Báo cáo Chuyên đề Chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam - Từ chính sách đến thực tiễn

B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề  
Chi trả dịch vụ môi trường rừng  
tại Việt Nam  
Từ chính sách đến thực tiễn  
Phạm Thu Thủy  
Karen Bennett  
Vũ Tấn Phương  
Jake Brunner  
Lê Ngọc Dũng  
Nguyễn Đình Tiến  
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ 98  
Chi trả dịch vụ môi trường rừng  
tại Việt Nam  
Từ chính sách đến thực tiễn  
Phạm Thu Thủy  
Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế  
Karen Bennett  
Cục Lâm nghiệp Hoa Kỳ  
Vũ Tấn Phương  
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam  
Jake Brunner  
Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế  
Lê Ngọc Dũng  
Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế  
Nguyễn Đình Tiến  
Trung Tâm Sinh Thái Nông nghiệp ‑ Đại học Nông nghiệp Hà Nội  
Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR)  
Báo cáo chuyên đề 98  
© 2013 Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR)  
Nội dung trong ấn phẩm này được cấp phép bởi giấy phép Creative Commons dưới hình thức Ghi công - Phi  
thương mại - Không có tác phẩm phái sinh.  
ISBN 978-602-1504-25-3  
Phạm TT, Bennett K, Vũ TP, Brunner J, Lê ND và Nguyễn ĐT. 2013. Chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam: Từ  
chính sách đến thực tiễn. Báo cáo chuyên đề 98. Bogor, Indonesia: CIFOR.  
Ảnh chụp bởi Karen Bennett/Cục Lâm nghiệp Hoa Kỳ.  
Sử dụng đất tại Sơn La, Việt Nam.  
CIFOR  
Jl. CIFOR, Situ Gede  
Bogor Barat 16115  
Indonesia  
T +62 (251) 8622-622  
F +62 (251) 8622-100  
E cifor@cgiar.org  
cifor.org  
Chúng tôi xin cảm ơn các nhà tài trợ đã hỗ trợ cho nghiên cứu này thông qua việc đóng góp vào quỹ của CGIAR.  
Tất cả các quan điểm thể hiện trong ấn phẩm này là của các tác giả. Chúng không nhất thiết đại diện cho quan  
điểm của CIFOR, các cơ quan chủ quản của tác giả hay của các nhà tài trợ cho án phẩm này.  
Mục lục  
Các từ viết tắt  
Lời cảm ơn  
v
vi  
Tóm tắt tổng quan  
1 Giới thiệu  
vii  
1
2 Khung phân tích và phương pháp  
2.1 Khung phân tích  
3
3
4
2.2 Quá trình và phương pháp nghiên cứu  
3 Tng quan về PFES tại Việt Nam  
7
7
10  
11  
13  
3.1 Tiến trình phát triển của PES và PFES  
3.2 Cơ cấu thể chế cho PFES  
3.3 Các thành tựu chính của PFES tại Việt Nam  
3.4 Các thách thức chính đối với PFES ở Việt Nam  
4 Phân tích các nghiên cứu điểm cho từng loại dịch vụ môi trường rừng  
4.1 Phòng hộ đầu nguồn  
15  
15  
25  
32  
4.2 Vẻ đẹp cảnh quan và đa dạng sinh học  
4.3 Bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên cho nuôi trồng thủy sản  
5 ảo luận: Tlý thuyết tới thực tiễn  
46  
46  
47  
48  
48  
50  
52  
53  
5.1 PES hay chỉ giống như PES  
5.2 Khoảng trống về thể chế  
5.3 “Kết hợp” chi trả dịch vụ môi trường?  
5.4 Người mua và người cung cấp: bản chất, mối quan hệ và các khái niệm  
5.5 Liệu lợi ích từ dịch vụ môi trường có rõ ràng và dễ thấy?  
5.6 Việc soạn thảo, triển khai và giám sát hợp đồng PFES liệu có dễ dàng?  
5.7 Các tác động xã hội của PFES liệu có rõ ràng?  
5.8 Liệu có một định chế quản lý tài chính và cơ chế chia sẻ lợi ích, với một hệ  
thống đánh giá và giám sát đủ khả năng giải quyết các thắc mắc và phản hồi?  
54  
6 Khuyến nghị chính sách  
56  
6.1 Các phương pháp tiếp cận đa ngành và đa chiều sẽ xóa bỏ các khoảng trống  
về thể chế chính  
56  
58  
61  
6.2 Các phương án thiết lập hệ thống giám sát và đánh giá có hiệu quả  
6.3 Mở rộng định nghĩa về PFES  
7 Kết luận  
63  
65  
8 Tài liệu tham khảo  
Phụ lục  
70  
70  
72  
75  
1
2
3
Danh sách các văn bản pháp lý liên quan đến PFES  
Các bài học từ các dự án thí điểm PES tại Việt Nam  
Khung hệ thống giám sát và đánh giá PFES tại Việt Nam  
Danh mục bảng, biểu đồ và hộp  
Bảng  
1
2
3
4
5
6
7
8
Số lượng người tham gia phỏng vấn theo nhóm đối tượng  
5
8
13  
14  
16  
18  
18  
Các dự án thí điểm PES ở Việt Nam từ 2002-2012  
Doanh thu PFES từ các đối tượng chi trả 2009–2012  
Vận hành Quỹ BVPTR ở trung ương và các cấp tỉnh  
Doanh thu dự kiến từ PFES do các nhà máy thủy điện chi trả, 2013  
Mức chi trả cho một héc ta rừng tại các lưu vực ở tỉnh Lâm Đồng 2012  
Tiền chi trả cho các chủ rừng tại Sơn La và Lâm Đồng 2011–2012  
Tiêu chí và các chỉ số sử dụng cho giám sát và đánh giá cơ chế PFES quy định trong  
ông tư 20.  
