Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam
BỘ Y TẾ
TỔNG CỤC DÂN SỐ
QUỸ DÂN SỐ LIÊN HỢP QUỐC
VÀ KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
BÁO CÁO TỔNG QUAN
VỀ
CHÍNH SÁCH CHĂM SÓC NGƯỜI GIÀ
THÍCH ỨNG VỚI THAY ĐỔI CƠ CẤU TUỔI TẠI VIỆT NAM
Nhóm nghiên cứu:
PGS. TS. PHẠM THẮNG
Viện trưởng Viện Lão khoa Quốc gia, Bộ Y tế
TS. ĐỖ THỊ KHÁNH HỶ
Phó viện trưởng Viện Lão khoa Quốc gia , Bộ Y tế
Email: vienlaokhoa@vnn.vn
Hà Nội-2009
I.
GIÀ HÓA DÂN SỐ: VẤN ĐỀ TOÀN CẦU TRONG THẾ KỶ 21
1. Xu hướng già hóa trên thế giới
Già hoá dân số đánh dấu thành công của chuyển đổi nhân khẩu học nhờ kết
hợp giảm nhanh, giảm mạnh mức chết và mức sinh trong đó giảm mức sinh là
yếu tố quyết định nhất dẫn đến làm thay đổi cơ cấu tuổi, phân bố dân số của từng
nhóm tuổi (tỷ lệ người trưởng thành và người cao tuổi tăng lên trong cơ cấu dân
số, tỷ lệ dân số trẻ so với tổng dân số giảm rõ rệt) và tuổi trung vị của dân số
không ngừng tăng lên. Để xem xét đánh giá vấn đề dân số già hóa, các nhà nhân
khẩu học dựa vào các chỉ số như tuổi thọ bình quân, tỷ lệ dân số 60 tuổi trở lên,
65 tuổi trở lên, tuổi trung vị1...
Ở hầu hết các nước phát triển, từ 65 tuổi trở lên được coi là người cao tuổi.
Tuy nhiên với nhiều nước đang phát triển thì mốc tuổi này không phù hợp. Hiện
tại chưa có một tiêu chuẩn thống nhất cho các quốc gia, tuy nhiên Liên Hợp quốc
chấp nhận mốc để xác định dân số già là từ 60 tuổi trở lên trong đó phân ra làm
ba nhóm: Sơ lão (60-69 tuổi), trung lão (70-79 tuổi) và đại lão (từ 80 tuổi trở
lên).
Ở Việt Nam, Pháp lệnh người cao tuổi quy định những người từ 60 tuổi trở
lên được coi là người cao tuổi. Khái niệm người cao tuổi được sử dụng thay cho
người cao tuổi vì thực tế nhiều người từ 60 tuổi trở lên, vẫn còn hoạt động, vì vậy
cụm từ "người cao tuổi " bao hàm tính kính trọng, động viên hơn so với cụm từ
"người cao tuổi". Tuy nhiên về khoa học thì người cao tuổi hay người cao tuổi
đều được dùng với ý nghĩa như nhau. Trong báo cáo này, những người từ 60 tuổi
trở lên được coi là người cao tuổi.
Già hoá diễn ra khi mức sinh giảm trong khi triển vọng sống duy trì không
đổi hoặc tăng lên ở các độ tuổi già. Trong giai đoạn 1950-2005, không chỉ mức tử
vong sơ sinh giảm mà mức tử vong ở tất cả những nhóm tuổi khác cũng giảm.
Mức sinh giảm ở hầu hết các nước trên thế giới. Thế kỷ XX đã chứng kiến một
cuộc cách mạng về tăng tuổi thọ. Tuổi thọ bình quân của thế giới đã tăng thêm 20
năm, dự kiến đạt mức 67,2 tuổi năm 2010 và 75,4 tuổi vào năm 2050. Kết quả là
1 Tuổi trung vị là tuổi chia dân số thành hai nhóm bằng nhau về lượng; có nghĩa là một nửa số dân thuộc nhóm trẻ
hơn và một nửa già hơn độ tuổi đó.
1
dân số của nhiều quốc gia sẽ già hoá nhanh chóng và số lượng quốc gia phải đối
mặt với thực trạng này ngày càng tăng. Thành tựu này cùng với kết quả tăng
trưởng dân số trong nửa đầu của thế kỷ XXI, dự báo trong giai đoạn 2005-2050,
một nửa lượng dân số gia tăng là do tăng số người trên 60 tuổi (60+), số trẻ em
dưới 15 tuổi sẽ giảm nhẹ. Dân số 60+ của thế giới sẽ tăng gấp ba từ 673 triệu (246
triệu sống ở các quốc gia phát triển) năm 2005 lên 2 tỷ vào năm 2050 (406 triệu ở
các quốc gia phát triển). Tỷ lệ người cao tuổi tăng từ 10% năm 1998 lên 15%
năm 2025.
Già hoá dân số sẽ trở thành một vấn đề lớn ở các nước đang phát triển, nơi
mà dân số sẽ bị già hoá nhanh chóng trong nửa đầu của thế kỷ XXI. Các nước
đang phát triển sẽ là nơi có tỉ lệ người cao tuổi tăng cao nhất và nhanh nhất, theo
dự báo số người cao tuổi ở khu vực này sẽ tăng gấp 4 lần trong vòng 50 năm tới.
Tỷ lệ người cao tuổi theo dự báo sẽ tăng từ 8% lên 19% vào năm 2025, trong khi
đó tỷ lệ trẻ em sẽ giảm từ 33% xuống 22%. Hơn một nửa dân số tuổi 80+ sống ở
những nước đang phát triển, dự báo sẽ tăng lên 71% vào năm 20502. Tốc độ già
hóa tại các nước đang phát triển ngày càng nhanh hơn tại các nước phát triển (ví
dụ Pháp mất khoảng 75 năm còn ở Singapore chỉ mất 19 năm), dẫn đến xảy ra
nguy cơ “Già trước khi giàu” chứ không phải “Giàu trước khi già”.
Tuổi trung vị của thế giới dự báo sẽ tăng từ 28
lên 38 tuổi 2050. Điều
2005
quan trọng hơn là nhóm dân số già nhất (80+) tăng nhanh hơn nhiều. Nếu dân số
60+ dự kiến tăng gấp ba vào năm 2050 thì nhóm dân số này tăng xấp xỉ 5 lần, từ
88 triệu năm 2005 lên 402 triệu năm 20503 .
