Báo cáo tóm tắt Đề tài Nghiên cứu cách diễn đạt tương đương câu vô nhân xưng từ tiếng Pháp sang tiếng Việt
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta biết, các loại câu trong tiếng Pháp luôn đòi hỏi sự có mặt của chủ
ngữ ngữ pháp để có thể xác định rõ hình thái của động từ trong câu. Chính vì vậy,
chúng ta thường gặp các dạng câu có chủ ngữ là “il” nhưng không biểu hiện nghĩa
thông thường là “anh ấy”, “nó”, “điều này”. Nói cách khác, đây là một loại chủ ngữ
ngữ pháp, trống nghĩa, “chủ ngữ giả” theo cách gọi truyền thống. Ngược lại, trong
tiếng Việt, một ngôn ngữ không có biến tố và thiên về chủ đề, chủ ngữ ngữ pháp và chủ
ngữ ngữ nghĩa luôn trùng khớp với nhau. Đây là một sự khác biệt lớn giữa hai ngôn
ngữ Pháp-Việt đòi hỏi cần phải được quan tâm hơn nữa trên nhiều khía cạnh, nhằm
phục vụ thiết thực cho việc giảng dạy tiếng Pháp và dịch thuật. Hơn nữa, hiện nay vẫn
chưa có công trình nào nghiên cứu về cách diễn đạt tương đương câu vô nhân xưng từ
tiếng Pháp sang tiếng Việt giúp người dạy và học tiếng Pháp hiểu sâu hơn về vấn đề
này.
Chính vì các lý do trên, chúng tôi mong muốn đi sâu nghiên cứu về cách dịch
câu vô nhân xưng từ tiếng Pháp sang tiếng Việt, để có thể thống kê các cách thức diễn
đạt thường được sử dụng, nhằm giúp người học tiếng Pháp vượt qua được những khó
khăn trong công việc dịch thuật cũng như sử dụng câu vô nhân xưng tiếng Pháp trong
học tập và giao tiếp bằng tiếng Pháp.
Trong đề tài này, chúng tôi sẽ nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi chính sau đây:
- Câu vô nhân xưng trong tiếng Pháp được diễn đạt tương đương sang tiếng
Việt như thế nào ?
Để có thể trả lời được câu hỏi trên, chúng tôi thấy cần thiết phải xác định rõ
các đặc điểm của câu vô nhân xưng trong tiếng Pháp, cũng như tìm hiểu liệu loại câu
này có nét tương đồng với một kiểu câu nào trong tiếng Việt hay không.
Chúng tôi hy vọng rằng nghiên cứu này sẽ góp phần thiết thực vào việc nâng
cao chất lượng dịch thuật Pháp-Việt cho người Việt học tiếng Pháp.
2. Mục tiêu của đề tài
Chỉ ra được cách diễn đạt tương đương câu vô nhân xưng từ tiếng Pháp sang
tiếng Việt, nhằm giúp người sử dụng tiếng Pháp hiểu thấu đáo cơ chế hoạt động của
loại câu này, từ đó nâng cao hiệu quả việc lĩnh hội ngôn ngữ tiếng Pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu này, đối tượng nghiên cứu sẽ là cách diễn đạt tương
đương câu vô nhân xưng tiếng Pháp sang tiếng Việt và phạm vi nghiên cứu sẽ được
giới hạn trong hai tác phẩm văn học Pháp được dịch sang tiếng Việt.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
- Cách tiếp cận theo hướng so sánh đối chiếu câu vô nhân xưng trong tiếng
Pháp với những tương đương trong tiếng Việt.
- Phương pháp định tính phân tích của câu vô nhân xưng trong tiếng pháp với
bản dịch tương đương trong tiếng Việt.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận chung, đề tài nghiên cứu này sẽ bao gồm các
chương chính sau đây.
Chương 1 : Cơ sở lý luận
Trong chương này, chúng tôi sẽ giới thiệu về :
1
- tổng quan và các đặc điểm của câu vô nhân xưng
- nét tương đồng giữa câu vô nhân xưng trong tiếng Pháp và câu không đề trong tiếng
Việt
- các định nghĩa về dịch thuật và các thủ pháp dịch theo Vinay và Darbelnet
Chương 2 : Kết quả nghiên cứu và bình luận
Nội dung của chương 2 bao gồm :
- Mô tả dữ liệu nghiên cứu và quy ước trình bày
- Kết quả nghiên cứu
- Kết luận và bình luận
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lý thuyết về câu vô nhân xưng
1.1. Định nghĩa về câu vô nhân xưng
Tomassone đã đưa ra định nghĩa rõ ràng và đầy đủ nhất về câu vô nhân xưng
(2002, tr. 156). Theo tác giả, câu vô nhân xưng là “những câu có chứa một động từ đã
chia, hợp số (cả hợp giống) với đại từ ở ngôi thứ ba “il” và đại từ này không thể hoán
đổi với một đại từ ngôi thứ ba khác.” Trong câu, đại từ vô nhân xưng “il” được đặt ở vị
trí quen thuộc của chủ ngữ, mang các đặc tính ngữ pháp của chủ ngữ, nhưng không
biểu hiện một tác nhân nào, cũng không phải là phần “đề” của câu. Đại từ này trống
nghĩa, không có sở chỉ (référent) và cũng không phải là từ thay thế mà đơn giản chỉ là
một dấu hiệu ngữ pháp (indice grammatical) trong câu.
Như vậy, định nghĩa của Tomassone đã cho chúng ta một cách nhìn toàn diện về
câu vô nhân xưng, khái quát đầy đủ vị trí, chức năng, đặc tính ngữ pháp cũng như ngữ
nghĩa của chủ ngữ bất định “il”.
1.2. Các loại câu vô nhân xưng
1.2.1. Quan điểm của Hervé-D. Béchade (1993)
Béchade phân biệt các động từ chuyên dùng ở dạng vô nhân xưng, hay còn gọi là
vô nhân xưng thuần túy (verbe impersonnel par essence) như falloir, valoir với các
động vô nhân xưng lâm thời (verbes occasionnellement impersonnels: động từ vừa
dùng được cho cả câu vô nhân xưng và câu nhân xưng). Những câu có chứa động từ vô
nhân xưng lâm thời được gọi là “dạng” (forme) hoặc “cấu trúc vô nhân xưng”
(construction). Trong cả hai trường hợp, các động từ luôn được dùng ở ngôi thứ ba số ít
và đứng sau đại từ “il”, trong một số trường hợp có thể đứng sau “ça”, “ce” hoặc
“cela”.
Thông thường, các động từ vô nhân xưng thuần túy được dùng để nói về các hiện
tượng thời tiết (il pleut, il vente, il tonne: mưa, gió, sấm chớp), chỉ có một số động từ
mang ý nghĩa trừu tượng (il faut, il suffit : phải, chỉ cần). Trong các câu này, chủ ngữ
“il” trống nghĩa và không chỉ xuất bất kỳ một tác nhân nào (aucun agent).
Mặt khác, các động từ vô nhân xưng có thể đứng trước một bổ ngữ (còn gọi là
“chủ ngữ thực” và vì vậy, yếu tố đứng trước các động từ này được gọi là “chủ ngữ hình
thức” hay “chủ ngữ ngữ pháp”. Ví dụ trong câu “Il pleut de l’horreur, il pleut du vice,
il pleut du crime fleurs” (V.Hugo) (Tạm dịch: Mưa sợ hãi, mưa đồi bại, mưa tội ác),
“il” là chủ ngữ hình thức còn “l’horreur”, “le vice” và “le crime” là chủ ngữ thực của
2
động từ “pleut”.
Đối với các trường hợp tu từ, một số động từ vô nhân xưng có thể có chủ ngữ là
một danh từ riêng, một danh từ chung . Ví dụ : "Eau, quand donc pleuvras -tu? "
(Nước ơi, khi nào ngươi trút xuống?) (Baudelaire)
Ngược lại, các động từ và các quán ngữ vô nhân xưng lâm thời được gọi “dạng”
hoặc “cấu trúc vô nhân xưng”. Những động từ này thường đứng trước một chủ ngữ,
danh từ, đại từ, động từ nguyên thể hoặc một mệnh đề bổ ngữ bắt đầu với que.
Đối với các quán ngữ được cấu tạo bởi “être + tính từ”, bổ ngữ là một động từ
nguyên thể hoặc một mệnh đề theo sau “que”. Ví dụ: Il est certain, dit oncle Xavier,
que Dussol est un brave homme et qui mérite confiance. (Mauriac) (Chú Xavier nói:
Chắc chắn Dussol là một người dũng cảm và đáng tin.)