21  
24  
27  
29  
33  
36  
9
Quá trình giám sát chi trả PFES đối với các chủ rừng  
10 í điểm cơ chế PFES cho dịch vụ vẻ đẹp cảnh quan tại Việt Nam  
11 Gợi ý phương thức phát triển cơ chế PFES cho ngành du lịch  
12 Lựa chọn chính sách PFES cho nuôi trồng thủy sản  
13 Đánh giá các lựa chọn chính sách của PFES cho rừng ngập mặn và rừng trên đất liền  
14 Tính hiệu quả, hiệu ích và công bằng của các lựa chọn chính sách được đề xuất đối với  
rừng ngập mặn và rừng trên đất liền  
39  
60  
15 Các câu hỏi đánh giá quan trọng sử dụng trong giám sát và đánh giá PFES  
Biểu đồ  
1
2
3
4
Khung phân tích  
3
5
6
Phương pháp nghiên cứu  
Sơ đồ vị trí các tỉnh nghiên cứu điểm tại Việt Nam  
iết kế khung thể chế cho chính sách PFES và mối quan hệ giữa các bên liên quan,  
quy định tại Nghị định 99  
Quy trình phân bổ tiền chi trả PFES  
Quá trình kiểm tra và nghiệm thu  
Cơ cấu thể chế về chi trả dịch vụ vẻ đẹp cảnh quan  
Lý thuyết về chu kỳ phát triển ở các khu du lịch  
Khung tổng quan để lồng ghép công tác giám sát và đánh giá vào PFES  
10  
12  
21  
27  
29  
58  
59  
5
6
7
8
9
10 Các hành động chính trong PFES và hệ thống giám sát và đánh giá  
Hộp  
1
2
3
Quyền của người cung cấp dịch vụ môi trường theo quy định và trên thực tiễn  
Ví dụ về việc thu phí tại các công ty du lịch tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng  
Phương thức thu phí ở các khu bảo tồn và vườn quốc gia  
25  
27  
31  
Chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam  
|
v
Các từ viết tắt  
3Es  
Hiệu quả, hiệu ích và công bằng  
AR-CDM  
CPC  
Trồng rừng và tái trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch  
Ủy ban nhân dân xã  
CSO  
Tổ chức xã hội dân sự  
DARD  
DoNRE  
EVN  
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn  
Sở Tài nguyên và Môi trường  
Tập đoàn điện lực Việt Nam  
ES  
Dịch vụ môi trường  
FPDF  
FIPI  
Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng (cấp tỉnh)  
Viện Điều tra Quy hoạch Rừng  
Tổng sản phẩm quốc nội  
GDP  
GIS  
Hệ thống thông tin địa lý  
GIZ  
Tổ chức hợp tác quốc tế Đức  
IFAD  
MARD  
MONRE  
NGO  
PES  
Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế  
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn  
Bộ Tài nguyên và Môi trường  
Tổ chức phi chính phủ  
Chi trả dịch vụ môi trường (nghĩa rộng)  
Chi trả dịch vụ môi trường rừng (tại Việt Nam)  
Ủy ban nhân dân tỉnh  
PFES  
PPC  
PRA  
Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia  
Giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng  
Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ  
Quỹ Bảo vệ và Phát triển Rừng Việt Nam  
REDD  
USAID  
VNFF  
VNFOREST Tổng cục Lâm nghiệp  
Lời cảm ơn  
Terry Sunderland, bà Cecilia Luttrell (Tổ chức  
Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế) và bà Darcy  
Nelson (Cơ quan Lâm nghiệp Hoa Kỳ) cùng nhiều  
chuyên gia khác.  
Báo cáo này được hoàn thành với sự hỗ trợ và đóng  
góp của rất nhiều người.  
Báo cáo này là một phần của hợp phần chính sách  
này sử dụng các phương pháp và hướng dẫn được  
thiết kế bởi bà Maria Brockhaus, bà Monica Di  
Gregorio và bà Sheila Wertz-Kanounnikoff. Nhiều  
chuyên gia đã đóng góp vào nghiên cứu điểm tại  
Việt Nam, bao gồm các công việc phân tích truyền  
thông, phân tích mạng lưới chính sách, bối cảnh  
quốc gia và hỗ trợ phân tích dữ liệu. Các dữ liệu  
được thu thập và phân tích bởi nhiều nhóm chuyên  
gia khác nhau, dưới sự điều phối của Trưởng nhóm  
nghiên cứu điểm quốc gia (bà Phạm u ủy).  
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn tới ông Nguyễn Tuấn  
Việt và bà Bùi ị Minh Nguyệt đã thu thập và nhập  
số liệu.  
Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới bà Akiko  
Inoguchi (tổ chức Nông lương Liên hợp quốc tại  
Việt Nam), ông Eiji Egashira (Cơ quan Hợp tác  
Quốc tế Nhật Bản), ông Phạm Hồng Lượng (Quỹ  
Bảo vệ và phát triển Rừng Việt Nam), ông Đàm Việt  
Bắc và ông Đỗ Trọng Hoàn (Tổ chức Nghiên cứu  
Nông lâm ế giới), ông Tô Xuân Phúc (tổ chức  
Forest Trends) và ông Daniel Murdiyarso (Tổ chức  
Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế) về những ý kiến  
góp ý quý báu đã giúp chúng tôi nâng cao chất lượng  
báo cáo một cách đáng kể.  
Chúng tôi rất biết ơn bà Lauren Sorkin (Ngân hàng  
Phát triển Châu Á), ông Eiji Egashira (Cơ quan  
Hợp tác Quốc tế Nhật Bản) và ông Phạm ành  
Nam (SNV) đã cho phép chúng tôi tiếp cận và sử  
dụng nguồn số liệu tại các điểm nghiên cứu, hệ  
thống thông tin địa lý GIS và ảnh viễn thám và sẵn  
sàng phối hợp, chia sẻ các phương pháp với chúng  
tôi, đồng thời chúng tôi cũng cảm ơn ông Hồ Mạnh  
Tường (Viện Điều tra Quy hoạch rừng) đã chia sẻ  
các thông tin về dữ liệu điều tra tài nguyên rừng ở  
Việt Nam. Chúng tôi cũng xin đặc biệt cảm ơn bà  
Imogen Badgery-Parker vì đã hiệu đính báo cáo hết  
sức xuất sắc; và cảm ơn Đơn vị truyền thông của Tổ  
chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế đã đưa báo  
cáo này tới công chúng.  
Chúng tôi cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn đặc  
biệt tới Phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Bá Ngãi và ông  
Phạm Hồng Lượng (Quỹ Bảo vệ và Phát triển Rừng  
Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông  
thôn) về sự giúp đỡ nhiệt tình và các định hướng  
xuyên suốt trong quá trình thực hiện nghiên cứu.  
Chúng tôi cũng xin cảm ơn sự hỗ trợ hiệu quả của  
ông Lương ái Hùng và ông Lê Mạnh ắng (Quỹ  
Bảo vệ và phát triển Rừng Sơn La), ông Võ Đình  
ọ, ông Võ Minh âm, ông Trần Văn Kế và ông  
Phạm Văn An (Quỹ Bảo vệ và phát triển Rừng Lâm  
Đồng), ông Nguyễn Viết Cách (Vườn quốc gia  
Xuân ủy) và ông Vũ Quốc Anh (tổ chức Oxfam  
Hong Kong) trong các chuyến đi thực địa tại các  
tỉnh Lâm Đồng, Sơn La, Nam Định và Đắk Nông.  