Trong số người cao tuổi thì phụ nữ nhiều hơn nam giới. Tuổi càng tăng, sự
khác biệt này càng lớn. Hiện trạng của phụ nữ già ở khắp nơi trên thế giới đòi hỏi
sự ưu tiên trong các hành động chính sách. Sự lão hoá tác động lên phụ nữ và
nam giới một cách không giống nhau. Ý thức được điều này là yếu tố cần thiết để
đảm bảo sự bình đẳng nam nữ một cách đầy đủ và phát triển các biện pháp hiệu
quả nhằm giải quyết vấn đề. Do vậy, điều quan trọng là đưa sự khác nhau về giới
vào tất cả các chính sách, chương trình và luật pháp.
2 Liên Hợp Quốc, Triển vọng dân số thế giới phiên bản 2006
3 Liên Hợp Quốc, Triển vọng dân số thế giới phiên bản 2006
2
Có sự khác biệt lớn về phân bố dân số giữa các nước phát triển và đang
phát triển. Trong khi phần lớn người cao tuổi ở các nước phát triển sống ở thành
thị, thì phần lớn người cao tuổi ở các nước đang phát triển sống tại khu vực nông
thôn. Theo dự báo, đến năm 2025, 82% dân số ở các nước phát triển sẽ sống ở
thành thị, trong khi đó ở các nước đang phát triển tỷ lệ này chưa đến 50%.
Có sự khác nhau đáng kể giữa các nước phát triển và đang phát triển về
kiểu hộ gia đình mà trong đó người cao tuổi sinh sống. Ở các nước đang phát
triển phần lớn người cao tuổi sống trong gia đình có nhiều thế hệ. Sự khác biệt
này ngụ ý rằng các hoạt động chính sách đối với người cao tuổi sẽ không giống
nhau giữa các nước đã và đang phát triển.
2. Xu hướng già hóa tại Việt Nam:
Già hoá dân số sẽ là một thách thức lớn mà Việt Nam sẽ phải đối mặt trong
thời gian tới. Do những thành tựu đạt được trong lĩnh vực y tế và kế hoạch hoá
gia đình, mức sinh của nước ta đã giảm mạnh từ trung bình 4,8 con
xuống
1979
2,33 con 1999, và 2,07 con
và nâng tuổi thọ bình quân của Việt Nam từ 68,6
2007
tuổi 1999 lên 72,2 tuổi 2005, dự kiến sẽ là 75 tuổi vào năm 2020.4
Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn “dân số già” vào năm 20175. Người cao
tuổi không ngừng tăng lên cả về số tương đối và số tuyệt đối. Tỷ lệ người cao
tuổi (60+) trong tổng dân số đã tăng từ 6,9% 1979 lên 9,45% 2007,6 xấp xỉ ngưỡng
dân số già theo qui định của thế giới. Tỷ lệ này dự kiến là 11,24% vào năm 2020
7
và sẽ tăng lên tới 28,5% năm 2050 thuộc vào mức cao trong khối ASEAN sau
Xinh-ga-po (39,8%), Thái Lan (29,8%)8.
Nếu trong 10 năm (1979-89) số người cao tuổi chỉ tăng lên 930 nghìn
người thì trong 10 năm sau, số người cao tuổi tăng thêm là 1,55 triệu người.
4 Tổng cục Dân số, Bộ y tế
5 Một quốc gia bước vào giai đoạn già hoá khi tuổi trung vị tăng lên và tỷ lệ dân số trẻ giảm đi
6 Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra dân số 1979, Điều tra biến động dân số 1/4/2007.
7 Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em, Dự báo dân số, gia đình và trẻ em Việt Nam đến 2025, Hà Nội, 6/2006
8 Liên Hợp Quốc, Báo cáo triển vọng dân số thế giới phiên bản 2006
3
Bảng 1: Người cao tuổi ở Việt Nam: Số lượng và tỷ lệ 9
Năm
Số dân
(triệu người)
(2)
Số người trên 60 Tỷ lệ người trên 60
tuổi (triệu người)
tuổi (%)
(1)
(3)
(4) =( 3): (2)
53,74
64,41
76,32
85,1549
99,003
3,71
4,64
6,19
8,05
11,125
6,90
7,20
8,12
9,45
11,24
1979
1989
1999
2007
2020
Tuổi trung vị của dân số Việt Nam cũng tăng nhanh từ 18,3 tuổi 1979, lên
20,2 tuổi 1989, 23,2 tuổi 1999. Đến năm 2005, tuổi trung vị là 25,5 tuổi đánh dấu
thời điểm Việt Nam chấm dứt giai đoạn “dân số trẻ”. Dự báo tuổi trung vị của
dân số Việt Nam sẽ đạt mức 32,3 tuổi năm 2020 và 42,4 tuổi năm 205010.
Nhịp độ già hoá dân số ở nước ta trong thập niên 90 thế kỷ XX và 10 năm
đầu của thế kỷ XXI đã nhanh hơn nhiều so những năm 1980 ( từ 25% lên 33% và
35%), cao hơn nhịp độ tăng dân số (dân số tăng 20% và dân số già tăng 25% giai
đoạn 1979-89; còn trong giai đoạn 1989-99 các tỷ lệ tương ứng là 18% và 33%).
Nếu nhìn toàn bộ thời kỳ từ 1979 đến 2007, dân số tăng lên 1,61 lần còn dân số
cao tuổi tăng 2,17 lần11. Tốc độ già hoá của dân số nước ta khoảng 35 năm (tỷ lệ
người cao tuổi từ 7% năm 1990 tăng lên 14% năm 2025).
So sánh tỷ lệ dân số nhóm 60+ và tỷ lệ dân số trẻ (0-14) cũng cho thấy rõ
xu hướng già hoá của dân số Việt Nam. Chỉ số này đã tăng gần gấp rưỡi trong
giai đoạn 1989-99 và gần gấp đôi trong 10 năm tiếp theo. Nếu mức sinh tiếp tục
giảm, cùng với sự giảm của tỷ lệ chết và mức tăng tuổi thọ trung bình thì nguy cơ
già hóa sẽ gia tăng ngày càng nhanh.
Bảng 2: Chỉ số già hoá của Việt Nam qua các năm12
Năm
1979
16
1989
17
1999
24
2007
37
Chỉ số già hoá (%)
% (60+): % (0-14)
9 Nguyễn Đình Cử, Tạp chí Cộng sản số 24 (168) năm 2008.
10 Liên Hợp Quốc, Báo cáo triển vọng dân số thế giới phiên bản 2008
11 Nguyễn Đình Cử, Tạp chí Cộng sản số 24 (168) năm 2008
12 Tổng cục thống kê, Tổng điều tra dân số các năm 1979,1989, 1999 và Điều tra biến động dân số 1/4/2007
4
So với năm 1979, tỷ số phụ thuộc trẻ đã giảm mạnh tới hơn một nửa từ
84,2% xuống còn 39,2% vào năm 2007. Trong cùng thời kỳ, tỷ số phụ thuộc già
tăng lên không nhiều từ 13,8% lên 14,5%. Điều đó có nghĩa là tốc độ già hoá dân
số nhanh hơn tốc độ tăng của dân số trong độ tuổi lao động, số người sẽ đóng góp
chủ yếu cho khối của cải vật chất của xã hội, đổi mới khoa học và công nghệ
trong các ngành nghề kinh tế, dịch vụ (tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động của
Việt Nam tăng từ 50% năm 1979 lên 65% năm 2007, tăng thêm 15%) 13.