Riêng đối với các quán ngữ chỉ về hiện tượng thời tiết được cấu tạo bởi “faire +
tính từ” như: il fait beau (Trời đẹp), il fait soleil (Trời nắng) sẽ không có bổ ngữ.
1.2.2. Phân loại câu vô nhân xưng theo Marleen Van Peteghem
Theo Van Peteghem (trích theo Flament-Boistrancourt, 1994), câu vô nhân xưng
gắn liền với bốn hiện tượng ngôn ngữ khác nhau và vì vậy được phân thành bốn loại
như sau:
Loại thứ nhất bao gồm các động từ hoặc các quán ngữ chỉ hiện tượng thời tiết
như: Il pleut, il neige, il tonne… (trời mưa, trời có tuyết, trời có sấm) hay il fait beau, il
fait du vent… (trời đẹp, trời có gió).
Loại thứ hai liên quan đến các câu có đại từ “il” đi cùng các động từ (verbe
opérateur) có bổ ngữ là một động từ nguyên thể hay một mệnh đề bổ ngữ. Các động từ
này có thể thuần túy vô nhân xưng (falloir) hoặc lâm thời vô nhân xưng (sembler,
arriver).
Loại thứ ba bao gồm các câu có cấu trúc “Il + V + SN” (V: động từ, SN: danh
ngữ), trong đó danh ngữ thường đứng bên phải động từ, được xem là chủ ngữ thực. Ví
dụ như trong câu “Il arrive des gens”(Van Peteghem) (Mọi người đến), ngữ danh từ
“des gens” là chủ ngữ thực của động từ “arriver”.
Loại cuối cùng liên quan đến dạng bị động vô nhân xưng, bao gồm 3 loại: câu bị
động thật sự với khách thể trong câu chủ động (objet) đóng vai trò chủ ngữ ngữ pháp
trong câu bị động được đặt sau động từ (Il se commet beaucoup d’injustices: Công lí đã
bị vi phạm = có nhiều bất công- Van Peteghem); câu bị động giả chứa một ngoại động
từ gián tiếp (Il sera procédé à une enquête: một cuộc điều tra sẽ được tiến hành)(ibid.)
và câu bị động giả chứa một nội động từ (Il fut dansé: nhảy). (ibid.)
1.2.3. Các loại cấu trúc vô nhân xưng theo Maingueneau
Maingueneau (1999) phân biệt ba loại cấu trúc vô nhân xưng chính
(constructions impersonnelles):
Loại thứ nhất bao gồm các cấu trúc có chứa t động từ như sau :
- Động từ hoặc quán ngữ chỉ thời tiết như: il pleut, il fait nuit… (trời mưa, trời
tối)
- Động từ có bổ ngữ bắt buộc, đòi hỏi một cụm danh từ, một động từ nguyên mẫu
hoặc một mệnh đề bổ ngữ như: il s’agit, il faut, il semble (que)… (về việc, cần phải,
dường như)
Đối với các động từ chỉ thời tiết, “il” chỉ “một chủ thể hành động không xác
định” (actant indéterminé), ngược lại, nếu câu có chứa các động từ bổ ngữ bắt buộc
3
(falloir), “il” là đại từ vô nhân xưng không mang bất kỳ một nét nghĩa nào.
Loại thứ hai liên quan đến các cấu trúc vô nhân xưng bị động và phản thân. Ví
dụ: Il se dit bien des choses par des gens. (Nhiều điều được mọi người nói đến-
Maingueneau
Loại thứ ba bao gồm các cấu trúc chứa các loại động từ như sau: nội động từ
không dùng với tân ngữ (survenir, tomber, sembler), các động từ inergatif (động từ có
thể luân phiên dùng với tư cách là nội động từ hoặc ngoại động từ), ngoại động từ hoặc
các tính ngữ. Các cấu trúc này chứa một yếu tố không xác định đứng bên phải của động
từ và được xem là chủ ngữ thực. Ví dụ trong câu “Il arrive un malheur”(Ibid.) (Xảy ra
một bất hạnh), “un malheur” là chủ ngữ thực của động từ “arriver”.
Các nội động từ inergatif được dùng với trợ động từ “avoir” có thể được dùng
trong cấu trúc vô nhân xưng nếu các cấu trúc này có chứa các bổ ngữ chỉ hoàn cảnh.
Trong câu “il a dormi souvent des soldats ici”(Maingueneau) (Những người lính hay
ngủ ở đây), “souvent”, “ici” và thời của động từ được xem là hoàn cảnh.
Các ngoại động từ cũng được dùng trong cấu trúc vô nhân xưng với điều kiện:
chủ ngữ không xác định, không có bổ ngữ và có các yếu tố chỉ hoàn cảnh. (Il mangeait
souvent des ouvriers dans ce café: Các công nhân hay ăn trong quán cà phê này).
(Ibid.)
1.2.4. Cách phân loại của Tomassone
Tomassone (2002) đề nghị chia câu vô nhân xưng tiếng Pháp thành hai loại cơ
bản:
- Câu có chứa động từ vô nhân xưng có chủ ngữ là đại từ “il”;
- Cấu trúc vô nhân xưng có chủ ngữ là một nhóm từ đứng ngay sau động từ;
Tác giả chia động từ vô nhân xưng thành hai loại: động từ luôn đòi hỏi một chủ ngữ vô
nhân xưng và động từ có thể dùng với chủ ngữ vô nhân xưng hoặc với chủ ngữ nhân
xưng.
Loại động từ thứ nhất bao gồm các động từ chỉ thời tiết luôn đi cùng với đại từ
“il” và không bao giờ có bổ ngữ. Tuy nhiên, trong cách dùng tu từ, các động từ này có
thể có các bổ ngữ đóng vai trò là chủ ngữ thực của động từ. (Il pleuvait des coups:
Những cú đấm trút xuống như mưa- Tomassone)
Cũng như Maingueneau, Tomassone xem các câu như il fait beau, il fait jour là
những quán ngữ động từ (locution verbale) do trong câu thiếu các từ hạn định
(déterminant) vì vậy chúng giống với các động từ chỉ thời tiết.
Loại thứ hai bao gồm các động từ vô nhân xưng có bổ ngữ bắt buộc, có nghĩa là
những động từ có một hoặc nhiều nhóm từ không thể hoán đổi vị trí đi theo sau. Các
động từ ở loại thứ hai này bao gồm ba loại sau:
- Các động từ luôn có một động từ nguyên thể hoặc một mệnh đề phụ thuộc theo
sau. Các động từ nguyên thể và các mệnh đề này không thể thay thế bằng một đại từ
nhân xưng, nhưng đôi khi có thể thay thế bằng một đại từ chỉ định (pronom
démonstratif), chẳng hạn như đại từ “cela” trong câu: Il ne s’agit pas de cela (không
phải về điều đó).
- Động từ “être” + tính từ như: Il est vrai que, il est bon que, il est possible
que…Tùy theo mỗi tính từ mà thức của động từ ở mệnh đề phụ thuộc có thể là thức
tường thuật (indicatif) hoặc thức giả định (subjonctif) và bổ ngữ có thể được thay thế
bằng “cela” trong tất cả các trường hợp.
4
- Các động từ có phần phụ thuộc theo sau có đặc tính của một bổ ngữ. Ví dụ: Il
faudra que tu me montres ce que tu as fait. (Mauriac) (Mày phải cho tao xem những gì
mày viết- Dương Linh dịch) Il le faut. (Phải làm điều đó). Trong trường hợp này
phần phụ thuộc “tu me montres ce que tu as fait” là bổ ngữ của động từ vô nhân xưng
“falloir”. Một số các động từ có thể chấp nhận đồng thời chủ ngữ nhân xưng và chủ
ngữ vô nhân xưng như trong sau:
Il vaut mieux faire que dire (Alfred de Musset)
(Làm tốt hơn nói)
Pierre vaux mieux que Jean (Tomassone) (Pierre không tốt bằng Jean.)
Như vậy, câu có chứa động từ vô nhân xưng không nhất thiết phải là một câu vô
nhân xưng.
Vẫn theo Tomassone, một cấu trúc được gọi là vô nhân xưng nếu cấu trúc đó có
các đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, nhóm danh ngữ đóng vai trò chủ ngữ trong câu nhân xưng phải chứa
một từ hạn định hoặc một từ chỉ số lượng.