Chúng tôi cảm ơn tất cả các vị đại biểu đã tham dự  
các cuộc hội thảo cũng như các cá nhân đã tham dự  
phỏng vấn và dành thời gian quý báu để đóng góp  
cho nghiên cứu này. Các chuyên gia và các cá nhân  
trên đã chia sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm thực  
tiễn rất quý báu về chi trả dịch vụ môi trường tại  
Việt Nam.  
Báo cáo của chúng tôi cũng nhận được rất nhiều  
đóng góp đáng quý từ ông Patrick Smith (Cơ  
quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ tại Việt Nam),  
ông Barry Flaming (Cơ quan phát triển quốc tế  
Hoa Kỳ tại Châu Á), bà Rosario Calderon và ông  
Trần Chính Khương (Cơ quan phát triển quốc tế  
Hoa Kỳ tại Việt Nam), ông Peter Kanowski, ông  
Chúng tôi chân thành cảm ơn sự hỗ trợ của Cơ  
quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ, Cơ quan Lâm  
nghiệp Hoa Kỳ, Cơ quan Hợp tác Phát triển Na Uy  
và Cơ quan Phát triển Quốc tế Australia.  
Tóm tắt tổng quan  
bán cấu trúc với đại diện của các bên liên quan từ  
trung ương đến địa phương, các tổ chức nghiên cứu,  
các nhà tài trợ, tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội  
dân sự, người cung cấp dịch vụ và người mua dịch  
vụ, đồng thời chúng tôi cũng tiến hành các nghiên  
cứu điểm tại các tỉnh Bắc Kạn, Sơn La, Hòa Bình,  
Nha Trang, Nam Định, ừa iên Huế, Quảng  
Nam, Đắk Nông và Lâm Đồng để đánh giá thực  
trạng triển khai và đưa ra các bài học quan trọng.  
Bên cạnh đó, hai hội thảo chuyên đề đã được tổ chức  
để tham vấn với các chuyên gia, nhà hoạch định  
chính sách, và các nhà quản lý về các kết quả và phát  
hiện nêu trong báo cáo đánh giá này.  
Nguyên tắc cơ bản của Chi trả dịch vụ môi trường  
rừng (PES) là đảm bảo lợi ích cho người cung cấp  
dịch vụ môi trường, ở cả cấp độ cá nhân và cộng  
đồng, thông qua việc nhận được bồi hoàn cho chi  
phí của việc cung cấp những dịch vụ này. Từ năm  
2004, Chính phủ Việt Nam đã thiết lập cơ sở pháp  
lý nhằm thực hiện chương trình quốc gia về chi trả  
dịch vụ môi trường rừng (PFES) thông qua Luật  
Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi (2004). Năm 2008,  
Quyết định số 380/QĐ-TTg của ủ tướng Chính  
phủ đã cho phép thí điểm Chính sách chi trả dịch  
vụ môi trường rừng tại tỉnh Sơn La và Lâm Đồng.  
Năm 2010, Nghị định số 99/2010/NĐ-CP đã  
được ban hành nhằm triển khai Chính sách chi trả  
dịch vụ môi trường rừng trên phạm vi toàn quốc từ  
1/1/2011. Có thể nói, Việt Nam đã trở thành quốc  
gia đầu tiên tại châu Á ban hành và triển khai chính  
sách PFES ở cấp quốc gia.  
Các thành tựu chính của PFES tại Việt Nam từ năm  
2008‑2012  
Báo cáo chỉ ra rằng PFES đã và đang nhận được sự  
quan tâm và hỗ trợ đáng kể từ Chính phủ, và các bộ  
ngành có liên quan. Tổng cộng có 20 văn bản pháp  
lý đã được ban hành dưới dạng Nghị định, Quyết  
định của ủ tướng; ông tư và Quyết định của Bộ  
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tạo nên một  
cơ sở pháp lý quan trọng cho việc triển khai Chính  
sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Trong các dịch  
vụ môi trường đã được quy định, dịch vụ phòng  
hộ đầu nguồn (bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi  
lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối; điều tiết và duy  
trì nguồn nước cho sản xuất và xã hội) đã thu được  
nhiều thành tựu quan trọng, đồng thời cũng rút ra  
được các bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện cơ  
cấu tổ chức cho thực hiện PFES.  
Mục tiêu của PFES tại Việt Nam là: bảo vệ diện tích  
rừng hiện có, nâng cao chất lượng rừng, gia tăng  
đóng góp của ngành lâm nghiệp vào nền kinh tế  
quốc dân, giảm nhẹ gánh nặng lên ngân sách Nhà  
nước cho việc đầu tư vào bảo vệ và phát triển rừng  
và đảm bảo an sinh xã hội của người làm nghề rừng.  
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một đánh giá và  
nghiên cứu toàn diện về thực trạng triển khai PFES  
ở Việt Nam.  
Nghiên cứu này cung cấp cho các nhà hoạch định  
chính sách những đánh giá và phân tích cụ thể về  
tính hiệu quả, hiệu ích và công bằng của PFES trong  
quá trình triển khai từ năm 2008 đến nay. Chúng  
tôi tập trung nghiên cứu trên ba khía cạnh của  
PFES, gồm: (1) xây dựng các cơ sở pháp lý (các quy  
định pháp lý và cơ cấu tổ chức thực hiện), (2) cơ chế  
chia sẻ lợi ích (phân bổ tiền chi trả và sự tham gia  
của các bên), và (3) giám sát và đánh giá (giám sát  
các dịch vụ môi trường, hợp đồng, dòng tiền và tác  
động xã hội từ PFES).  
Các phát hiện chính về thể chế và cơ sở pháp lý  
Khung pháp lý chung về thực hiện PFES đã được xây dựng  
Từ năm 2008, khung pháp lý quốc gia về PFES,  
gồm các cơ sở pháp lý, cơ cấu tổ chức, quản lý tài  
chính và các hợp đồng ủy thác đã được quy định tại  
hơn 20 văn bản pháp quy ban hành bởi các cấp khác  
nhau (4 văn bản pháp quy dưới dạng Nghị định và  
Quyết định của ủ tướng, 16 văn bản pháp quy  
dưới dạng Quyết định và ông tư của Bộ Nông  
nghiệp và Phát triển Nông thôn). Trong số các văn  
bản ban hành, có 5 văn bản cung cấp cơ sở pháp lý và  
Đầu tiên, nghiên cứu đã thu thập và phân tích các  
tài liệu trong nước và quốc tế có liên quan để hiểu  
rõ cơ sở pháp lý, thực trạng triển khai PFES tại Việt  
Nam và rút ra các bài học kinh nghiệm. Chúng tôi  
đã thực hiện hơn hai trăm (210) cuộc phỏng vấn  
Viii | Phạm Thu Thủy, Karen Bennett, Vũ Tấn Phương, Jake Brunner, Lê Ngọc Dũng và Nguyễn Đình Tiến  
hướng dẫn về việc thành lập, tổ chức và quản lý Quỹ  
Bảo vệ và Phát triển rừng ở cấp tỉnh và trung ương,  
11 văn bản hướng dẫn về tổ chức thực hiện PFES.  
các công ty cấp nước và các công ty du lịch chi trả  
hàng năm từ 1-2% tổng doanh thu. Số tiền chi trả  
cho 1 ha rừng cho người cung cấp dịch vụ được xác  
định dựa trên tổng số tiền thu sau khi trừ đi chi phí  
quản lý (10%) và quỹ dự phòng (5%) chia cho tổng  
diện tích rừng có cung ứng dịch vụ môi trường rừng.  