Trong bảng 3, cơ cấu giới tính của người cao tuổi nước ta có sự chênh lệch
lớn. Năm 1999, trong tổng số 6.136.399 người cao tuổi thì có 2.523.211 cụ ông
và 3.613.188 cụ bà. Nói cách khác, cứ 100 cụ ông thì có tới 143 cụ bà. Khi so
sánh ở từng nhóm tuổi thì thấy số cụ bà tăng dần lên theo từng nhóm tuổi, cứ 100
cụ ông thì có từ 129 (60-64) đến 238 (85+) cụ bà. Như vậy, Việt Nam cũng theo
qui luật chung, tỷ số giới tính (nam/nữ) của dân số càng ở các nhóm tuổi cao
càng giảm.
Bảng 3: Số cụ bà tương ứng với 100 cụ ông chia theo nhóm tuổi 14
Nhóm tuổi
60-64 65-69 70-74 75-79 80-84 85+
Số lượng cụ bà so
với 100 cụ ông
129
126
141
167
190
238
Bảng 4 cho thấy tình trạng sống không có vợ/chồng chiếm tỷ lệ cao
61,01%, trong đó số phụ nữ già cô đơn cao hơn nhiều so với nam giới. Năm
1989, cả nước có 300 ngàn cụ ông goá vợ, còn cụ bà thì có tới 1,4 triệu người goá
chồng, gấp 4,5 lần so với cụ ông. Năm 1999, con số này đã tăng hơn nhiều, cả
nước có 354,6 ngàn cụ ông goá vợ trong khi có 1,9 triệu cụ bà goá chồng, nhiều
gấp 5,4 lần so với cụ ông, chưa kể số phụ nữ cao tuổi sống ly hôn, ly thân khoảng
45 nghìn người, cao gấp 2 lần so với nam giới. Sự gia tăng tỷ lệ phụ nữ và những
người goá chồng tương ứng từ 56,81% và 33,9% (năm 1992/93) lên 58,42% và
13 Nguyễn Đình Cử, Tạp chí Cộng sản số 24 (168) năm 2008
14 Tổng cục thống kê, Tổng điều tra dân số 1999
5
36,9% (năm 2004). Đặc biệt, tỷ lệ người cao tuổi sống cô đơn tăng từ 3,47%
(năm 1992/93) lên 5,62% (năm 2004). Tình trạng này phổ biến với người cao
tuổi sống ở nông thôn và người cao tuổi là phụ nữ. Khoảng 80% người cao tuổi
sống cô đơn là phụ nữ và cũng khoảng 80% trong số họ sống ở nông thôn. Trong
điều kiện yếu thế vốn có về mọi mặt của phụ nữ già so với nam giới cùng độ tuổi
thì tình trạng này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách xã hội phải chú tâm hơn
nữa trong việc đưa ra các chính sách phúc lợi xã hội có hiệu quả, ví dụ như các
chương trình giáo dục và tạo thu nhập cho phụ nữ già (UNDP, 2002).
Bảng 4: Tỷ lệ người cao tuổi sống cô đơn theo giới tính và theo khu vực15
Năm
1992/93
15,49
84,51
80
1997/98
18,4
2002
24,32
75,68
82,85
17,15
2004
18,84
81,16
77,94
22,06
Nam
Nữ
81,6
Nông thôn
Thành thị
82,91
17,09
20
Người cao tuổi phân bố không đều, tập trung tại 3 vùng có đông dân cư
nhất trong cả nước là Đồng bằng sông Hồng (27,17%), Đồng bằng sông Cửu
Long (19,05%) và Bắc Trung Bộ (15,01%)16. Trong 10 năm (1989- 99), số lượng
người cao tuổi ở các vùng đều tăng.
Do đặc điểm cư dân nước ta sống tập trung tại khu vực nông thôn nên đại
đa số người cao tuổi sống tại nông thôn. Số người cao tuổi ở nông thôn cao hơn
gấp 3,5 lần khu vực thành thị. Tuy nhiên, do tác động của quá trình đô thị hoá, tỷ
lệ dân số già ở khu vực nông thôn đã giảm dần, từ 77,81%1999 xuống 76,83% 2002
và 73,33% 2004
.
15 Giang Thanh Long và Wade Donald Pfau. Tổng quan về dân số cao tuổi ở Việt Nam trong giai đoạn chuyển
đổi kinh tế.
16 Tổng cục thống kê, Tổng điều tra dân số 1999
6
Bảng 5: Phân bố dân số già theo vùng17
Vùng
1989
Tỷ lệ
1999
Tỷ lệ
Cả nước
4.600.990
1.252.905
474.949
102.207
732.302
441.017
125.834
575.291
896.485
100
27,23
10,32
2,22
6.136.399
1.666.999
638.361
134.880
920.973
595.318
206.130
804.520
1.169.218
100
27,17
10,40
2,20
ĐB sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam trung Bộ
Tây Nguyên
15,92
9,59
15,01
9,70
2,73
3,36
Đông Nam Bộ
ĐB sông Cửu Long
12,50
19,48
13,11
19,05
Bảng 6 : Số người cao tuổi chia theo nhóm tuổi khu vực
thành thị và nông thôn18
Thành thị
Nông thôn
Nhóm
tuổi
Tống số
Nam
Nữ
Tống số
Nam
Nữ
60-64
65-69
70-74
75-79
80-84
85+
409,484
367,000
262,578
170,797
89,323
179,982 229,502 1,347,824 589,726
164,733 202,267 1,279,775 560,867
758,098
718,908
559,301
407,688
214,754
160,173
111,897 150,681 947,926
63,805 106,992 650,952
30,036 59,287 328,921
17,505 44,927 228,787
388,625
243,264
114,167
68,614
62,432
Tổng số 1,361,614 567,958 793,656 4,784,185 1,965,263 2,818,922
3. Một số vấn đề đặt ra khi dân số già
Sự thay đổi cơ cấu dân số toàn cầu theo hướng già hoá tác động sâu sắc tới
mọi khía cạnh của cá nhân, cộng đồng, của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế;
liên quan đến mọi mặt của đời sống loài người: Xã hội, kinh tế, chính trị, văn
hoá, tâm lý và tinh thần. Dân số già hoá nhanh cũng sẽ gây những ảnh hưởng
17 Tổng cục thống kê, Tổng điều tra dân số các năm 1989,1999
18 Tổng cục thống kê, Tổng điều tra dân số 1999
7
tương tự như tăng trưởng dân số nhanh, tạo áp lực cho hệ thống cơ sở hạ tầng
hiện có, hệ thống dịch vụ sức khoẻ, giao thông đi lại, quan hệ gia đình, tâm lý, lối
sống cũng như hệ thống hưu trí cho người cao tuổi; chắc chắn sẽ làm cho những
vấn đề kinh tế-xã hội, môi trường thêm trầm trọng và có nhiều biến động không
thể lường trước; kết quả là lại làm nảy sinh những vấn đề dân số mới.