Il arrive un malheur / Un malheur arrive. (Tomassone)
(Xảy ra một bất hạnh)
Mặt khác chủ ngữ này không thể là đại từ nhân xưng, bởi vì ta không thể nói “il
est entré lui dans le café”
- Đặc điểm thứ hai liên quan đến các động từ: các động từ trong câu nhân xưng
không thể là một nội động từ. Ví dụ: “Julien a filtré la liqueur”(Ibid.) (Julien đã bỏ
rượu) không thể chuyển thành câu vô nhân xưng “il a filtré Julien la liqueur”(Ibid.)
Hơn nữa, một số động từ phản thân có thể dùng trong các cấu trúc vô nhân xưng.
Ví dụ: Dix ans se sont passés avant que nous ayons pu nous revoir Il s’est
passé dix ans… (Tomassone)
(Mười năm đã trôi qua trước khi chúng ta có thể gặp lại nhau)
- Thứ ba, vô nhân xưng bị động cũng được xem là một cấu trúc vô nhân xưng bởi
vì đây là một kiểu cấu trúc không bắt buộc và có nhiều cách dùng.
Ví dụ:
- Il a été dit bien des bêtises./ Il s’est dit bien des bêtises/ (Tomassone) (Thực
sự đã nói ra nhiều điều ngu ngốc )
Như vậy, vô nhân xưng bị động có thể được diễn đạt bằng các cấu trúc “être +
quá khứ phân từ” và bằng hình thức phản thân (động từ có se).
Chúng tôi vừa điểm qua cách phân loại câu vô nhân xưng của bốn tác giả
Béchade, Van Peteghem, Maingueneau và Tomassone. Để có một cái nhìn tổng quát về
cách phân loại câu vô nhân xưng của các tác giả này, chúng tôi tổng hợp trong bảng
tóm tắt sau đây:
Tác giả
Số
kiểu
câu
2
Các kiểu câu vô nhân xưng
Béchade
1. Động từ vô nhân xưng thuần túy
1.1. Động từ chỉ các hiện tượng thời tiết
1.2. Động từ diễn tả các ý trừu tượng
2. Động từ + quán ngữ dùng ở vô nhân xưng (vô
nhân xưng lâm thời)
2.1. Il + ĐT + DT/ đại từ/động từ nguyên mẫu/ + que
5
Tác giả
Số
Các kiểu câu vô nhân xưng
kiểu
câu
2.2. Il + être + tính từ + de/ que
2.3. Il + faire + tính từ
4
3
Van
Peteghem
1. Il + động từ chỉ thời tiết
(*)
2. Il + ĐT opérateur
+ nguyên mẫu/ mệnh đề
(falloir, valoir, sembler, etc…)
(*) các động từ có bổ ngữ là một động từ nguyên thể
hay một mệnh đề bổ ngữ
3. Il + nội động từ + ngữ DT
4. Il est + nội động từ trực tiếp và gián tiếp
1. Loại thứ nhất: ĐT vô nhân xưng
1.1. Động từ và quán ngữ chỉ thời tiết
1.2. Il + ĐT vô nhân xưng (có bổ ngữ bắt buộc) + ngữ
DT/ nguyên mẫu/mệnh đề bổ ngữ
2. Loại thứ hai: Cấu trúc vô nhân xưng bị động và
phản thân
Maingueneau
2.1. Il + être + quá khứ phân từ
2.2. Il + ĐT phản thân
3. Loại thứ ba:
3.1. Il + nội ĐT inaccusatifs/ inergatifs/hoặc ngoại ĐT
3.2. Il + ngoại động từ
(Điều kiện: chủ ngữ không xác định, không có bổ ngữ
trực tiếp, có từ chỉ hoàn cảnh)
3.3. Il + être + ngữ tính từ + câu
2
Tomassone
1. Động từ vô nhân xưng
1.1. Il + ĐT chỉ thời tiết
1.2. Il + ĐT vô nhân xưng có bổ ngữ bắt buộc (một
hoặc nhiều nhóm không thể thay đổi vị trí: un ou
plusieurs groupes non déplaçables)
- Il + ĐT + nguyên mẫu/ mệnh đề
- Il + être + tính từ
- Il + ĐT + bổ ngữ
2. Các cấu trúc vô nhân xưng
2.1. Il + ngoại ĐT
2.2. Vô nhân xưng bị động
- Il + être + quá khứ phân từ
- Il + động từ phản thân
Từ bảng tổng hợp trên, chúng ta có thể thấy cả Béchade, Maingueneau và Van
Peteghem đều đồng ý với khái niệm “chủ ngữ thực” và “chủ ngữ hình thức”, trong khi
đó Tomassone lại không hề đề cập đến các khái niệm này. Theo Maingueneau chủ ngữ
“il” khi đi kèm với các động từ miêu tả thời tiết sẽ chỉ một “một chủ thể hành động
không xác định” (actant indéterminant). Còn Béchade và Van Peteghem lại cho rằng
6
“il” không đại diện cho bất kỳ một tác nhân nào (auncun agent). Trong khi đó, như
chúng ta biết, cho đến nay cơ chế sản sinh ra các hiện tượng thời tiết vẫn chưa được
biết đến một cách đầy đủ. Điều này cho thấy rằng việc sử dụng thuật ngữ “chủ thể hành
động không xác định” của Maingueneau để nói về chủ ngữ “il” hoàn toàn phù hợp với
thực tế khoa học và như vậy sẽ thích hợp hơn so với thuật ngữ “không có tác nhân” của
Béchade và Van Peteghem.
Nếu như Van Peteghem đề nghị phân biệt các loại vô nhân xưng dựa trên các
hiện tượng ngôn ngữ để giúp người học ngoại ngữ lĩnh hội dễ dàng hơn, thì Béchade,
Maingueneau và Tomassone lại phân biệt các loại câu hay cấu trúc dựa trên bản chất
của động từ (động từ vô nhân xưng thuần túy và vô nhân xưng lâm thời). Tuy nhiên
trong thực tế, đối với các trường hợp tu từ, động từ vô nhân xưng thuần túy cũng có thể
được chia ở một ngôi khác ngoài ngôi “il” vô nhân xưng (Eau, quand donc pleuvras -
tu? - Baudelaire)
Chúng tôi cũng nhận thấy rằng việc phân thành “câu vô nhân xưng” hay “cấu
trúc vô nhân xưng” thay đổi tùy theo quan niệm của mỗi tác giả. Béchade cho rằng cấu
trúc vô nhân xưng giới hạn ở các trường hợp động từ trong câu được sử dụng lâm thời
ở dạng vô nhân xưng, thì ngược lại, Maingueneau gọi tất cả các loại vô nhân xưng là
cấu trúc vô nhân xưng. Trong khi đó, Tomassone lại cho rằng cấu trúc vô nhân xưng là
những câu có chứa động từ chỉ dùng được trong câu vô nhân xưng hoặc câu bị động vô
nhân xưng, bởi vì câu bị động vô nhân xưng được xem là kiểu câu không bắt buộc và
có thể có nhiều cách dùng khác. Chính từ sự khác biệt này, chúng tôi đề xuất loại bỏ
khái niệm “cấu trúc vô nhân xưng” và không nhất thiết phải phân biệt giữa “động từ vô
nhân xưng thuần túy” và “động từ vô nhân xưng lâm thời”. Chúng tôi cho rằng việc sử
dụng thuật ngữ “câu vô nhân xưng” để nói về tất cả các kiểu câu vô nhân xưng sẽ phù
hợp hơn, bởi vì trong thực tế “cấu trúc vô nhân xưng” hay “câu vô nhân xưng” trong
tiếng Pháp về mặt hình thức đều thỏa mãn đầy đủ các điều kiện của một câu hoàn
chỉnh, đó là có sự hiện diện của chủ ngữ và động từ vị ngữ.