Cơ chế vận hành PFES tại Việt Nam chủ yếu dựa  
vào Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng cấp trung ương  
và cấp tỉnh. Các Quỹ sẽ ký hợp đồng với người mua  
dịch vụ và thu tiền từ các bên sử dụng dịch vụ môi  
trường rừng; chuẩn bị kế hoạch chi trả; giám sát và  
phân bổ tiền tới người cung cấp dịch vụ; chuẩn bị  
và đệ trình các báo cáo theo từng giai đoạn tới Quỹ  
Bảo vệ và Phát triển rừng trung ương. Người cung  
cấp dịch vụ là các cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng và  
tổ chức được xem xét bởi các Quỹ cấp tỉnh dựa trên  
chứng nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng dịch  
vụ được quy định tại Nghị định 99 là các công ty  
cung cấp nước, các cơ sở sản xuất thủy điện và công  
ty kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, thực chất số tiền  
chi trả dịch vụ môi trường rừng được chuyển cho  
người sử dụng dịch vụ cuối cùng là người dân và các  
đối tượng sử dụng điện và nước (số tiền này được  
hạch toán trong giá bán điện và nước).  
Mặc dù loại dịch vụ thứ hai (vẻ đẹp cảnh quan và  
bảo tồn đa dạng sinh học) đã được triển khai ở mức  
độ nhất định, sự đa dạng của các bên liên quan, sự  
tồn tại của nhiều mô hình với cơ chế hoạt động và  
mối quan hệ phức tạp giữa Người cung cấp dịch  
vụ -Trung gian - Người mua và sử dụng dịch vụ làm  
cho việc triển khai dịch vụ này trở nên khó khăn và  
đôi khi gặp nhiều mâu thuẫn. Tới nay, đã có nhiều  
khó khăn trong việc thực hiện dịch vụ này đã được  
phát hiện, bao gồm:  
• Người sử dụng dịch vụ không hiểu rõ vẻ đẹp  
cảnh quan đóng góp như thế nào cho công việc  
kinh doanh của họ;  
• Những người sử dụng dịch vụ khác nhau có sự  
sẵn sàng chi trả khác nhau dựa trên số doanh thu  
của họ (doanh thu càng cao thì mức độ sẵn sàng  
chi trả càng cao);  
• iếu quy định rõ ràng về nhóm nào trong  
hoạt động kinh doanh du lịch nên chi trả. Việc  
thu tiền dịch vụ môi trường từ một số công ty  
thương mại du lịch rất khó khăn (ví dụ, các công  
ty có thể vận động hành lang với chính quyền  
địa phương để bỏ qua việc chi trả), và thiếu minh  
bạch (ví dụ, sổ sách tài chính không rõ ràng, khó  
khăn trong việc tiếp cận thông tin về doanh thu  
của các công ty lớn và thiếu sổ sách tài chính của  
các cơ sở kinh doanh nhỏ như cơ sở cung cấp  
dịch vụ lưu trú tại nhà);  
Trong bốn dịch vụ môi trường được quy định thì mới chỉ  
có hai dịch vụ được thực hiện do thiếu các cơ sở pháp lý  
và các hướng dẫn chi tiết  
Nghị định 99 quy định các loại dịch vụ môi trường  
phải chi trả, gồm:  
1. Phòng hộ đầu nguồn (gồm bảo vệ đất, hạn chế  
xói mòn, bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối;  
điều tiết và duy trì nguồn nước cho hoạt động  
sản xuất và đời sống xã hội)  
2. Bảo vệ cảnh quan tự nhiên và bảo tồn đa dạng  
sinh học của các hệ sinh thái rừng phục vụ cho  
du lịch  
3. Hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng, giảm phát  
thải gây hiệu ứng nhà kính bằng các biện pháp  
ngăn chặn suy thoái và giảm diện tích rừng và  
phát triển rừng bền vững;  
• Có những sự khác biệt đáng kể trong việc tính  
toán số tiền chi trả (ví dụ, dựa theo phí vào cổng  
và dựa theo doanh thu)  
Mặc dù có khá nhiều hoạt động thí điểm được hỗ  
trợ bởi các nhà tài trợ cho loại dịch vụ thứ ba “hấp  
thụ carbon” (ví dụ, Lâm Đồng và Nghệ An) và dịch  
vụ thứ tư “cung cấp dịch vụ bãi đẻ, con giống tự  
nhiên, nguồn thức ăn và nguồn nước từ rừng cho  
nuôi trồng thủy sản” (ví dụ, Vườn quốc gia Xuân  
ủy, tỉnh Bến Tre và Cà Mau), nhưng hầu hết các  
hoạt động thí điểm này vẫn đang trong giai đoạn  
thực hiện và các kết quả đầu ra chưa được tổng hợp.  
Vì vậy, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã  
đề nghị ủ tướng Chính phủ tiếp tục tiến hành các  
hoạt động thí điểm này thêm 2-3 năm và sẽ tổng kết  
các bài học trước khi ban hành khung pháp lý và các  
hướng dẫn cho cơ chế PES đối với các dịch vụ này.  
4. Dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con  
giống tự nhiên và nguồn nước từ rừng cho các  
hoạt động nuôi trồng thủy sản.  
Cho tới nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông  
thôn, cơ quan chịu trách nhiệm về tổ chức triển khai  
PFES, đã ban hành các quy định và hướng dẫn khá  
chi tiết về triển khai hai loại dịch vụ đầu tiên (phòng  
hộ đầu nguồn và dịch vụ du lịch sinh thái). Mức chi  
trả dịch vụ môi trường rừng là mức chi trả cố định  
áp dụng cho người sử dụng dịch vụ. Đối với các cơ  
sở sản xuất thủy điện, mức chi trả là 20 VND/Kwh  
điện thương phẩm, 40 VND/m3 nước sạch đối với  
Chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam  
|
ix  
Đối với dịch vụ hấp thu carbon của rừng, Chính phủ  
đã phê duyệt Chương trình hành động Quốc gia về  
Giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn  
chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững  
tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các  
bon rừng (REDD+) như là nền tảng cho việc giảm  
phát thải khí nhà kính trong ngành lâm nghiệp.  
