
nguyên nhân khiến cho kết quả của chúng tôi khác  
với nghiên cứu của Akira Kurosaki với cỡ mẫu lên tới  
231 bệnh.  
FRA là một dấu ấn sinh học mới cho ung thư buồng  
trứng [5].  
Qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi và một số  
tác giả ngoài nước đã cho thấy rằng FRA là chỉ điểm  
sinh học mới, rất có giá trị trong chẩn đoán và tầm  
soát ung thư biểu mô buồng trứng. Tuy nhiên, hiện  
nay vẫn còn ít nghiên cứu để có thể khẳng định chắc  
chắn giá trị của FRA huyết thanh trong chẩn đoán và  
tầm soát bệnh UTBMBT tốt hơn so với CA125 huyết  
thanh. Trong tương lai cần có nhiều nghiên cứu hơn  
nữa đi sâu hơn vào vấn đề này.  
4.2. Khảo sát giá trị của nồng độ FRA huyết  
thanh và nồng độ CA125 huyết thanh trong chẩn  
đoán ung thư biểu mô buồng trứng  
Theo kết quả nghiên cứu ở bảng 3, FRA huyết  
thanh có giá trị rất tốt (AUC > 0,9) giúp chẩn đoán  
phân biệt ung thư biểu mô buồng trứng và khối u  
buồng trứng lành ꢀnh, trong đó FRA huyết thanh  
có diện ꢀch dưới đường cong AUC = 0,978 cao hơn  
so với CA125 huyết thanh với AUC = 0,956 nên giá  
trị chẩn đoán của FRA huyết thanh cao hơn CA125  
huyết thanh.  
Nghiên cứu của Akira Kurosaki và cộng sự (2016)  
cũng cho kết quả tương tự, phân ꢀch đường cong  
ROC thể hiện giá trị AUC của FRA huyết thanh (0,79)  
cao hơn so với giá trị AUC của CA125 huyết thanh  
(0,78). Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị ꢁên đoán dương  
ꢀnh, giá trị ꢁên đoán âm ꢀnh của FRA huyết thanh  
tương ứng là 59,4%, 97,9%, 97,4%, 63,6% đều cao  
hơn CA125 huyết thanh với các giá trị tương ứng là  
58,6%, 89,3%, 88,2%, 61% [2].  
Tuy nhiên, nhận thấy rằng trong cả hai nghiên  
cứu đều cho kết quả diện ꢀch dưới đường cong  
AUC khá cao (0,978 và 0,79), độ nhạy, độ đặc hiệu,  
giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm đều  
cao, điều này gợi ý rằng FRA huyết thanh rất có giá  
trị trong chẩn đoán và tầm soát ung thư biểu mô  
buồng trứng.  
Theo nghiên cứu của tác giả Daniel J O’Shannessy  
và cộng sự (2013) trên 258 phụ nữ bị ung thư biểu  
mô buồng trứng và 60 phụ nữ bình thường cùng lứa  
tuổi làm nhóm chứng, tất cả bệnh nhân đều được  
lấy mẫu máu trước mổ và ꢁến hành đo nồng độ  
FRA huyết thanh, nồng độ trung bình của FRA huyết  
thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng  
là (1680 ± 5870) pg/mL cao hơn nhiều so với nhóm  
chứng là (341 ± 122) pg/mL. Qua phân ꢀch đường  
cong ROC cho kết quả diện ꢀch dưới đường cong  
AUC = 0,80 (p < 0,0001), điều này cũng gợi ý rằng  
FRA có ꢁềm năng đáng kể như là một dấu ấn sinh  
học cho ung thư biểu mô buồng trứng [7].  
Theo nghiên cứu của tác giả F. Leung và cộng  
sự (2013) trên 100 phụ nữ bị ung thư buồng trứng,  
100 phụ nữ có u lành buồng trứng, 100 phụ nữ  
khỏe mạnh, qua phân ꢀch đường cong ROC cho  
kết quả diện ꢀch dưới đường cong AUC = 0,87 (so  
sánh 100 phụ nữ khỏe mạnh với 100 phụ nữ bị ung  
thư buồng trứng) và AUC = 0,85 (so sánh 100 phụ  
nữ bị u lành buồng trứng với 100 phụ nữ bị ung  
thư buồng trứng), điều này mở ra một triển vọng  
4.3. Tương quan giữa nồng độ FRA huyết thanh  
với nồng độ CA125 huyết thanh ở nhóm ung thư  
biểu mô buồng trứng.  