Như vậy, sự khác biệt trong cách xác định bản chất của đại từ bất định “il”, trong
cách phân biệt giữa “cấu trúc vô nhân xưng” và “câu vô nhân xưng”, trong cách phân
loại câu vô nhân xưng dựa trên các đặc điểm ngữ pháp sẽ ít nhiều gây khó khăn cho
người học ngoại ngữ, đặc biệt cho người Việt Nam học tiếng Pháp, bởi vì tiếng Việt
chấp nhận các câu khuyết chủ ngữ vì vậy không có hiện tượng “chủ ngữ giả” hay “chủ
ngữ hình thức” một khi ngữ cảnh đã rõ. Với mục tiêu có thể giúp người học Việt Nam
dễ dàng nắm vững cách dùng câu vô nhân xưng trong tiếng Pháp hơn, chúng tôi đề
nghị sắp xếp lại cách phân loại câu vô nhân xưng của các tác giả nêu trên. Chúng tôi sẽ
lựa chọn các thuật ngữ thông dụng nhằm giúp người học dễ dàng ghi nhớ hơn như
“verbes à compléments obligatoires” (động từ có bổ ngữ bắt buộc) thay vì thuật ngữ
“verbe opérateur” của Van Peteghem mặc dù cả hai thuật ngữ này đều có nghĩa như
nhau. Chúng tôi cũng sử dụng các thuật ngữ dễ hiểu như “danh ngữ”, “nguyên mẫu” và
“mệnh đề bổ ngữ” thay vì “nhóm không thể thay đổi vị trí” (groupes non déplaçable)
như Tomassone đã dùng. Chúng tôi đề nghị phân loại các kiểu câu vô nhân xưng như
dưới đây. Trong bảng phân loại này, chúng tôi sẽ giữ nguyên các thuật ngữ bằng tiếng
Pháp để người đọc tiện theo dõi hơn.
Bảng 2 : Bảng phân loại lại các kiểu câu vô nhân xưng
7
1
2
Il + verbe ou locution météorologique/ de temps
(Il + Đt hoặc quán ngữ thời tiết/ thời gian)
Ex: Il neige/ Il fait beau/ Il est minuit.
Il
+
verbe
à
compléments
obligatoires
+
GN/infinitif/complétif
(Il + ĐT có bổ ngữ bắt buộc + danh ngữ/ ĐT nguyên thể/ mệnh
đề)
Ex: Il passe deux trains tous les jours/ Il faut partir/ Il me semble
que tu n’es pas honnête.
3
Il + verbes intransitifs + complément (sujet véritable du
verbe)
(Il + nội ĐT + bổ ngữ (CN thật của ĐT))
Ex: Il arrive un malheur.
Il + être + adjectif (Il + ĐT être + tính từ)
Ex : Il est impossible de faire cinquante choses à la fois.
Il + être + PP / Il + verbe pronominal
(Il + être + quá khứ phân từ/ Il + ĐT phản thân)
Ex : Il a été dit bien des bêtises. / Il s’est dit bien des bêtises.
4
5
Như vậy, bảng phân loại lại các kiểu câu vô nhân xưng trên sẽ là cơ sở để
chúng tôi có thể phân tích một cách hệ thống cách dịch câu vô nhân xưng từ tiếng Pháp
sang tiếng Việt trong phần phân tích dữ liệu.
2. Nét tương đồng giữa câu vô nhân xưng trong tiếng Pháp và câu không đề trong
tiếng Việt
2.1. Câu vô nhân xưng : câu không đề trong tiếng Pháp
2.1.1. Đặc điểm câu vô nhân xưng trong tiếng Pháp
Như đã đề cập ở phần lý thuyết, Tomassone (2002, tr. 156) cho rằng đại từ "il"
ở câu vô nhân xưng "không có các thuộc tính diễn giải của chủ ngữ, không phải là tác
nhân hành động, cũng không phải là phần đề". Như vậy, chúng ta thấy xuất hiện một
điểm chung giữa câu vô nhân xưng và câu không đề trong tiếng Việt, đó là câu vô nhân
xưng mặc dù có chủ ngữ, nhưng chỉ là chủ ngữ hình thức không có nội dung ngữ nghĩa
và cũng không được xem là phần đề trong câu. Điều này, cũng đã được Mir-Samii nhấn
mạnh khi cho rằng “Vô nhân xưng ngôn ngữ là những cấu trúc có chủ ngữ không có quy
chiếu (“il”) và không có phần đề.” (2009, tr. 155-177)
2.1.2. Cách sử dụng câu vô nhân xưng
Theo Tomassone (2002, tr. 160), câu vô nhân xưng thường được sử dụng
trong một số văn bản mang tính quy tắc, mệnh lệnh và không đề cập đến người phát
ngôn, người tiếp nhận phát ngôn hoặc không đề cập đến cả người phát ngôn lẫn người
nhận phát ngôn như trong các ví dụ sau :
Không đề cập đến người phát ngôn:
- En toutes circonstances, il est demandé aux élèves d’être polis et respectueux vis-à-
vis de tous.
(Tomassone)
Trong mọi trường hợp, yêu cầu học sinh phải lịch sự và tôn trọng mọi người
Không đề cập đến người nhận phát ngôn :
- Les livres prêtés par l'établissement doivent être traités avec le plus grand soin, S'il y
a dégradation ou perte, les parents seront pécuniairement responsables. (Tomassone)
8
Sách do cơ sở cho mượn phải được giữ gìn cẩn thận. Nếu bị hư hỏng hoặc mất mát,
phụ huynh sẽ phải đền tiền.
Trong ví dụ này, đối tượng nhận phát ngôn không được trực tiếp nhắc đến
chính là các em học sinh nhỏ tuổi, được nhận biết nhờ vào ngữ cảnh ngôn ngữ “ phụ
huynh “ (les parents).
Không đề cập đến cả người phát ngôn và người nhận phát ngôn :
- Il est interdit de fumer dans les lieux publics. (https://solidarites-sante.gouv.fr/)
Cấm hút thuốc tại nơi công cộng.
2.2. Khái quát về câu không đề trong tiếng Việt
2.2.1. Cấu trúc đề-thuyết và chủ-vị trong tiếng Việt
Theo Cao Xuân Hao (Cao, 2004), trong tiếng Việt, các câu có quan hệ “chủ
ngữ“ chỉ chiếm 17% so với các loại câu khác (theo Hoàng Trọng Phiến 1980, Lê Cận,
Phan Thiều 1983). Điều này giải thích tại sao có nhiều câu không thể phân tích thành
mô hình " chủ-vị ". Dựa vào lập luận trên, năm 1991 Cao Xuân Hạo đã đề xuất lần đầu
tiên phân tích một cách có hệ thống cấu trúc câu theo mô hình "Đề- thuyết" trong tác
phẩm “Sơ thảo ngữ pháp chức năng tiếng Việt”. Theo ông, chủ đề là điểm khởi đầu
của phát ngôn, dựa vào đó thông tin được cung cấp trong phần thuyết. Do đó, chủ đề
không phải lúc nào cũng trùng với chủ ngữ ngữ pháp, nhưng nó hầu như luôn đứng ở
đầu câu.
Việc phân tích câu theo mô hình " đề-thuyết " của Cao Xuân Hạo đặc biệt thích hợp với
các trường hợp mà chủ ngữ không trùng với chủ thể của hành động và trường hợp phân
tích câu thành cấu trúc thông tin. Chẳng hạn như trong câu " Cái gì Giáp cũng biết "
(Nguyễn Hồng Cổn). Nếu phân tích câu thành cấu trúc " chủ-vị ", " cái gì " sẽ là chủ
ngữ của câu, tuy nhiên " Giáp " mới chính là chủ ngữ của hành động.
Trong thực tế, việc phân tích câu thành " đề-thuyết " cũng bộc lộ một số khiếm
khuyết đó là khó phân tích chi tiết tất cả các thành phần trong câu như : các bổ ngữ chỉ
hoàn cảnh, thời gian, địa điểm dẫn đến khó khăn trong việc đặt tên các loại câu. Vì
những lý do này, một số nhà ngôn ngữ học như Diệp Quang Ban (2005), Nguyễn Hồng
Cổn (2008), v.v ... đã đề xuất phân tích cấu trúc câu tiếng Việt vừa theo mô hình “ chủ-
vị “ vừa theo mô hình " đề-thuyết " khi cho ra rằng mô hình đầu tiên tương ứng với
chức năng biểu hiện của ngôn ngữ, mô hình thứ hai tương ứng với chức năng diễn ngôn
và hai mô hình này phải bổ sung cho nhau.
2.2.2. Các kiểu câu không đề trong tiếng Việt và cách dùng
Chúng tôi sẽ giới thiệu về câu không đề theo cách phân loại của Cao Xuân
Hạo dựa vào tác phẩm "Tiếng Việt, Sơ thảo ngữ pháp chức năng." (Cao Xuân Hạo,
2004, tr. 278-286).