Hơn nữa, với sự hỗ trợ từ UN-REDD, Việt Nam đã  
hoàn thành pha 1 cho việc thiết lập sự sẵn sàng cho  
thực hiện REDD+ và đang chuẩn bị thực hiện pha  
2 nhằm triển khai thí điểm các hoạt động REDD+  
(2013-2016). Trong các hoạt động thí điểm này, các  
tiêu chí và cơ chế chi trả cho dịch vụ hấp thụ carbon  
đã và đang được kiểm nghiệm. Khung pháp lý cho  
loại dịch vụ này sẽ được ban hành dựa trên các kết  
quả từ Chương trình thí điểm UN-REDD pha 2.  
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn  
vẫn chưa quyết định nên tổ chức như thế nào để  
kết hợp PFES và REDD+ và đánh giá cơ chế thích  
hợp cho việc triển khai dịch vụ hấp thụ carbon. Với  
những lý do trên, báo cáo này sẽ không thảo luận sâu  
về REDD+ mà sẽ rút ra các bài học kinh nghiệm từ  
các hoạt động thí điểm khi thích hợp. Các lựa chọn  
chính sách cho việc chi trả dịch vụ môi trường đối  
với nuôi trồng thủy sản vẫn còn bỏ ngỏ. Bộ Nông  
nghiệp và Phát triển Nông thôn, với sự hỗ trợ từ  
GIZ, IUCN, CIFOR, đã phát triển một số lựa chọn  
chính sách, trong đó việc tính phí chi trả có thể dựa  
trên doanh thu, lợi nhuận, diện tích rừng, lượng  
nước sử dụng, hoặc áp dụng phí chi trả cố định cũng  
như tiềm năng áp dụng việc tính phí dựa trên chứng  
chỉ. Các lựa chọn chính sách được đánh giá trong  
nghiên cứu này nhằm cung cấp các khuyến nghị cho  
xây dựng cơ chế chi trả cho loại dịch vụ này.  
bên có liên quan để họ hiểu biết về lợi ích của việc  
bảo vệ rừng và nhận thức được những giá trị tiềm  
năng của Chính sách PFES tới việc cải thiện sinh kế  
của họ và cộng đồng địa phương. Ngoài ra, cần có  
các hướng dẫn về sử dụng nguồn vốn tồn đọng và sự  
giám sát nội bộ hoặc giám sát của bên thứ ba về các  
giao dịch tài chính có thể thúc đẩy quá trình thanh  
toán tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng.  
Chi phí giao dịch cao  
Chi phí giao dịch cao là do số lượng lớn các chủ rừng  
(các chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình), thủ tục hành  
chính phức tạp, năng lực hạn chế của cán bộ thực  
hiện, các mâu thuẫn về lợi ích, việc chia sẻ thông  
tin và hợp tác chưa chặt chẽ giữa các cơ quan liên  
quan. Để giảm chi phí giao dịch, việc nhóm các hộ  
chủ rừng riêng rẽ thành nhóm ở một mức độ phù  
hợp theo từng khu vực địa lý có thể làm giảm chi  
phí đáng kể. Việc áp dụng phương pháp thanh toán  
tiền chi trả dịch vụ môi trường thông qua ngân hàng  
(ví dụ Ngân hàng Chính sách Xã hội) đã được thực  
hiện ở Sơn La, tuy nhiên do sự phân bổ rải rác của  
những người cung cấp dịch vụ, dẫn đến việc các cán  
bộ ngân hàng đi tới địa bàn không thường xuyên  
và với mức chi trả thấp nên cách thanh toán này đã  
không mang lại hiệu quả. Ngược lại, ở những địa bàn  
có mật độ dân số cao, việc chi trả qua ngân hàng và  
sử dụng công nghệ từ điện thoại di động nên được  
xem xét và áp dụng.  
Sự chưa rõ ràng về tư cách pháp nhân của cộng đồng  
để tham gia vào những thỏa thuận về PFES làm giảm sự  
quan tâm của các cộng đồng địa phương tới việc bảo vệ  
và phát triển rừng.  
Tỷ lệ giải ngân tiền chi trả dịch vụ môi trường thấp  
Hiện nay theo Nghị định 99, người cung cấp dịch  
vụ bao gồm các cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng, các  
tổ chức Nhà nước và các công ty tư nhân có quyền  
sử dụng đất. Lâm nghiệp cộng đồng được xem như  
một mô hình thành công trong việc bảo vệ và phát  
triển rừng và hiện nay, tại một số tỉnh ở Việt Nam  
(ví dụ như ở Sơn La), cộng đồng đang quản lý hơn  
50% tổng diện tích rừng. Mặc dù tư cách pháp lý  
của cộng đồng được công nhận trong Luật Bảo vệ và  
Phát triển Rừng năm 2004 với nhiệm vụ bảo vệ và  
quản lý rừng, cộng đồng lại không được xem là có tư  
cách pháp nhân để tham gia vào các hợp đồng dân  
sự theo quy định trong Luật Dân sự 2005. Mô hình  
cộng đồng được đăng ký dưới hình thức “Hợp tác xã  
Lâm nghiệp” tại điểm nghiên cứu ở ái Nguyên là  
một trong những giải pháp tiềm năng để khắc phục  
hạn chế này.  