Các quốc gia đã nhận thức được những gánh nặng, áp lực ghê gớm do dân
số già hoá và viễn cảnh suy giảm quy mô dân số trong tương lai đối với nền kinh
tế và xã hội. Đã có nhiều quốc gia có phản ứng tích cực nhằm làm đảo chiều mức
sinh đang giảm xuống quá nhanh mà kết quả đạt được không đáng là bao. Trong
tương lai các nhà hoạch định chính sách sẽ còn phải chịu nhiều áp lực hơn nữa
nhằm đảm bảo rằng thách thức của xã hội già hóa không trở thành khủng
hoảng19. Đây sẽ không chỉ là khó khăn thách thức đối với nhà nước, xã hội, gia
đình mà cả với mỗi cá nhân người cao tuổi.
a) Công tác lập kế hoạch, hoạch định chính sách
Việc sống khoẻ, sống thọ không chỉ là mong ước cơ bản của con người mà
còn là một trong những trụ cột chính của phát triển. Sức khoẻ yếu làm suy yếu
quốc gia ở tất cả các cấp độ, thúc đẩy và góp phần làm quốc gia tụt hậu. Trong
bối cảnh già hoá dân số, số người cao tuổi sẽ ngày càng một nhiều hơn. Việc tiếp
tục duy trì một dân số khoẻ mạnh sẽ trở thành thách thức đối với các nhà lập kế
hoạch và hoạch định chính sách. Những mô hình lập kế hoạch và chính sách phát
triển hiện tại có tính khả thi và thích ứng cao, nhanh chóng đáp ứng các điều kiện
thực tế. Sở dĩ như vậy vì hầu hết là các mô hình ngắn hạn, hiệu lực của kế hoạch,
chính sách thường trong một thời gian ngắn. Để giải quyết những thách thức của
già hoá dân số không thể chỉ là những kế hoạch, chính sách ngắn hạn mà cần có
tầm nhìn dài, ít nhất vài chục năm.
Trong quá trình lập kế hoạch, các nhà kinh tế tập trung vào quy mô và tốc
độ tăng trưởng dân số, mà bỏ qua những thay đổi trong phân bố cơ cấu tuổi. Mỗi
nhóm tuổi của dân số có những hành vi khác nhau, với những hệ quả kinh tế rõ
ràng: Nhóm dân số trẻ đòi hỏi đầu tư chiều sâu cho y tế và giáo dục, nhóm dân số
mới bước vào tuổi lao động cung ứng nguồn lao động và tăng tích luỹ và nhóm
19
Ngày càng có nhềiu phụ nữ tham gia lực lượng lao động, đồng thời cha mẹ già không sống cùng con cháu.
Truyền thống của người Nhật là các thành viên gia đình thường chăm sóc cha mẹ già đang bị đe dọa (xem Bloom,
Nadakumar, Bhanalka (2001), ibird: 12.
8
người cao tuổi đòi hỏi chăm sóc sức khỏe và thu nhập từ lương hưu. Khi qui mô
của mỗi nhóm dân số thay đổi tương quan với những biến động dân số, thì những
đòi hỏi của những hành vi kinh tế của những nhóm này cũng thay đổi theo. Các
nhà hoạch định chính sách có quan điểm khá cởi mở về phát triển và mối quan hệ
phức tạp giữa phát triển kinh tế và phát triển con người cần phải xem xét những
tác động của thay đổi cơ cấu tuổi khi quyết định tương lai của quốc gia20.
Hình 1 :Vòng đời kinh tế của một người lao động Thái Lan điển hình21
Thu nhập và tiêu dùng bình quân đầu người hàng năm (baht)
Hình 1 cho thấy khoảng cách giữa thu nhập và tiêu dùng của dân số tuổi
60+. Để có một dân số khỏe mạnh phải sớm xây dựng kế hoạch, trước tuổi nghỉ
hưu nhiều năm, để có thể duy trì mức sống trong nhiều thập niên sau khi nghỉ
hưu22. Lương hưu lại càng quan trọng hơn đối với gia đình quy mô nhỏ và bệnh
tật do đô thị hoá. Để chuẩn bị tốt cho một xã hội già hóa thì cần phải tạo ra
khoảng cách càng lớn càng tốt – cả về chiều cao và chiều rộng – giữa thu nhập và
tiêu dung trong khoảng tuổi từ 25 – 60. Điều này đòi hỏi cần phải có các chính
sách về tạo việc làm, nâng cao chất lượng lao động, nâng cao hiệu suất lao động,
từ đó nâng cao mức tiết kiệm, dự trữ cả ở cấp quốc gia cũng như ở hộ gia đình để
20
Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) David E. Bloom, David Canning, Jaypee Sevilla, Tài liệu
làm việc 8685: Tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi nhân khẩu học
21
Lee R, Mason A, eds. Lợi tức nhân khẩu học là gì? Tài chính và Phát triển. 2006:43(3). http://www.imf.org/
22 Lee, Mason v Miller, 1998
9
chuẩn bị tốt cho giai đoạn già hóa. Theo khuyến nghị của các chuyên gia kinh tế
và nhân khẩu học, khi tiến hành phân tích, đánh giá để ban hành những quyết
sách về cơ cấu đầu tư, tích luỹ quốc gia, quỹ phúc lợi xã hội, cơ chế huy động
nguồn lực …. để đáp ứng nhu cầu khác nhau của các nhóm dân số, đặc biệt là các
nhóm dân số dễ bị tổn thương bao gồm cả dân số già, các nhà hoạch định chính
sách cần nghiên cứu việc kéo dài thêm thời gian lao động trên cơ sở tính toán
những thành tố của hệ thống lương hưu23.