2.2.2.1. Câu lấy khung cảnh hiện hữu làm đề
Đối với kiểu câu này, nòng cốt của phần thuyết thường là một vị từ tĩnh chỉ
trạng thái hoặc tính chất, hay cũng có thể là một danh ngữ. Loại câu này thường đề cập
đến các vấn đề thời tiết, thời gian, khung cảnh, đối tượng cụ thể. Đáng lưu ý là, ở vị trí
trống của phần đề có thể thêm vào các từ như “ trời “ khi nói về thời tiết, " bây giờ "
khi nói về thời gian hoặc " ở đây " khi nói về khung cảnh.
Ví dụ:
(1)- Mưa dầm dề mãi thôi Trời mưa dầm dề mãi thôi
Qu’il pleut tout le temps!
9
(2) Khuya quá rồi Bây giờ khuya quá rồi
tard maintenant.
2.2.2.2. Câu có phần đề bỏ trống chỉ ngôi thứ nhất
Il est trop
Loại câu này, thường diễn tả một cảm giác về thể chất, một tình cảm, một ý
muốn, một nhu cầu, v.v. Ở vị trí trống của phần đề có thể thêm vào các đại từ chỉ ngôi
thứ nhất như " tôi ", " chúng tôi" hay " chúng ta ".
Ví dụ theo Cao Xuân Hạo (2004, tr. 283)
(1) Đau chân quá Tôi đau chân quá. J’ai trop mal au pied
Các loại câu ngôn hành có phần đề bỏ trống thường bắt đầu bằng "xin" hay "xin có
lời " chẳng hạn như :
(2) Xin chúc anh một năm đầy hạnh phúc. Je voudrais vous souhaiter une
année pleine de bonheur
2.2.2.3. Câu có phần đề bỏ trống chỉ ngôi thứ hai
Ở vị trí trống của phần đề của loại câu này, có thể thêm vào đại từ ở ngôi thứ
hai như "anh" hoặc "chúng ta" để diễn tả một yêu cầu, một lời khuyên, một mệnh lệnh,
có hoặc không sử dụng tiểu từ tình thái cầu khiến như "hãy", "nên", " đừng", v.v…
Hoặc là để đặt ra một câu hỏi.
Ví dụ : (Theo Cao Xuân Hạo)
(1) Đi làm đấy à ? Anh đi làm đấy à ?
Vas-tu travailler ?
Loại câu này cũng thường được sử dụng để đưa ra những bài học về đạo đức hoặc nói
về một sự thật hiển nhiên.
Ví dụ :
(2)- Phải tôn trọng người già cả. Il faut on doit respecter les personnes
âgées
2.3. Nét tương đồng giữa câu vô nhân xưng trong tiếng Pháp và câu không đề
trong tiếng Việt
Qua đặc điểm của câu vô nhân xưng trong tiếng Pháp và câu không đề trong
tiếng Việt đã nêu ở phần trên,
chúng tôi xin được trình bày những điểm tương đồng giữa câu vô nhân xưng trong
tiếng pháp và câu không đề trong tiếng Việt qua bảng tổng hợp dưới đây:
Bảng 3: So sánh câu vô nhân xưng với câu không đề trong tiếng Việt
Nội dung thông tin
Các kiểu câu vô nhân xưng
trong tiếng Pháp
Các kiểu câu không đề trong
tiếng Việt
- Thời tiết
- Thời gian
- Khung cảnh
- Câu vô nhân xưng nhóm (1)
- Câu lấy khung cảnh hiện
hữu làm đề
Il + verbes ou locutions
météorologiques
(Il + động từ/quán ngữ chỉ thời
tiết)
- Ø + vị từ tĩnh/ danh ngữ
*Trời + từ chỉ thời tiết)
* Bây giờ + từ chỉ thời gian
* Ở đây + từ chỉ nơi chốn
Câu có phần đề bỏ trống chỉ
ngôi thứ hai
- Sự bắt buộc
-Lời khuyên nhủ
- Sự cần thiết
Câu vô nhân xưng nhóm (2)
Il
+
verbes
à
compléments Ø + tiểu từ tình thái cầu
khiến (hãy, nên, đừng…) +
obligatoires+
GN/infinitif/complétif
ĐT
(Il + động từ có bổ ngữ bắt buộc :
10
danh ngữ/động từ nguyên
thể/mệnh đề bổ ngữ) (Il faut, il
vaut…)
-Đánh giá/ ý kiến
Tình huống/khả
năng
Câu vô nhân xưng nhóm (4) và Câu có phần đề bỏ trống chỉ
-
một phần nhóm (2)
- Il + être + adjectif - (Il + être +
tính từ)
ngôi thứ nhất (tôi, chúng tôi)
hoặc ngôi thứ hai (anh,
chúng ta)
-Il
+ verbes à compléments Ø + tính từ/động từ +mệnh
obligatoires+ /complétif
(Il + Đt có bổ ngữ bắt buộc /mệnh
đề bổ ngữ (il est délicat de, il
suffit que…)
đề
Ghi chú : Ø : Không đề
Nói tóm lại, có ba trường hợp câu vô nhân xưng trong tiếng Pháp có nét tương
đồng với câu không đề trong tiếng Việt. Các nét tương đồng này không phải về cấu trúc
bề mặt của câu mà liên quan đến nội dung thông tin ở cấp độ phát ngôn. Cả hai ngôn
ngữ đều dùng đến ngữ cảnh ngôn ngữ để xác định chính xác đề trong câu.
Các kiểu câu vô nhân xưng còn lại như :
- (3) Il + verbes intransitifs + complément (chủ ngữ thực),
- (5) Il + être + PP/ Il + verbe pronominal
- và một phần của kiểu (2) Il + verbes à compléments obligatoires +
GN/infinitif/complétif
có nội dung thông tin rất đa dạng tỏ ra hoàn toàn khác biệt về mặt hình thái cú pháp
cũng như về cấp độ phát ngôn so với các loại câu trong tiếng Việt. Chúng tôi nhận định
rằng sự khác biệt lớn này giữa hai ngôn ngữ sẽ gây ra không ít khó khăn cho người
Việt học tiếng Pháp trong việc hiểu và sử dụng các kiểu câu trên.
3. Lý thuyết dịch
3.1. Định nghĩa về dịch thuật
Theo Georges Mounin (1963, tr. 12), " dịch có nghĩa là tạo ra trong ngôn ngữ
đích thông điệp tương đương gần nhất với thông điệp trong ngôn ngữ nguồn, trước hết
về ý nghĩa sau đó về văn phong". Pergnier (1978, tr. 26), một đại diện của phương pháp
lý thuyết ngôn ngữ xã hội học, cho rằng: " dịch là thay thế một thông điệp (hoặc một
phần của thông điệp được phát ngôn trong một ngôn ngữ bằng một thông điệp tương
đương trong một ngôn ngữ khác." Theo tác giả này, mục đích của dịch là chuyển một
thông điệp từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, như vậy, dịch là một hành động giao
tiếp
Ladmiral (1979, tr. 11) cũng đồng tình khi cho rằng dịch đóng vai trò " hòa
giải liên ngôn ngữ " (médiation interlinguistique) và được xem như một phương tiện
giao tiếp trong đời sống hàng ngày với mục đích trao đổi văn hóa.
Đối với lý thuyết diễn giải của trường phái Paris, nghĩa chiếm vị trí trung tâm
trong quá trình dịch thuật, bởi vì " dịch có là nghĩa là truyền tải ý nghĩa của các thông
điệp trong văn bản." Như vậy, dịch thuật hầu như không phải là một hoạt động ngôn
ngữ mà là một công việc về thông điệp, về ý nghĩa. Và " ý nghĩa chính là ý tưởng hoặc
nếu muốn có thể gọi đó là điều mà người nói muốn nói, và người nghe hiểu được."
(Seleskovitch & Lederer, 1986, tr. 256).
11
3.2. Các thủ pháp dịch theo Vinay và Darbelnet
3.2.1-Dịch vay mượn (L’Emprunt)
Phương pháp này sử dụng lại các thuật ngữ của ngôn ngữ gốc, khi ngôn ngữ
đích không có từ tương đương thay thế. Chẳng hạn như các từ: nhà ga (gare), cà phê
(càfé), internet, tivi (tivi)...vv. là những từ có nguồn gốc từ tiếng Anh hay Pháp được
dùng lại nguyên văn trong tiếng Việt.