Việc giải ngân từ Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tới  
những người cung cấp dịch vụ môi trường là khá  
thấp, với tỉ lệ giải ngân chung chỉ đạt 46% tổng số  
tiền thu được tới nay. Tỉ lệ giải ngân tiền PFES thấp  
là do công tác kiểm kê rừng chưa hoàn thiện, sự  
chậm chạp trong việc giao đất, giao rừng, số lượng  
lớn người cung cấp dịch vụ sống rải rác tại các vùng  
sâu, vùng xa, năng lực kỹ thuật và tài chính hạn chế  
ở cả cấp trung ương và địa phương, và sự phối hợp  
chưa chặt chẽ giữa các cơ quan. Ưu tiên trước mắt là  
cần phải nâng cao chất lượng các báo cáo kỹ thuật để  
thu thập và cập nhật diện tích rừng, chất lượng rừng  
và tình trạng pháp lý của việc quản lý rừng phải được  
ưu tiên xem xét để triển khai PFES một cách hiệu  
quả và hiệu ích tại Việt Nam. êm vào đó, cần phải  
nâng cao nhận thức và xây dựng năng lực cho các  
x | Phạm Thu Thủy, Karen Bennett, Vũ Tấn Phương, Jake Brunner, Lê Ngọc Dũng và Nguyễn Đình Tiến  
Việc trao đổi thông tin giữa người cung cấp dịch vụ,  
Người sử dụng dịch vụ và người cung cấp dịch vụ môi  
trường rừng chưa được xác định rõ ràng  
người mua và sử dụng dịch vụ và bên trung gian phải  
được thực hiện thường xuyên để đảm bảo tính minh  
bạch trong hệ thống chi trả.Việc phát triển hệ thống  
chia sẻ thông tin là cần thiết để kết nối người cung  
cấp dịch vụ và những người hưởng lợi nhằm đảm  
bảo sự tham gia rộng rãi của cộng đồng vào PFES.  
Việc xác định người mua và người cung cấp dịch  
vụ môi trường rừng trong Chính sách PFES chưa  
được rõ ràng. Người mua dịch vụ, được xác định  
là các công ty cung cấp nước và cơ sở sản xuất thủy  
điện trong Nghị định 99, trên thực tế chỉ đóng vai  
trò là trung gian bởi tiền chi trả dịch vụ môi trường  
được chuyển tới người tiêu dùng cuối cùng là người  
dân. Người dân và đối tượng sử dụng điện và nước  
là người mua dịch vụ môi trường thực sự và hiện tại  
họ chưa nhận thức được vấn đề này. Công ty cung  
cấp nước và cơ sở sản xuất thủy điện đều nhận được  
lợi ích từ việc bảo vệ rừng và các dịch vụ môi trường  
ở vùng đầu nguồn, đặc biệt là dịch vụ chống bồi  
lắng lòng hồ, do vậy họ cũng nên chi trả cho những  
dịch vụ môi trường này như một phần chi phí kinh  
doanh. Để nâng cao hiệu quả của PFES, cần nâng  
cao nhận thức và hiểu biết của người sử dụng và mua  
dịch vụ về giá trị của PFES tới sức khỏe và phúc lợi  
của con người và thúc đẩy sự tham gia của người sử  
dụng dịch vụ để phát triển chính sách PFES một  
cách toàn diện.  
Những người sử dụng dịch vụ là khối tư nhân có những  
bất lợi nếu so sánh với người sử dụng dịch vụ là công ty  
Nhà nước  
Khi Nghị định 99 được thông qua vào năm 2010,  
các cơ sở sản xuất thủy điện tư nhân bị ràng buộc  
bởi một hợp đồng cung cấp điện với Tổng công ty  
điện lực Việt Nam với một mức giá cung cấp điện cố  
định. Vì vậy, họ không được phép chuyển tiền chi  
trả PFES tới người tiêu dùng cuối cùng như các công  
ty Nhà nước. ông qua các kênh và diễn đàn khác  
nhau, vấn đề này đã được giải quyết vào năm 2012.  
Tuy nhiên, một vấn đề chưa được làm rõ là liệu các  
cơ sở sản xuất thủy điện tư nhân này có được hoàn  
lại số tiền PFES mà họ đã chi trả cho giai đoạn 2010  
– 2011 hay không? Tương tự, nhiều công ty cung  
cấp nước và công ty du lịch không thể chuyển khoản  
phí chi trả tới người tiêu dùng cuối cùng. Việc này  
dẫn đến việc chia sẻ chi phí không công bằng giữa  
các công ty khác nhau và cần phải có sự linh hoạt  
trong hệ thống để đảm bảo tính ràng buộc của người  
sử dụng dịch vụ môi trường.  
Ở nhiều điểm nghiên cứu (ví dụ, các vườn quốc gia  
cung cấp vẻ đẹp cảnh quan và bảo tồn đa dạng sinh  
học), tình trạng người mua và sử dụng dịch vụ cũng  
đồng thời là người cung cấp dịch vụ, do đó làm phức  
tạp thêm việc thiết kế cơ chế PFES. GIZ (2012)  
và các công ty du lịch tại Lâm Đồng chỉ ra vai trò  
không rõ ràng của các khu bảo tồn và vườn quốc gia  
trong quá trình chi trả. Từ góc độ pháp lý, họ có thể  
có các vai trò khác nhau tùy thuộc vào việc thiết lập  
cơ chế PFES. eo quy định về chủ quản lý rừng,  
vườn quốc gia và khu bảo tồn và các cơ quan lâm  
nghiệp được xem như một kiểu nhà cung cấp dịch  
vụ môi trường và vì vậy, có đủ điều kiện để nhận  
tiền chi trả PFES. Tuy nhiên, các đối tượng này cũng  
đồng thời tổ chức kinh doanh và có lợi nhuận từ  
các hoạt động kinh doanh du lịch của họ và do đó  
họ cũng là người sử dụng dịch vụ môi trường. êm  
vào đó, họ thường ký hợp đồng khoán bảo vệ rừng  
với các hộ dân, họ cũng được xem như là bên trung  
gian trong việc điều phối tiền chi trả PFES tới những  
người bảo vệ rừng.Vai trò trung gian này sẽ cho phép  
các đối tượng trên có quyền giữ 10% chi phí quản  
lý trong cơ chế PFES. Vì vậy, điều quan trọng là cần  
cân đối giữa lợi nhuận thu được bởi các vườn quốc  
gia và khu bảo tồn dựa trên các dịch vụ họ kinh  
doanh và số tiền họ được nhận dựa trên tư cách là  
bên cung cấp dịch vụ môi trường.  
Liệu cơ chế PFES tại Việt Nam có phải là một cơ chế PES  
thực sự và điều này có thực sự quan trọng?  
Nhiều ý kiến cho rằng cơ chế PFES tại Việt Nam có  
sự khác biệt với định nghĩa ban đầu về PES bởi vì  
mức chi trả PES được thiết lập bởi Chính phủ chứ  
không phải là một giao dịch tự nguyện giữa người  
cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ; như vậy  
có thể coi PFES đang hoạt động hiệu quả dưới dạng  
thuế hoặc phí sử dụng điện và nước. Tuy nhiên, điều  
quan trọng không phải là PFES có thực sự là PES mà  
chúng ta nên tập trung xem xét liệu chính sách PFES  
hiện hành có được thực hiện một cách hiệu quả,  
hiệu ích, công bằng hay không?.  