Với Việt Nam, để thích ứng với già hoá dân số, việc chuẩn bị các điều kiện
cần và đủ để đáp ứng nhu cầu của dân số già trong 1-2 thập niên tới sẽ là một
thách thức rất lớn đối với các nhà lập kế hoạch và hoạch định chính sách khi Việt
Nam đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá các dịch vụ y tế trong môi trường chính sách
của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và định hướng xã hội chủ
nghĩa.
b) Tiết kiệm/tích luỹ
Với các nước phát triển, quá trình già hoá dân số diễn ra từ từ, nhưng các
nước này cũng đã vấp phải những thách thức nảy sinh từ mối quan hệ giữa quy
mô dân số già ngày càng tăng, quy mô dân số lao động giảm dần tạo thêm áp lực
cho quốc gia và người lao động khi phải cân đối nguồn lực cho tiết kiệm bảo
hiểm tuổi già thông qua hệ thống an sinh xã hội.
Lương hưu là một thách thức đặc biệt vì hiện nay tại nhiều nước trả lương
hưu từ nguồn thuế thu được. Theo tính toán để có thể trang trải các dịch vụ chăm
sóc trong suốt những năm tuổi già với mức như hiện tại, người lao động Nhật
Bản sẽ phải dành ít nhất 35% thu nhập để tiết kiệm, tích luỹ. Do quy mô dân số
hưởng lương hưu tăng lên, ngân sách dành cho Quỹ lương hưu tăng lên và có khả
năng chiếm đến 20% GDP của Nhật Bản vào năm 2030 trong bối cảnh tỷ lệ dân
số 60+ gần bằng tỷ lệ dân số lao động, khoảng 45% tổng dân số. Đây sẽ là thách
thức dài hạn với nền kinh tế và kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng
kinh tế của một xã hội già sẽ ngày càng một suy giảm ảnh hưởng trực tiếp đến
các quỹ phúc lợi xã hội.
23
Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) David E. Bloom, David Canning, Jaypee Sevilla, Tài liệu
làm việc 8685: Tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi nhân khẩu học
10
Với các nước đang phát triển cùng một lúc phải đương đầu với hai thách
thức: Đầu tư cho phát triển và thích ứng với già hoá dân số. Vì thế mà cải cách
chế độ hưu trí là vấn đề ưu tiên nhất ở các quốc gia đang phát triển. Hệ thống trả
lương hưu linh hoạt - người nghỉ hưu có thể nhận lương hưu ở bất cứ nơi nào-
một hệ thống chủ yếu lấy từ nguồn thu của Chính phủ, đang ngày càng trở nên
khó bền vững và chuyển đổi nhân khẩu học sẽ khiến cho xu thế toàn cầu của hệ
thống trả lương hưu dựa hoàn toàn vào Quỹ sẽ ngày một khó khăn hơn. Trong hệ
thống hoàn toàn dựa vào Quỹ, cá nhân tiết kiệm để dành chi trả cho lương hưu
của mình, và từ khi phần lớn các quốc gia thực hiện một phần chương trình bảo
hiểm hưu trí bắt buộc, đã làm tăng quỹ dự trữ của quốc gia. Hệ thống hưu trí dựa
hoàn toàn vào Quỹ đã bộc lộ những vấn đề nội tại, dĩ nhiên, các hệ thống này đã
đòi hỏi các quốc gia phải có hệ thống tài chính phát triển đủ để cung cấp những
phương tiện dự trữ có chất lượng cao và Chính phủ phải có đủ năng lực để điều
tiết các thể chế tài chính này để quản lý được Quỹ hưu trí này. Cải cách chế độ
hưu trí là vấn đề đặc biệt quan trong đối với phụ nữ vì họ sẽ sống thọ hơn đàn
ông ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt số lượng phụ nữ có tuổi sẽ nhiều
hơn nhiều so với đàn ông có tuổi và số lượng càng chênh lệch ở những nhóm tuổi
cao hơn.24
Ở Việt Nam, vào năm 2005 hơn 73% người cao tuổi sống ở nông thôn, là
nông dân và làm nông nghiệp. Trong tổng số người cao tuổi chỉ có khoảng 16-
17% người cao tuổi hưởng chế độ lương hưu hoặc mất sức, hơn 10% các cụ
hưởng trợ cấp xã hội dành cho những đối tượng có công với nước25. Như vậy còn
trên 70% người cao tuổi sống bằng lao động của mình, bằng nguồn hỗ trợ của
con cháu và gia đình. Trong khi đó năng suất và hiệu suất lao động ở nông thôn,
nông nghiệp còn rất thấp, ít có tiết kiệm để chi tiêu khi tuổi già.
c) Nguồn nhân lực
Như trên đã trình bày do mức sinh tiếp tục giảm và sẽ giữ ở mức thấp đồng
thời tuổi thọ tiếp tục tăng lên dẫn đến tốc độ già hoá của dân số Việt Nam sẽ tăng
lên nhanh hơn sau khi tỷ lệ tăng trưởng dân số bằng 0 (zêrô). Sau đó quy mô dân
số của Việt Nam giảm, đồng thời dân số lao động cũng giảm. Hiện tại tốc độ
24 Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) David E. Bloom, David Canning, Jaypee Sevilla, Tài liệu làm
việc 8685: Tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi nhân khẩu học
25 Vấn đề dân số hôm nay. Số 1, Quý 1/1999.
11
chuyển sang thế giới hiện đại đã diễn ra khá nhanh, kể cả những thay đổi cơ bản
trong các hình thái gia đình và xã hội. Khi Việt Nam bước vào giai đoạn dân số
già, chi phí-cơ hội của mỗi vị trí việc làm trong một nền kinh tế tri thức ứng dụng
công nghệ hiện đại sẽ thay đổi theo hướng tăng lên, tạo áp lực lớn trong việc
tuyển dụng và thực hiện chính sách đãi ngộ đối với những người cung cấp dịch
vụ chăm sóc người cao tuổi, đặc biệt là nhóm dân số già phải phụ thuộc hoàn
toàn vào hỗ trợ chăm sóc bên ngoài do không còn khả năng tự chăm sóc. Nhu cầu
cán bộ điều dưỡng chăm sóc người cao tuổi sẽ tăng đột biến trong bối cảnh lực
lượng lao động giảm và phụ nữ ngày một tham gia tích cực hơn trong các hoạt
động kinh tế xã hội.