Chất chỉ điểm sinh học CA125 huyết thanh được  
phát hiện vào năm 1981 và trở thành cột mốc quan  
trọng trong lộ trình phát triển phương pháp ꢁếp cận  
không xâm lấn và sinh hóa để chẩn đoán UTBMBT.  
Trong thực tế, đo CA125 có một số hạn chế lâm  
sàng, bởi vì nồng độ CA125 huyết thanh tăng cao  
chỉ được quan sát thấy trong ít hơn một nửa số  
bệnh nhân UTBMBT giai đoạn sớm và khoảng 80%  
bệnh nhân UTBMBT. Ngoài ra, nồng độ CA125 trong  
huyết thanh có thể bị ảnh hưởng bởi các rối loạn  
phụ khoa lành ꢀnh thông thường như bệnh u xơ tử  
cung, lạc nội mạc tử cung và bệnh viêm vùng chậu,  
phổ biến hơn ở phụ nữ ꢁền mãn kinh. Do đó, đã có  
một nhu cầu cấp bách cho sự phát triển của một  
chất chỉ điểm sinh học mới với độ chính xác cao hơn  
[4]. Theo nghiên cứu của Akira Kurosaki và cộng sự  
(2016), phân ꢀch đường cong ROC thể hiện giá trị  
AUC của FRA huyết thanh (0,79) cao hơn so với giá  
trị AUC của CA125 huyết thanh (0,78). Độ nhạy, độ  
29  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020  
đặc hiệu, giá trị ꢁên đoán dương ꢀnh, giá trị ꢁên  
đoán âm ꢀnh của FRA huyết thanh tương ứng là  
59,4%, 97,9%, 97,4%, 63,6% đều cao hơn CA125  
huyết thanh với các giá trị tương ứng là 58,6%,  
89,3%, 88,2%, 61% [2]. Theo nghiên cứu của chúng  
tôi, dựa vào biểu đồ 2 nhận thấy có sự tương quan  
thuận khá chặt chẽ giữa nồng độ FRA huyết thanh  
với nồng độ CA125 huyết thanh thanh (rs = 0,665; p  
< 0,001), chứng tỏ xét nghiệm FRA huyết thanh cũng  
có giá trị trong chẩn đoán và theo dõi ung thư biểu  
mô buồng trứng. Điều này gợi ý trên lâm sàng nếu  
gặp bệnh nhân có khối u buồng trứng thì có thể chỉ  
định đồng thời hai xét nghiệm này để làm tăng giá  
trị chẩn đoán.  
được giá trị chẩn đoán sớm ở bệnh nhân UTBMBT  
giai đoạn này.  
Kếtqucachúngtôicũngtươngđồngvinghiên  
cứu của Akira Kurosaki và Daniel J O’Shannessy.  
Qua các kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ  
FRA huyết thanh tăng ở giai đoạn III và IV cao hơn  
nhiều so với giai đoạn III. Điều đó phần nào chứng  
tỏ nồng độ FRA huyết thanh có mối liên quan với giai  
đoạn bệnh: bệnh nhân thuộc giai đoạn càng muộn  
nồng độ FRA huyết thanh càng cao.  
Tuy nhiên, vì hạn chế của đề tài là số lượng mẫu  
nghiên cứu nhỏ (n = 26) nên kết quả có thể chưa phản  
ánh một cách toàn diện và cần có những nghiên cứu  
với cỡ mẫu lớn hơn để khẳng định thêm về giá trị của  
xét nghiệm folate receptor alpha trong chẩn đoán,  
ꢁên lượng, và theo dõi bệnh.  
4.4. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết  
thanh với phân loại mô bệnh học.  
Theo nghiên cứu của chúng tôi, ở bảng 3, trong  
nhóm ung thư biểu mô, tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ  
FRA huyết thanh > 209,8 pg/mL cao hơn bệnh nhân  
có nồng độ FRA huyết thanh < 209,8 pg/mL.  
5. KẾT LUẬN  
Qua nghiên cứu 82 bệnh nhân, trong đó 26 bệnh  
nhân ung thư biểu mô buồng trứng và 56 bệnh nhân  
có khối u buồng trứng lành ꢀnh, chúng tôi rút ra  
được một số kết luận sau:  
- Giá trị trung vị của folate receptor alpha huyết  
thanh nhóm ung thư biểu mô buồng trứng là 1683  
pg/mL cao hơn nhiều so với nhóm bệnh nhân u lành  
buồng trứng là 6,1 pg/mL.  