Các phát hiện chính về cơ chế chia sẻ lợi ích  
Mức chi trả thấp đối lập Chi phí cơ hội cao  
Cơ chế PFES đối với dịch vụ phòng hộ đầu nguồn  
(chống xói mòn, bồi lắng; điều tiết và duy trì nguồn  
Chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam  
|
xi  
Mục đích của chương trình PFES là nhằm bảo vệ  
diện tích rừng hiện có và nếu chỉ phụ thuộc vào  
PFES thì sẽ không thể giải quyết được mọi vấn đề  
liên quan đến dịch vụ môi trường rừng.Tuy nhiên,  
việc kết hợp PFES với các chương trình bảo tồn khác  
sẽ nâng cao việc chức năng của toàn lưu vực. Một vài  
lựa chọn chính sách có thể được xem xét bao gồm:  
• Đánh giá lại cơ sở xác định mức chi trả mà người  
sử dụng dịch vụ phải trả bao gồm mức chi trả  
cố định hiện tại với một mức chi trả có thể điều  
chỉnh được dựa trên tỉ lệ doanh thu có được từ  
các dịch vụ tương tự như mức phí áp dụng với  
các công ty du lịch;  
nước) tiếp tục bị đe dọa bởi chi phí cơ hội cao cho  
việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Mức chi trả  
PFES hiện tại là quá thấp để bồi hoàn những lợi ích  
kinh tế bị mất đi từ việc chuyển đổi rừng, đặc biệt  
là việc chuyển đổi sang trồng ngô hoặc cà phê hoặc  
chuyển đổi rừng ngập mặn thành đầm nuôi tôm.  
Tuy nhiên, PFES không phải là một liều thuốc trị  
bách bệnh. Có thể đề xuất việc kết hợp PFES với các  
chương trình lâm nghiệp và phát triển kinh tế khác  
để đa dạng hóa nguồn lực tài chính. Kết hợp việc chi  
trả PFES trực tiếp với các lợi ích gián tiếp khác như  
là nâng cao giáo dục và xây dựng năng lực cho cộng  
đồng hoặc tham gia cùng các chương trình có những  
tác động tiềm năng dài hạn để giảm nghèo có thể  
làm tăng sự sẵn sàng của cộng đồng vào việc tham gia  
các cam kết của chương trình PFES dẫu cho mức chi  
trả có thấp.  
• Quyết định xem liệu mức chi trả có nên dựa theo  
tỉ lệ rừng tại lưu vực;  
• Tập trung nguồn lực tài chính của PFES tới các  
khu vực trọng điểm cung cấp những loại dịch vụ  
môi trường đặc biệt (ví dụ, diện tích rừng bên  
cạnh các sông suối nhận được mức chi trả cao  
hơn so với diện tích rừng xa sông suối hơn hoặc  
diện tích rừng với tiềm năng đa dạng sinh học  
cao nhận được mức chi trả cao hơn về vẻ đẹp  
cảnh quan và dịch vụ bảo tồn đa dạng sinh học  
hơn những diện tích rừng không cung cấp những  
dịch vụ này);  
• Sử dụng một vài loại phí thu được, hoặc kết hợp  
PFES với các chương trình khác của Chính phủ  
để nâng cao cải thiện chức năng của lưu vực (ví  
dụ, phục hồi rừng hoặc sử dụng những mô hình  
quản lý đất và nước hiệu quả đối với các loại hình  
sử dụng đất khác để giảm xói mòn và bồi lắng);  
Đánh đổi giữa tính hiệu quả, hiệu ích và công bằng  
Cơ chế chia sẻ lợi ích hiện tại không tính đến chất  
lượng rừng (hệ số K), mà đang được thực hiện để  
đáp ứng nguyện vọng và cách nhìn của địa phương  
về sự công bằng (ví dụ, tất cả người dân nên được chi  
trả một mức như nhau bất kể điều kiện kinh tế, xã  
hội, tư cách pháp lý của họ ra sao và hiện trạng của  
diện tích rừng họ được chi trả để bảo vệ). Tuy nhiên,  
cách tiếp cận này không giúp cho việc nâng cao chất  
lượng công tác bảo vệ và phát triển rừng (không hiệu  
quả). Hơn nữa, do mỗi hộ dân chỉ quản lý một diện  
tích rừng khá nhỏ (ví dụ, Sơn La), dẫn đến tiền chi  
trả PFES rất thấp. Như đã đề cập ở trên, phương  
pháp chi trả theo nhóm có thể sẽ giải quyết được  
thực trạng này.  
Thiếu các hướng dẫn cụ thể về việc sử dụng tiền  
chi trả từ PFES có thể dẫn tới việc sử dụng tiền  
PFES không đúng mục đích ở cấp độ thôn bản và  
cộng đồng  
Mức chi trả PFES hiện được tính theo tổng nguồn  
thu từ người sử dụng dịch vụ (sau khi đã trừ đi quản  
lý phí và quỹ dự phòng) chia cho tổng diện tích rừng  
cung cấp dịch vụ môi trường rừng để có mức chi  
trả cho từng hecta. Điều này có thể dẫn đến lưu vực  
có tỉ lệ rừng che phủ cao sẽ nhận được mức chi trả  
cho từng hecta thấp hơn, và ngược lại lưu vực có tỉ  
lệ rừng che phủ thấp sẽ nhận được mức chi trả cho  
từng hecta cao hơn. Điều này mang đến lợi ích cao  
trong việc bảo vệ rừng ở những khu vực có tỷ lệ che  
phủ rừng ít hơn, do đó có thể tạo nên tác động tích  
cực nhưng cũng tạo ra các rủi ro do việc chuyển đổi  
mục đích sử dụng đất tại các khu vực có độ che phủ  
rừng cao do mức chi trả thấp. Mặt khác, người sử  
dụng dịch vụ môi trường có khả năng không nhận  
được nhiều giá trị từ PFES bởi vì họ vẫn phải chi trả  
một mức như nhau bất kể chất lượng dịch vụ môi  
trường tại các lưu vực.  
Hiện đang có rất ít hướng dẫn về nguồn tiền thu  
từ PFES nên được sử dụng như thế nào và báo cáo  
chỉ ra rằng những người cung cấp dịch vụ hiện chưa  
được tham gia vào quá trình ra quyết định về việc sử  
dụng tiền thu từ PFES. iếu sự giám sát tạo ra nguy  
cơ sử dụng tiền chi trả không đúng mục đích. Mô  
hình về một quỹ ủy thác gồm nhiều bên tham gia với  
đại diện người sử dụng dịch vụ, người cung cấp dịch  
vụ, tổ chức phi chính phủ, tổ chức nghiên cứu và cơ  
quan chính phủ (ví dụ, tỉnh Hòa Bình) và mô hình  
hợp tác xã (tại ái Nguyên) có được sự tin cậy từ cả  
người sử dụng dịch vụ và người cung cấp dịch vụ và  
nên được sử dụng như hình mẫu cho việc mở rộng  
PFES trên toàn quốc. Người cung cấp dịch vụ môi  
trường tại nhiều điểm nghiên cứu đều mong muốn  
nhận được lợi ích bằng cả hiện vật và lợi ích gián tiếp  
xii | Phạm Thu Thủy, Karen Bennett, Vũ Tấn Phương, Jake Brunner, Lê Ngọc Dũng và Nguyễn Đình Tiến  
(ví dụ, tập huấn và xây dựng năng lực) và tiền mặt.  