3.2.2- Dịch mô phỏng (Le calque)
Thủ pháp dịch này có thể dựa trên sự mô phỏng diễn đạt hoặc mô phỏng cấu
trúc. Ví dụ như "to fall in love "trong tiếng Anh được dịch là "tomber en amour "
(tomber amoureux) trong tiếng pháp. Hoặc "Science-fiction " (Khoa học viễn tưởng)
trong tiếng Anh được giữ nguyên là "Science-fiction" trong tiếng Pháp.
3.2.3 Dịch nguyên văn (La traduction littérale)
Là cách dịch sát nghĩa từ đối từ, từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ đích, nhưng
có những thay đổi cho phù hợp với ngữ pháp của ngôn ngữ đích. Ví dụ, câu hỏi trong
tiếng Anh: "Where are you? " sẽ được dịch sang tiếng Pháp là: "Où êtes-vous"? ( Bạn ở
đâu?) với trật tự từ không thay đổi.
3.2.4. Dịch chuyển đổi (La transposition)
Đây là cách mà người dịch chuyển đổi một từ hoặc một ngữ đoạn trong ngôn
ngữ gốc sang ngôn ngữ đích bằng cách thay thế loại hình ngữ pháp của từ hay ngữ
đoạn đó mà không làm thay đổi thông tin trong ngôn ngữ gốc. Chẳng hạn như trong
tiếng Pháp câu nói: “Il a annoncé qu’il reviendrait” (Anh ấy thông báo anh ấy sẽ trở
về), có thể chuyển đổi động từ trong mệnh đề phụ “revenir” (trở về) thành danh từ
trong câu: “Il a annoncé son retour” (Anh ấy đã thông báo sự trở về của anh ấy).
3.2.5. Dịch chuyển điệu (La modulation)
Dịch chuyển điệu là cách dịch làm thay đổi quan điểm, làm sáng tỏ vấn đề
hoặc cho thấy một cách nhìn riêng biệt về các sự vật, sự việc của người đọc trong ngôn
ngữ đích. Ví dụ, người Anh sẽ nói "It is not difficult to show…" nhưng người Pháp có
thể nói theo hai cách “ Il est facile de démontrer … “ (Thật dễ để chỉ ra rằng…) hoặc
“ il n'est pas difficile de démontrer… “ (không khó để chỉ ra rằng).
3.2.6. Dịch tương đương (L’équivalence)
Dịch tương đương hướng đến việc giữ lại thông điệp trong nguyên bản gốc,
nhưng sử dụng văn phong và cấu trúc hoàn toàn khác biệt trong ngôn ngữ đích. Dịch
tương đương được sử dụng rộng rãi khi dịch các thành ngữ, tục ngữ. Ví dụ như thành
ngữ “Tout ce qui brille n’est pas or” (Tất cả những gì lấp lánh đều không phải bằng
vàng) phải được dịch ra trong tiếng Việt là “Thùng rỗng kêu to”.
3.2.7. Dịch thích ứng (L’adaptation)
Khi bối cảnh trong ngôn ngữ gốc không tồn tại trong ngôn ngữ đích, người
dịch sẽ phải giữ lại chủ đề, nhân vật, cốt truyện, nhưng thay đổi hoàn toàn các yếu tố
văn hóa của ngôn ngữ gốc thành các yếu tố văn hóa của ngôn ngữ đích. Chẳng hạn,
trường hợp một ông bố đi xa trở về, hôn con gái lên môi là một nét văn hóa rất bình
thường của người Anh, nhưng điều đó lại không thể chấp nhận được đối với văn hóa
của nước Pháp. Vì vậy câu: “He kissed his daughter on the mouth” (Ông ấy hôn lên
môi cô con gái) trong tiếng Anh phải được dịch trong tiếng Pháp là: “Il serra
tendrement sa fille dans ses bras” (Ông ấy ôm con gái vào lòng). (Vinay J.P,
Darbelnet J., 1972)
12
Chương II : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÌNH LUẬN
1. Mô tả dữ liệu nghiên cứu và quy ước trình bày
1.1. Mô tả dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu của chúng tôi được lấy từ hai cuốn tiểu thuyết “Le mystère
Frontenac" của tác giả François Mauriac (giải Nobel văn học 1952) do nhà xuất bản
Bernard Grasset ấn hành lần đầu tiên vào năm 1933 và được dịch sang tiếng Việt năm
1999 với tiêu đề “Bí ẩn nhà Frontenac“ (dịch giả Dương Linh). Và cuốn "Je l’aimais"
của Anna Gavalda, do nhà xuất bản "J’ai lu" xuất bản năm 2002. Năm 2008, tiểu
thuyết này được nhà xuất bản Nhã Nam chọn dịch sang tiếng Việt với tên gọi "Bố đã
từng yêu" (Ánh Hồng dịch) và được xếp hạng là một trong những tiểu thuyết được yêu
thích nhất trong năm.
Tổng cộng, chúng tôi đã thống kê được 224 đoạn trích có chứa 228 câu vô
nhân xưng. Sau đó chúng tôi đã xếp các loại câu này theo 5 loại câu vô nhân xưng mà
chúng tôi đã đề cập trong phần lý thuyết. Sau đây là bảng tổng hợp số lượng câu vô
nhân xưng theo từng loại cụ thể :
Bảng 4 : Thống kê các loại câu vô nhân xưng được sử dụng trong hai tác phẩm
văn học
Loại câu vô nhân xưng
Số lượng
câu
Tỉ lệ
1. Il + verbe ou locution météorologique/de temps
13
5.70%
2. Il
+
verbe
à
complément obligatoire
+
201
88.16%
GN/infinitif/complétif
3. Il + verbe intransitif + complément (sujet véritable
10
4.39%
du verbe)
4. Il + être + adjectif
5. Il + être + PP / Il + verbe pronominal (sens passif)
4
0
1.75%
0%
228
100 %
Total
1.2. Quy ước trình bày
Trong phần phân tích, chúng tôi đề xuất gọi cụm từ "il (vô nhân xưng) + động
từ" là “quán ngữ vô nhân xưng“ (locution verbale impersonnelle) đối với tất cả các
trường hợp sử dụng động từ vô nhân xưng hoặc động từ nhân xưng trong cấu trúc vô
nhân xưng và quán ngữ cố định (locution figée) để chỉ các nhóm từ không thể tách rời
và được dùng cố định theo truyền thống, có nghĩa tương đương với một từ duy nhất,
chẳng hạn như “il y a” , “il importe de”, “il appartient à”, v.v.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Kiểu câu vô nhân xưng (1) “Il + verbe ou locution météorologique/ de temps”
(Il + ĐT/ quán ngữ chỉ thời tiết/ thời gian)
Đối với kiểu câu này, trong phần lớn các trường hợp, các dịch giả thường sử dụng thủ
pháp dịch tương đương để diễn đạt lại sang tiếng Việt. Trong một số trường hợp khác,
thủ pháp dịch chuyển đổi cũng được lựa chọn.
a/ Dịch tương đương
Để dịch các câu vô nhân xưng diễn tả một hiện tượng thời tiết hoặc thời gian, các dịch
13
giả thường thay thế đại từ nhân xưng il bằng danh từ chung trời trong tiếng Việt nhằm
phù hợp với phong cách diễn đạt của tiếng Việt.
- Ví dụ để miêu tả hiện tượng thời tiết :
(1)
Il faisait froid. La lumière de quatre heures, un bref instant, caressait les
troncs… (Mauriac, tr. 52)
=> Trời lạnh. Ánh sáng mặt trời quãng bốn giờ chiều thoáng chốc mơn man
các thân cây... (Dương Linh, tr. 53)
Các dịch giả cũng sử dụng cách dịch tương đương mà không dùng từ "trời" như trong
phát ngôn sau :
(2)
(Mauriac, tr. 108)
=> Gió hiu hiu mát và bọn trẻ cho rằng có mưa ở nơi khác. (Duong Linh,
Le vent plus frais faisait dire aux enfants qu’il avait dû pleuvoir ailleurs.
tr.109)
b/ Dịch chuyển đổi
* Mệnh đề vô nhân xưng được chuyển thành cụm giới từ.
(4)
Habillez-vous, on va aller aux champignons. Avec ce qu’il a plu hier, on va
en trouver plein. (Gavalda, tr. 60)
=> Mặc quần áo đi, chúng ta sẽ đi hái nấm. Sau cơn mưa ngày hôm qua,
chúng ta sẽ tìm được nhiều lắm đấy. (Anh Hong, tr. 66)
Trong ví dụ trên mệnh đề Avec ce qu’il a plu hier (Với việc trời đã mưa ngày hôm
qua) được thay thế bằng cụm giới từ sau cơn mưa ngày hôm qua trong tiếng Việt.