Nếu như trong gia đình truyền thống có nhiều thế hệ chung sống, người
cao tuổi thường được con cháu chăm sóc thì với gia đình hạt nhân mà cả hai vợ
chồng đều đi làm, ít có điều kiện để chăm sóc bố mẹ già. Mặc dù khối tài sản gia
tăng của cha mẹ họ có thể giúp họ có điều kiện tốt về tiền bạc để chăm sóc, nếu
như không thể chăm sóc trực tiếp, nhưng việc tìm người hỗ trợ chăm sóc không
phải dễ dàng gì. Việc tan rã của hình thái gia đình mở rộng, người cao tuổi không
còn được con cháu chăm sóc, vì thế nhà nước cần phải chuẩn bị để lấp khoảng
trống này.
d) Chi phí cho chăm sóc người cao tuổi
Xu hướng số người cao tuổi tăng lên sẽ làm tăng gánh nặng kinh tế, xã hội
để duy trì ổn định cuộc sống khoẻ mạnh của nhóm người cao tuổi. Ngay cả khi tỷ
lệ phụ thuộc trẻ em giảm đi cũng không thể bù đắp những chi phí xã hội tăng lên,
do chi phí cho người cao tuổi lớn hơn nhiều so với chi phí cho trẻ em. Nhu cầu
chăm sóc người cao tuổi (y tế, xã hội, tài chính) sẽ là một thách thức lớn. Người
cao tuổi có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn. Chi phí chăm sóc người cao
tuổi cao gấp 7-8 lần so với chăm sóc trẻ em.
Vấn đề cung cấp tài chính cho dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sẽ càng trở nên
quan trọng nhất là với những quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu
bệnh tật sang các bệnh mãn tính (ví dụ như tiểu đường, các bệnh về tim, ung thư).
Những thay đổi này sẽ làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng và tăng quy mô chi tiêu cho
chăm sóc sức khoẻ. Số liệu của các quốc gia công nghiệp giàu có cho thấy chi phí
cho chăm sóc sức khoẻ bình quân đầu người dành cho người cao tuổi tăng gấp ba
12
so với người lao động trưởng thành. Phí dịch vụ có xu hướng tăng do ứng dụng
ngày một nhiều hơn những công nghệ hiện đại. Với các quốc gia đang phát triển,
cần phải tiến tới một hệ thống gắn lợi ích của cá nhân với khả năng đóng góp của
người đó.
Mức chi ngân sách bình quân đầu người cho y tế là nguyên nhân chính
khiến cho diện phủ hạn chế của các dịch vụ y tế cơ bản ở các quốc gia đang phát
triển. Trong năm 2004, chi phí y tế trung bình đầu người là 91 đôla Mỹ tại các
quốc gia đang phát triển và 15 đôla Mỹ ở các quốc gia chậm phát triển (Ngân
hàng thế giới, 2007). Hiện nay, tổng chi cho y tế ở Việt Nam khoảng 5-6% GDP
và tính theo đầu người khoảng 45 USD/người/năm. Tuy nhiên, chi công chỉ
chiếm khoảng 30% tổng chi y tế, là một tỷ lệ thấp so với các nước có thu nhập
thấp và trung bình trên thế giới. Ở nhiều quốc gia đang phát triển, tình hình diễn
biến xấu đi do thiếu khả năng đóng góp từ các nguồn lực khác và ngày càng thiếu
cán bộ y tế hơn do lương thấp không đủ sống, điều kiện làm việc thiếu thốn và
cán bộ y tế gia nhập vào các luồng di cư quốc tế, chủ yếu là xuất khẩu lao động.
Việt Nam đang trong tiến trình hoàn thiện nền kinh tế thị trường đồng thời
đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác y tế, thu hút các thành phần
kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Người cao tuổi là một
trong những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Nếu như công
tác chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi không được quản trị tốt bằng những cơ
chế chính sách rõ ràng, cụ thể, minh bạch phù hợp với điều kiện thực tế của Việt
Nam và khả năng chi trả của người cao tuổi thì kết quả không chỉ là làm giảm
chất lượng dân số mà còn làm cho chất lượng cuộc sống của người cao tuổi vốn
đã hạn chế lại càng thêm khó khăn.
đ) Nguy cơ dễ bị tổn thương của người cao tuổi
Người cao tuổi sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề tiềm ẩn, bao gồm cả
nghèo đói do phải dành toàn bộ nguồn thu hạn chế của mình cho các dịch vụ
chăm sóc nói chung và chăm sóc sức khoẻ nói riêng. Đói nghèo làm tăng độ nhạy
của bệnh tật, ngược lại bệnh tật là nguyên nhân chính của đói nghèo. Sức khoẻ
kém có thể dẫn đến nghèo khổ và kìm hãm con người trong nghèo đói kể cả ở
cấp độ gia đình và quốc gia.
13
Hiện tại, tỷ lệ đói nghèo ở người cao tuổi Nhật Bản là trên 18%. Ở Việt
Nam do phần lớn người cao tuổi sống cùng gia đình con cháu nên chưa có số liệu
đánh giá tỷ lệ đói nghèo ở người cao tuổi. Song nhìn chung đời sống vật chất của
người cao tuổi Việt Nam còn rất khó khăn. Kết quả của một đề tài nghiên cứu
năm 2000 của Vụ các vấn đề xã hội của Quốc hội cho thấy 60% số cụ được hỏi
cho là khó khăn trong đời sống vật chất, 37% cho là trung bình, 1% dư dật. Tỷ lệ
người cao tuổi sống ở Hà Nội cảm thấy không thoải mái cao gấp 5 lần so với tỷ lệ
người cao tuổi ở Thanh Hoá mặc dù mức sống ở Hà Nội cao hơn Thanh Hoá. Đa
phần người cao tuổi là phụ nữ, những người này thường phải chịu tác động gấp
đôi vì những bất bình đẳng giới trong lao động, thu nhập và thụ hưởng các dịch
vụ xã hội.
Các nhu cầu về dịch vụ sức khoẻ, chăm sóc và an sinh xã hội cho dân số
già sẽ là một thách thức lớn đối với Việt Nam chỉ sau 20 năm nữa. Đáng lưu ý là
do mức sinh cao trong quá khứ nên dân số cao tuổi sẽ có qui mô rất lớn trong khi
vào thời điểm đó nước ta vẫn chưa thực sự là một nước công nghiệp phát triển.
Nguồn lực kinh tế- xã hội có thể không cho phép gánh chịu và đáp ứng được đòi
hỏi cần thiết của một dân số già. Đó là những thách thức với Việt Nam trong giai
đoạn tới đòi hỏi phải có sự chuẩn bị của mỗi gia đình và toàn xã hội nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống cho người dân, đặc biệt là người cao tuổi.
II. Những thách thức của dân số già trong công tác chăm sóc sức khỏe
Tuổi thọ bình quân của Việt Nam đạt 72,2 tuổi năm 2005, là mức khá cao
so với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, tuổi thọ bình quân khoẻ
mạnh khá thấp chỉ đạt 58,2 tuổi và xếp thứ 116 so với 174 nước trên thế giới
Bình quân mỗi người dân có tới 14 tuổi là ốm đau, bệnh tật so với 72,2 tuổi sống.