- Với điểm cắt folate receptor alpha huyết thanh  
>209,8 pg/mL, xét nghiệm folate receptor alpha  
huyết thanh có giá trị chẩn đoán ung thư biểu mô  
buồng trứng với độ nhạy, độ đặc hiệu rất cao, tương  
ứng là 84,6%, 98,2%, giá trị ꢁên đoán dương 95,65%,  
giá trị ꢁên đoán âm 93,22 % và diện ꢀch dưới đường  
cong là AUC = 0,978.  
Theo nghiên cứu của Akira Kurosaki và cộng sự,  
ung thư buồng trứng không phải biểu mô cho nồng  
độ FRA huyết thanh ở mức rất thấp so với ung thư  
biểu mô [2]. Trong nghiên cứu của chúng tôi ở nhóm  
bệnh chỉ có ung thư biểu mô buồng trứng, giá trị  
trung vị FRA huyết thanh của nhóm ung thư biểu mô  
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các khối u khác (p  
< 0,001). Do vậy, có sự liên quan giữa nồng độ FRA  
huyết thanh với phân loại mô bệnh học. Tuy nhiên, để  
khẳng định vấn đề này là đúng thì cần những nghiên  
cứu sâu hơn với cỡ mẫu lớn hơn.  
4.5. Mối liên quan giữa nồng độ FRA huyết thanh  
với phân độ của FIGO.  
Ở bảng 4, bệnh nhân ung thư biểu mô buồng  
trứng giai đoạn III, IV có giá trị trung vị FRA lần lượt  
là 2715 pg/mL, 1683 pg/mL cao hơn so với giai đoạn  
II là 296,0 pg/mL. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê  
(p < 0,05). Nghiên cứu của chúng tôi không có bệnh  
nhân UTBMBT giai đoạn I vì vậy chưa thể khảo sát  
- Có sự tương quan thuận khá chặt chẽ giữa  
nồng độ folate receptor alpha huyết thanh với nồng  
độ CA125 huyết thanh (rs = 0,665; p < 0,001).  
- Có sự liên quan giữa nồng độ folate receptor  
alpha huyết thanh với phân loại mô bệnh học và giai  
đoạn bệnh.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Võ Văn Đức (2011), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng  
và một số giá trị xét nghiệm trong chẩn đoán và theo  
dõi điều trị ung thư buồng trứng, Luận án Tiến sĩ Y học,  
Trường Đại học Y Dược Huế.  
2. Akira Kurosaki, Hasegawa Kosei, Kato Tomomi et al  
(2016), “Serum folate receptor alpha as a biomarker for  
ovarian cancer: Implicaꢁons for diagnosis, prognosis and  
predicꢁng its local tumor expression, Internaꢁonal Jour-  
nal of Cancer. 138(8), pp.1994-2002.  
3. Dong X, X Men, W Zhang et al (2014), “Advances  
in tumor markers of ovarian cancer for early diagnosis,  
Indian journal of cancer. 51(7), pp.72.  
4. Kim Yun Hwan, Seung Cheol Kim (2011), “Recent  
advances in the biomarkers for epithelial ovarian cancer,  
Journal of gynecologic oncology. 22(4), pp.219-221.  
5. Leung F, A Dimitromanolakis, Hiroshi Kobayashi et  
al (2013), “Folate-receptor 1 (FOLR1) protein is elevated in  
the serum of ovarian cancer paꢁents, Clinical biochemis-  
30  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 5, tập 10/2020  
try. 46(15), pp.1462-1468.  
parison to CA125 and HE4, Journal of Ovarian Research.  
6(1), pp.29.  
6. Moss EL, J HollingworthandTM Reynolds (2005),  
“The role of CA125 in clinical pracꢁce, Journal of clinical  
pathology. 58(3), pp.308-312.  
7. O’Shannessy Daniel J, Elizabeth B Somers, Leslie M  
Palmer et al (2013), “Serum folate receptor alpha, meso-  
thelin and megakaryocyte potenꢁaꢁng factor in ovarian  
cancer: associaꢁon to disease stage and grade and com-  
8. Van Calster Ben, Kirsten Van Hoorde, Lil Valenꢁn  
et al (2014), “Evaluaꢁng the risk of ovarian cancer before  
surgery using the ADNEX model to differenꢁate between  
benign, borderline, early and advanced stage invasive,  
and secondary metastaꢁc tumours: prospecꢁve mulꢁ-  
centre diagnosꢁc study, BMJ. 349, pp.2-4.  
31  
pdf 8 trang yennguyen 14/04/2022 3760
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu nghiên cứu nồng độ folate receptor alpha huyết thanh ở bệnh nhân ung thư biểu mô buồng trứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_nghien_cuu_nong_do_folate_receptor_alpha_huyet_than.pdf