2.2. Loại 2 “Il + verbes à compléments obligatoires + GN/infinitif/complétif”
(Il +Đt có bổ ngữ bắt buộc+danh ngữ/Đt nguyên thể/mệnh đề bổ ngữ)
Đối với loại câu thứ hai này, chúng tôi thấy rằng các dịch giả đã áp dụng một
số thủ pháp dịch như sau : dịch nguyên văn, dịch chuyển đổi và dịch tương đương.
a/ Dịch nguyên văn
* Đối với câu vô nhân xưng diễn tả sự cần thiết hoặc sự bắt buộc :
(6)
- Il suffisait de tendre la main. Le reste se serait bien arrangé d’une façon ou
d’une autre. (Gavalda, tr. 206)
=> Chỉ cần chìa tay ra. Phần còn lại sẽ được thu xếp chu toàn bằng cách này
hay cách khác. (Anh Hong, tr. 214)
* Đối với câu vô nhân xưng diễn tả sự tồn tại
(9)
Il n’existe personne, dans la famille la plus unie, qui n’attende, qui n’espère
une lettre, à l’insu des autres. (Mauriac, tr. 96)
=> Không có người nào, dù trong một gia đình êm ấm nhất, lại không thầm
kín chờ một lá thư của riêng mình mà không ai biết. (Duong linh, tr. 97)
b/ Dịch chuyển đổi
Lưu ý rằng cùng những quán ngữ vô nhân xưng có thể có nhiều cách dịch
khác nhau :
* Đại từ bổ ngữ chỉ người được chuyển thành chủ ngữ :
(10)
- Il m’avait fallu quarante-deux ans pour le découvrir et j’étais si émerveillé
que je m’interdisais de tout gâcher en scrutant l’horizon. (Gavalda, tr.153)
=> Bố phải mất đến bốn mươi hai năm mới nhận ra được điều đó và bố
ngây ngất đến mức tự cấm mình làm hỏng mọi việc khi bới lông tìm vết. (Anh
Hong, tr.158)
14
Trong các phát ngôn trên đại từ bổ ngữ chỉ người “me” là chủ ngữ thật của
hành động được chuyển đổi thành chủ ngữ “bố” trong bản dịch tiếng Việt.
* Quán ngữ vô nhân xưng được chuyển đổi thành liên từ
(11)
- Il arriva qu’un de ces soirs, Yves ne sortit pas. (Mauriac, tr. 212)
=> Rồi một tối, Yves ở nhà không đi đâu. (Duong Linh, tr. 213)
Trong ví dụ này, quán ngữ vô nhân xưng “il arrive que” được thay thế bằng
liên từ “rồi” trong tiếng Việt.
* Quán ngữ vô nhân xưng được chuyển đổi thành trạng từ :
(12)
ridicule. (Gavalda, tr. 188)
=> Thậm chí, có lần hai người còn chỉ ở trong khu vực sân bay… Thật là nực
- Il nous est même arrivé de rester dans l’enceinte de l’aéroport…c’était
cười. (Ánh Hồng, tr. 195)
* Chuyển đổi kép
(13)
- Laisse- moi parler. Il faut que je démêle tout ça maintenant. (Gavalda,
tr.80)
=> Hãy để bố nói. Bố cần phải tháo gỡ mọi điều ngay bây giờ. (Ánh Hồng,
Trong ví dụ này, mệnh đề phụ "que je démêle tout ça maintenant" được
tr.84)
chuyển thành mệnh đề độc lập " Bố cần phải tháo gỡ mọi điều ngay bây giờ" và động
từ vô nhân xưng "falloir" trong mệnh đề chính của câu chuyển thành động từ tình thái "
cần phải" trong câu đơn.
c/ Dịch chuyển điệu
* Câu vô nhân xưng được chuyển thành câu cầu khiến
Trong tiếng Pháp, câu vô nhân xưng có dạng của một câu trần thuật, tuy nhiên
nó có thể Pháp được diễn đạt lại thành câu cầu khiến trong tiếng Việt bắt đầu bằng
động từ cầu khiến “Hãy”.
(14)
- Tu as bien raison, ne t’encombre plus la mémoire, il faut oublier tout ce
dont nous avons eu la bêtise de la gaver… (Mauriac, tr.190)
=>Phải rồi, đừng nhồi nhét trí nhớ làm gì, hãy quên tất cả những gì chúng ta
đã dại dột chất vào đó…”
* Câu vô nhân xưng phủ định được chuyển thành câu khẳng định
(15)
“Il n’eut pas besoin de marcher longtemps pour ne plus entendre les éclats
de voix, pour ne plus sentir l’odeur des cigares.” (Mauriac, tr. 140)
=> Chỉ bước một lát đã không còn nghe tiếng ồn ào, không ngửi mùi khói xì
gà nữa. (Duong Linh, tr. 141)
d/ Dịch tương đương
Dịch tương đương được các dịch giả sử dụng thường xuyên đối với câu vô
nhân xưng loại thứ 2:
* Đối với câu vô nhân xưng diễn tả sự cần thiết
(16)
- Il allait falloir s’enfermer dans la maison, déjà on respirait mal, les
cigales, une à une, éclataient de joie. (Mauriac, tr. 88)
=> Sắp đến mùa ở rịt trong nhà, thời tiết bắt đầu khó thở, ve sầu lần lượt
kêu vang. (Duong Linh, tr. 89)
* Đối với câu vô nhân xưng diễn tả một khả năng
(17)
Il me semble qu’une certaine complicité est née ce soir –là…Quelque chose
15
de très tenu (Gavalda, tr. 20)
=> Hình như là có một mối quan hệ đồng minh nhất định đã nảy sinh từ tối
hôm đó…Một cái gì đó rất mong manh. (Ánh Hồng, tr. 22)
* Đối với câu vô nhân xưng diễn tả sự tồn tại
(18)
Il y avait quelque chose de cruel dans ces petits sourires en coin, j’étais
complètement dans le coaltar mais je m’en rendais bien compte. (Gavalda, tr.
136)
=> Những nụ cười khóe môi ẩn chứa cái gì đó thật ác ý dù bố đang hoàn toàn
ngây ngất, nhưng bố vẫn nhận ra điều đó. (Anh Hong, tr. 141)
* Đối với câu vô nhân xưng bắt đầu bằng “il s’agit de”
(19)
- Blanche avait cru d’abord qu’il s’agissait pour lui de se débarrasser
d’une surveillance ennuyeuse. (Mauriac, tr. 18)
=> Thoạt đầu, Blanche tưởng anh muốn rũ trách nhiệm khỏi phải trông coi
phiền toái (Duong Linh, tr. 19)
* Đối với các quán ngữ cố định
Đối với câu vô nhân xưng có chứa quán ngữ cố định, các dịch giả luôn sử
dụng thủ pháp dịch tương đương.
(20) Là-dessus ma chère, vous le croirez ou vous ne le croirez pas, il a éclaté en
sanglots, criant qu’il y allait de son avenir, de sa réputation, de sa vie ;
(Mauriac, tr. 206)
=> Thế là chị tin hay không thì tùy, ông ấy òa lên khóc, kêu rằng điều đó can hệ
đến tương lai, danh tiếng, đến cuộc sống của ông ; (Duong Linh, tr. 207)
2.3. Loại 3 “Il + verbes intransitifs + complément (chủ ngữ thật của động từ)”
Trong dữ liệu của chúng tôi, có rất ít câu vô nhân xưng loại này (7/242 câu).
Các thủ pháp để dịch loại câu này là dịch nguyên văn, dịch chuyển điệu và dịch tương
đương.
a/ Dịch nguyên văn
(21)
- Il régnait entre eux une entente, qui n’était pas seulement dans les parole ;
une entente au-delà de leur volonté, un accord du sang. (Mauriac, tr. 136)
=> Giữa hai người hình như có một sự đồng tình, không chỉ qua lời nói,
một sự đồng tình vượt lên trên ý muốn, một sự hòa hợp về huyết thống.