Một số dịch bệnh vẫn còn xảy ra, tình trạng bệnh tật, nhất là bệnh nhiễm khuẩn
đường sinh sản và bệnh lây truyền qua đường tình dục HIV/AIDS vẫn rất đáng lo
ngại.
2.1. Thách thức thứ nhất: Gánh nặng bệnh tật kép.
Khi các quốc gia tiến hành công nghiệp hoá, việc thay đổi lối sống và việc
làm chắc chắn sẽ dẫn đến những thay đổi về mô hình bệnh tật. Những thay đổi
này thấy rõ nhất ở những nước đang phát triển. Ở các quốc gia phát triển, mối
14
quan tâm hàng đầu về sức khoẻ là phòng ngừa và điều trị các bệnh mãn tính (như
tim mạch, ung thư, tiểu đường, rối loạn chuyển hoá, Alzheimer); là những lối
sống thiếu lành mạnh (nghiện hút, lạm dụng rượu bia…); là tăng hiệu quả chăm
sóc nội trú, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu có hiệu quả chi phí cao,
dịch vụ chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi. Trong khi đó, ở các quốc gia đang
phát triển thì một mặt phải tiếp tục giải quyết các bệnh lây nhiễm, suy dinh
dưỡng và tai biến sinh kỳ, mặt khác phải đương đầu với sự gia tăng nhanh chóng
của các bệnh không lây truyền trong điều kiện hệ thống chăm sóc sức khoẻ còn
thiếu thốn đủ bề. “Gánh nặng bệnh tật kép” này sẽ đe dọa các nguồn ngân sách
vốn đã eo hẹp của các quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế (Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế, 2004).
Hình 2 : Gia tăng gánh nặng của các bệnh không lây nhiễm mãn tính
2002-2003
Các nước
thu nhập
thấp, TB
Các nước
thu nhập
cao
Việc chuyển từ mô hình trội các bệnh lây nhiễm sang mô hình trội các
bệnh không lây nhiễm diễn ra nhanh nhất ở các nước đang phát triển, trong đó
các bệnh mãn tính như bệnh tim mạch, ung thư và trầm cảm nhanh chóng trở
thành nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tàn phế. Xu hướng này sẽ tiếp tục
diễn ra trong những thập niên sắp tới. Năm 2002, 56% gánh nặng bệnh tật ở các
nước đang phát triển và công nghiệp mới là do các bệnh không lây nhiễm, rối
loạn tâm thần và thương tật. Năm 2030, tỷ lệ này tăng lên đến 68%.
Tại Việt Nam, có 4 nhóm bệnh không lây nhiễm chủ yếu, đó là: Bệnh tim
mạch, ung thư, đái tháo đường (type 2), động kinh và trầm cảm. Các bệnh này
nói riêng và bệnh không lây nhiễm nói chung đang ngày càng tăng trong khi tỷ lệ
15
tử vong do bệnh lây nhiễm giảm. Cụ thể là nếu như năm 1996 bệnh lây nhiễm
chiếm tỷ lệ mắc là 37%, trong đó chết là 33%; bệnh không lây nhiễm theo thứ tự
là 50% - 43%, thì đến năm 2005, bệnh lây nhiễm giảm còn 25% - 16%; còn các
bệnh không lây nhiễm tăng tỷ lệ người mắc lên 62%, trong đó chết là 61%.
Theo Bộ Y tế (Vụ Điều trị), trong những năm gần đây, tỷ lệ người mắc các
bệnh không lây nhiễm phải nhập viện có xu hướng tăng cao. Số nhập viện điều trị
các bệnh không lây nhiễm (huyết áp, tim mạch, các bệnh về nội tiết...) chiếm tới
61% (năm 2001 tỷ lệ này là 54%). Trong khi tỷ lệ các bệnh do nguyên nhân lây
nhiễm đang giảm mạnh thì ngược lại tỷ lệ mắc bệnh không lây nhiễm lại gia tăng
đến mức báo động. Điều đáng nói là những bệnh này có liên quan mật thiết tới lối
sống như hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, dinh dưỡng bất hợp lý và ít vận động.
Báo cáo tổng kết 5 năm họat động chương trình phòng chống một số bệnh không
lây nhiễm giai đoạn 2002 - 2006 đã cho thấy điều đó.
Theo kết quả điều tra toàn quốc, trong khoảng 82 triệu người Việt Nam thì
có tới 6,7 triệu người bị tăng huyết áp. Tỷ lệ người mắc bệnh đái tháo đường là
2,7%, tại các thành phố lớn là 4,4%. Trong đó, 64% người mắc bệnh đái tháo
đường không được phát hiện. Với bệnh ung thư, mỗi năm có khoảng 100.000 -
150.000 bệnh nhân ung thư mới mắc và 75.000 người chết vì ung thư và con số
này có xu hướng ngày càng gia tăng. Về bệnh tâm thần, tỷ lệ mắc bệnh động kinh
trong cộng đồng chiếm khoảng 0,33% dân số và tỷ lệ trầm cảm là 2,8% dân số.
Bệnh không lây nhiễm có chung các yếu tố nguy cơ và các yếu tố nguy cơ
này được chia thành 3 nhóm: Nhóm thứ nhất là các yếu tố nguy cơ về hành vi lối
sống bao gồm hút thuốc lá, lạm dụng rượu, chế độ dinh dưỡng không hợp lý (như
ăn ít rau, nhiều thịt) và thói quen ít vận động. Nhóm thứ hai là các yếu tố môi
trường bao gồm môi trường tự nhiên, môi trường chính trị, môi trường xã hội,
môi trường kinh tế. Nhóm thứ ba là các yếu tố nguy cơ không thay đổi được như
tuổi, giới tính, chủng tộc...
Điều đáng nói là các nguy cơ bệnh không lây nhiễm tăng dần theo tuổi do
sự phơi nhiễm trong một thời gian dài của các cơ quan bộ phận chức năng của cơ
thể và giảm khả năng hệ thống miễn dịch. Các bệnh không lây nhiễm thường có
thời gian tiềm tàng kéo dài với các tình trạng tiền bệnh như thừa cân, béo phì,
tăng huyết áp, rối loạn glucose máu và một số rối loạn chuyển hóa khác.