(Duong Linh, tr. 137)
Đặc điểm của loại câu vô nhân xưng này chính là chủ ngữ thật luôn đứng sau
động từ, ở vị trí của bổ ngữ. Tuy nhiên, khi dịch sang tiếng Việt, người dịch hầu như
không bao giờ đặt chủ ngữ thực sự ở đầu câu trước động từ, vì khi nói về sự tồn tại,
người Việt thường có thói quen đặt động từ “có” (il y a) ở đầu câu giống như trong
tiếng Pháp. Các quán ngữ vô nhân xưng “Il règne”, “il existe” cũng diễn tả sự tồn tại
như “il y a”, vì vậy, câu vô nhân xưng loại 3 thường được dịch nguyên văn sang tiếng
Việt.
b/ Dịch chuyển đổi
(22)
Il nous manquait la vie quotidienne. (Gavalda, tr. 193)
=> Bố và cô ấy thiếu mất cuộc sống thường nhật. (Anh Hong, tr. 201)
Trong phát ngôn này, dịch giả Ánh Hồng đã chuyển đổi đại từ bổ ngữ chỉ
người “nous" thành chủ ngữ “Bố và cô ấy” trong bản tiếng Việt.
c/ Dịch chuyển điệu
16
(23)
Pourvu qu’il ne fût rien arrivé à Xavier ! (Mauriac, tr. 250)
=> Miễn sao là ông Xavier không bị gì. (Duong linh, tr. 251)
Trong ví dụ này, câu vô nhân xưng chủ động đã được chuyển thành câu bị
động trong tiếng Việt.
d/ Dịch tương đương
(24)
-Qu’est-ce qui s’est passé avec Mathilde ?
-Rien. Il ne s’est rien passé. (Gavalda, tr. 95)
=>- Chuyện gì đã xảy ra với Mathilde ?
-Không, chẳng có gì cả (Anh Hong, tr. 102)
Tác giả đã chọn không dịch động từ "se passer" (xảy ra) mà thay thế câu vô nhân
xưng bằng câu trả lời rút gọn "chẳng có gì cả" nhưng vẫn đảm bảo ý nghĩa của câu trả lời
do ngữ cảnh ngôn ngữ đã được đề cập đến trong câu hỏi.
2.4. Loại 4 “Il + être + adjectif”
a/ Dịch chuyển đổi
* Quán ngữ vô nhân xưng mang nghĩa tình thái được chuyển thành động từ tình
thái
(25)
(Gavalda, tr. 45)
=> Lò sưởi điện không hoạt động nên không thể để chúng ngủ ở trên đó.
- Sans radiateur électrique, il était impensable de les laisser dormir là-haut.
(Anh Hong, tr. 47)
* Quán ngữ vô nhân xưng mang nghĩa tình thái được chuyển thành trạng từ tình
thái
(26)
Il est certain, dit oncle Xavier, que Dussol est un brave homme et qui mérite
confiance ; n’empêche qu’il est temps, et même grand temps, qu’un
Frontenac mette le nez dans l’affaire. (Mauriac, tr. 116)
=> Rõ ràng ông Dussol là người tốt, đáng tin cậy ; dù sao cũng đến lúc, rất
đến lúc rồi, một người dòng họ Frontenac phải tham gia. (Duong Linh, tr. 117)
* Quán ngữ vô nhân xưng mang nghĩa tình thái được chuyển thành vị ngữ
(27)
Il eut été tout naturel que vous reveniez habiter Bordeaux et lui succédiez
dans la maison de bois merrains… (Mauriac, tr. 18)
=> Chú trở về sống ở Bordeaux, kế nghiệp anh ấy ở cái xưởng gỗ ván, là điều
tự nhiên. (Duong Linh, tr. 19)
Như vậy, tùy theo ý nghĩa của phát ngôn, các quán ngữ vô nhân xưng mang
nghĩa tình thái có thể được thay thế bằng các phạm trù ngữ pháp khác nhau : động từ
tình thái, trạng từ tình thái hoặc vị ngữ trong tiếng Việt.
b/ Dịch tương đương
(28)
Il n’était plus besoin d’allumer le feu, ni même la lampe. (Mauriac, tr. 36)
=> Giờ là thời điểm không phải đốt lò, cả thắp đèn cũng không. (Duong
Linh, tr. 37)
Quán ngữ vô nhân xưng “il est besoin de” là một quán ngữ cố định có ý nghĩa
tương tự như "il est nécessaire" (cần thiết) được dịch thành "giờ là thời điểm".
2.5. Loại 5 “Il + être + PP / Il + verbe pronominal”
Đối với loại câu vô nhân xưng thứ 5 có ý nghĩa bị động, chúng tôi không tìm
thấy bất kỳ phát ngôn nào trong cả hai tác phẩm văn học đã nêu.
3. Tiểu kết và bình luận
17
Bảng 5 : Thống kê các thủ pháp dịch câu vô nhân xưng từ tiếng Pháp sang tiếng
Việt
Thủ pháp
Loại câu
Dịch
Dịch
Dịch
tương
đương
12/13
92.3%
15/201
7.46%
Dịch
chuyển số câu
điệu
13
Tổng
nguyên chuyển đổi
văn
1. Il + verbe ou locution
météorologique/de temps
2. Il + verbe à compléments 165/201
1/13
7.7%
17/201
100%
201
100%
4/201
1.99%
obligatoires
+
82.09%
8.46%
GN/infinitif/complétif
3. Il + verbe intransitif +
complément (sujet véritable
du verbe)
2/7
28.57%
1/7
14.28%
2/7
28.57%
2/7
7
28.57% 100%
4. Il + être + adjectif
3/4
1/4
4
75%
25%
100%
5. Il + être + PP/ Il + verbe
pronominal (sens passif)
0%
167/228
22/228
30/228
6/228
228
Tổng cộng
73.25%
9.65%
13.16%
2.63%
100%
Chúng ta có thể thấy, dịch nguyên văn thường được dùng để áp dụng cho các
câu vô nhân xưng loại thứ hai và thứ ba chỉ sự cần thiết (il faut) hoặc sự tồn tại (il
existe, il y a…). Các loại câu này thường được diễn đạt lại dưới dạng câu không đề
trong tiếng Việt, vì giữa hai kiểu câu này trong hai ngôn ngữ có một số điểm tương
đồng về mặt thông tin cũng như ngữ dụng học.
Dịch chuyển đổi thường được sử dụng để dịch các loại câu vô nhân xưng 1, 2,
2 và 4 tùy theo thể và thì của động từ, sự hiện diện của chủ ngữ thực, bối cảnh ngôn
ngữ của phát ngôn hay tùy theo thói quen ngôn ngữ của người Việt.
Dịch chuyển điệu được sử dụng trong một số trường hợp câu vô nhân xưng
loại 2 “Il + verbes à compléments obligatoires + GN/infinitif/complétif” và loại 3 “il +
verbe intransitif”. Tuy nhiên thủ pháp này không mang tính bắt buộc, bởi vì dịch giả có
thể chọn cách bảo toàn cấu trúc gốc của phát ngôn trong tiếng Pháp mà vẫn không ảnh
hưởng đến ý nghĩa và việc hiểu văn bản nguồn.
Cuối cùng, dịch tương đương có thể được áp dụng để dịch các loại vô nhân
xưng 1, 2, 3 và 4. Cách dịch này hướng đến mục đích giúp độc giả có thể hiểu ý nghĩa
của văn bản gốc mặc dù có sự khác biệt về ngữ pháp hoặc từ vựng.
Lưu ý rằng câu vô nhân xưng loại 2 chiếm tỉ lệ rất lớn trong dữ liệu phân tích
của chúng tôi (88. 16 %), có phần lớn các câu có chứa cấu trúc 'il faut" và "il y a", nên
tỉ lệ sử dụng thủ pháp dịch nguyên văn ở loại câu này cũng chiếm đa số (82. 09%). Bên
cạnh đó, nhiều thủ pháp dịch khác cũng được sử dụng để dịch loại câu này tùy theo cấu
trúc và nội dung thông tin của các phát ngôn cụ thể, nhưng với tỉ lệ khá khiêm tốn,
chẳng hạn như dịch chuyển đổi chiếm 8.46%, dịch tương đương chiếm 7.46% và dịch
chuyển điệu chỉ chiếm 1.99%.
Đối với câu vô nhân xưng loại 1, là loại câu miêu tả các hiện tượng thời tiết và
thời gian, thủ pháp dịch tương đương được sử dụng phần lớn (92.3%) do dịch giả
18
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo tóm tắt Đề tài Nghiên cứu cách diễn đạt tương đương câu vô nhân xưng từ tiếng Pháp sang tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- bao_cao_tom_tat_de_tai_nghien_cuu_cach_dien_dat_tuong_duong.pdf