16
Bảng 7. Tỷ lệ một số bệnh tim mạch thường gặp, theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi
60-74
391/930
42,0%
89/898
9,9%
51/900
5,7%
149/897
16,6%
p
75
202/370
54,6%
36/360
10,0%
35/366
9,6%
Tăng huyết áp
Suy vành
n
%
n
< 0,001
> 0,05
< 0,05
> 0,05
%
n
Suy tim
%
n
Suy tĩnh mạch
54/366
14,8%
%
Bảng8.Tỷlệmộtsốbệnhtâmthầnkinhthườnggặp,theonhómtuổi
Nhóm tuổi
60-74
24/617
3,9%
12/924
1,3%
7/846
0,8%
p
>=75
12/123
9,8%
3/354
0,8%
7/309
2,3%
Sa sút tâm thần
Parkinson
n
%
n
< 0,01
> 0,05
< 0,05
%
n
Trầm cảm
%
Bệnh không lây nhiễm nói chung đang gây ảnh hưởng lớn tới sự phát triển
của xã hội. Bệnh không chỉ có tỷ lệ tử vong cao mà tỷ lệ tàn tật cũng rất lớn. Mặc
dù tỷ lệ tử vong do bệnh tăng dần theo tuổi nhưng tỷ lệ tử vong ở nhóm người trẻ
tuổi cũng không phải là ít.
Bảng 9. Tỷ lệ một số bệnh nội tiết-chuyển hoá thường gặp,
theo tuổi
Nhóm tuổi
60-74
51/896
5,7%
432/869
48,2%
61/896
6,8%
201/919
22,0%
p
>=75
15/4,2
4,2%
132/356
37,1%
24/356
6,7%
Đái tháo đường
n
p>0,05
p<0,001
p>0,05
p<0,001
%
n
Rối loạn lipid máu
%
Rối loạn đường n
huyết đói
%
Béo phì
n
32/358
8,9%
%
17
Ở Việt Nam, bệnh không lây nhiễm còn nghiêm trọng hơn do bệnh nhân
thường đến bệnh viện để khám và điều trị ở giai đoạn muộn. Trong khi đó, các
biện pháp phòng chống bệnh tật còn hạn chế do nhận thức chưa cao. Bên cạnh
đó, người bệnh cũng không được theo dõi và điều trị có hệ thống do dịch vụ
khám chữa bệnh chưa đáp ứng được nhu cầu.
2.2. Thách thức thứ hai: Tăng nguy cơ tàn phế.
Ở các nước phát triển cũng như đang phát triển, bệnh mãn tính là nguyên
nhân chủ yếu dẫn tới tàn phế và giảm chất lượng sống. Khả năng sống độc lập
của người cao tuổi bị đe dọa khi tình trạng tàn phế về thể lực hoặc tâm thần của
họ gây trở ngại trong sinh hoạt hàng ngày. Nhiều người trở nên tàn phế ở tuổi già
do cơ chế "hao mòn" của quá trình lão hoá (ví dụ như thoái khớp) hoặc do khởi
phát một bệnh mãn tính vốn đã có thể phòng ngừa được (ví dụ ung thư phổi, đái
tháo đường và bệnh mạch ngoại vi) hoặc do bệnh mang đặc tính thoái hoá (ví dụ
sa sút trí tuệ). Dường như tàn phế nặng về thể lực và nhận thức tăng mạnh ở
nhóm tuổi rất già. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi xu hướng chung của thế giới
cho thấy nhóm tuổi từ 80 trở lên là nhóm dân số tăng nhanh nhất.
Những tàn phế khác thường gặp ở tuổi già là mất thị lực và thính lực. Trên
toàn thế giới hiện có khoảng 180 triệu người bị tàn phế về thị giác, 45 triệu trong
số đó bị mù hoàn toàn. Phần lớn những người này là người cao tuổi bởi vì suy
giảm thị lực và mù tăng rõ theo tuổi. Nhìn chung trên toàn thế giới có khoảng 4%
người từ 60 tuổi trở lên bị mù, 60% trong số họ sống ở vùng Cận Sahara Châu
Phi, Trung Quốc và Ấn Độ. Nguyên nhân chính gây mù và giảm thị lực ở người
cao tuổi là đục thuỷ tinh thể (gần 50% các trường hợp mù), tăng nhãn áp, thoái
hoá điểm vàng và bệnh võng mạc do đái tháo đường (TCYTTG, 1977).
Theo thống kê của Bệnh viện Mắt Trung ương, tại Việt Nam có tới 70% số
người mù là do đục tinh thể. Đáng nói là có tới 35% người mù do đục thủy tinh
thể không biết bản thân bị bệnh hoặc đây là bệnh có thể chữa được. Theo nghiên
cứu của Viện Lão khoa Quốc gia, ở người cao tuổi: 76,7 % có giảm thị lực;
60,1% bị mắc bệnh giác mạc; 57,9 % đục thuỷ tinh thể, 50,5 % có bệnh mi-giác
mạc; 9,0% có tật khúc xạ.
18
Bảng 10. Tỷ lệ một số bệnh về mắt thường gặp, theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi
p
60-74
553/855
64,7%
>=75
116/295
39,3%
n
%
n
%
n
%
n
%
n
%
Tật khúc xạ
<0,001
< 0,05
482/925
52,1%
171/367
46,6%
Bệnh mi-kết mạc
Bệnh giác mạc
Đục thuỷ tinh thể
Giảm thị lực
518/911
43,1%
456/925
49,3%
563/801
70,3%
248/363
68,3%
292/367
79,6%
291/313
93,0%
< 0,001
< 0,001
<0,001
Giảm thính lực là một trong những loại tàn phế thường gặp nhất, đặc biệt
là ở người cao tuổi. Theo ước tính trên toàn thế giới khoảng hơn 50% những
người độ tuổi từ 65 trở lên là bị giảm thính lực ở những mức độ khác nhau
(TCYTTG, 2002a). Giảm thính lực cản trở cho giao tiếp. Tình trạng này có thể
gây bối rối, tự ti, ngại tiếp xúc và cách ly xã hội (Pal, 1974, Wilson, 1999). Theo
nghiên cứu của Viện Lão khoa Quốc gia, 40,11 % người cao tuổi có giảm thính
lực.
Các biến chứng do huyết áp tăng thường rất nặng nề như tai biến mạch
máu não, nhồi máu cơ tim, suy tim, suy thận, mù lòa... ảnh hưởng lớn đến người
bệnh, gây tàn phế và trở thành gánh nặng với gia đình và xã hội.
Bảng11.Tỷlệmộtsốbệnhvềtai-mũi-họngthườnggặptheonhómtuổi
Nhóm tuổi
p
60-74
292/926
31,5%
67/926
7,2%
>=75
224/362
61,9%
12/362
3,3%
n
%
n
%
n
%
n
Giảm thính lực
<0,001
< 0,01
>0,05
Rối loạn tiền đình
Viêm mũi dị ứng
Viêm họng mạn
36/926
3,9%
7/362
1,9%
156/925
16,9%
33/362
9,1%
< 0,001
%
19
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo tổng quan về chính sách chăm sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- bao_cao_tong_quan_ve_chinh_sach_cham_soc_nguoi_gia_thich_ung.pdf