Họ cũng nhận được hướng dẫn từ các cán bộ về việc  
làm sao để tối đa hóa hiệu quả từ tiền chi trả nhằm  
cải thiện điều kiện kinh tế xã hội. Tuy nhiên, những  
hướng dẫn này phải có đủ sự linh hoạt để có được sự  
thích ứng cần thiết tại địa phương và phải sử dụng  
một cơ chế đưa ra quyết định có nhiều bên tham gia.  
ảnh viễn thám và ảnh vệ tinh từ Google Earth hoặc  
các công nghệ khác có thể hỗ trợ rất nhiều cho việc  
thiết lập các thông tin và dữ liệu cơ sở. Những thông  
tin này là cốt lõi cho cả các chương trình khác đang  
được thiết lập tại Việt Nam, bao gồm cả REDD+,  
và các bên liên quan cần phối hợp với nhau để thiết  
lập dữ liệu cơ sở mà tất cả các bên liên quan có thể  
sử dụng nguồn thông tin đồng bộ nhằm đánh giá sự  
hiệu quả các chương trình của những tổ chức này.  
Các phát hiện chính về hệ thống giám sát và  
đánh giá  
Tương tự như vậy, các tổ chức khác nhau tham gia  
vào việc giám sát các yếu tố xã hội và kinh tế nên  
cùng hợp tác để thiết lập các thông tin cơ sở cho sự  
tham gia của cộng đồng vào chương trình PFES.  
Những đánh giá ban đầu có thể được sử dụng để  
kiểm nghiệm các lợi ích của chương trình PFES kể  
cả được phối hợp hoặc tách riêng với các chương  
trình khác.  
Chương trình PFES hiện đang thiếu hệ thống giám sát  
đánh giá  
Hầu hết các hướng dẫn chính sách cho PFES đều  
tập trung vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quỹ  
Bảo vệ và Phát triển rừng ở các cấp và hướng dẫn báo  
cáo tài chính mà chưa có hướng dẫn cụ thể về công  
tác giám sát và đánh giá. Việc chưa có các hướng dẫn  
cụ thể đã dẫn tới việc hiểu và thi hành khác nhau tại  
các địa phương và sự e dè trong triển khai do e ngại  
làm sai các quy định. Dựa trên năng lực tài chính và  
kỹ thuật ở các Quỹ cấp tỉnh, hợp phần giám sát và  
đánh giá có thể sẽ được thiết kế theo hướng tương  
đối đơn giản hoặc cũng có thể chi tiết. Đầu tiên, để  
bắt đầu triển khai PFES, việc giám sát phải đơn giản,  
tập trung vào các yếu tố đầu vào và việc tự đánh giá.  
Tuy nhiên, vào năm thứ 5, cần kỳ vọng rằng các nỗ  
lực giám sát phải được tài liệu hóa rõ ràng và đầy đủ  
để mô tả liệu PFES có đạt được các mục tiêu môi  
trường, kinh tế, xã hội hay chưa? Một chương trình  
giám sát nên lồng ghép việc thành lập các điều kiện  
cơ sở, giám sát các yếu tố đầu vào của chương trình  
PFES và xác định đầu ra của PFES. Một hợp phần  
quan trọng của hệ thống giám sát và đánh giá là tiếp  
tục sử dụng, thông qua các diễn đàn đối thoại mở và  
phản hồi từ các bên liên quan, thông tin có được để  
cải tiến quá trình và nâng cao chính sách PFES và hệ  
thống cung cấp để đạt được những mục tiêu đề ra.  
Mặc dù mục tiêu chính của PFES là bảo vệ rừng,  
cần phát triển một chương trình toàn diện để hỗ trợ  
cung cấp dịch vụ môi trường. Tuy nhiên, PFES có  
thể song hành cùng với các chương trình bảo tồn và  
phát triển kinh tế xã hội bổ sung để tối đa hóa hiệu  
quả đầu ra. Ví dụ, nếu chỉ bảo vệ rừng thì sẽ không  
thể giải quyết được hết các vấn đề về xói mòn và  
bồi lắng mà các nhà máy thủy điện và công ty cung  
cấp nước gặp phải, bởi vì xói mòn còn bắt nguồn từ  
các loại hình sử dụng đất khác, như canh tác nông  
nghiệp hoặc xây dựng đường sá dưới dạng lợi ích  
kinh tế xã hội cho cộng đồng ở các địa các khu vực  
không có rừng. Chính phủ có thể xem xét tài trợ  
thực hiện các chương trình bảo vệ đất và nước để hỗ  
trợ cho các kiểu sử dụng đất này trong khi vẫn đảm  
bảo cung cấp dịch vụ phòng hộ đầu nguồn.  
Giám sát tính minh bạch của các hợp đồng trong PFES,  
dòng tiền và cơ chế phản hồi cần được thiết lập.  
Nhận diện người sử dụng dịch vụ và người cung  
cấp dịch vụ, phát triển và giám sát hợp đồng và đảm  
bảo việc phân phối ngân sách hợp lý là rất quan  
trọng trong triển khai chương trình PFES. Mặc dù  
Nghị định 99 nhận diện được một số người sử dụng  
dịch vụ, tuy nhiên vẫn còn một số nhóm đối tượng  
sử dụng dịch vụ nhưng chưa được đề cập. Một kế  
hoạch chiến lược nhằm xác định rõ người sử dụng  
dịch vụ đích thực là rất cần thiết.  
Chưa có các thông tin cơ sở về môi trường và điều kiện  
kinh tế xã hội  
eo Nghị định số 99, chi trả PFES phải được  
tính toán dựa trên chất lượng và số lượng rừng, tuy  
nhiên, diện tích rừng là thước đo cơ bản để giám sát  
tất cả các loại dịch vụ môi trường rừng. Mặc dù đã  
có chương trình quốc gia về điều tra tài nguyên rừng,  
nhưng các cán bộ cấp tỉnh vẫn cho rằng dữ liệu này  
là không đầy đủ để xác định ranh giới diện tích rừng  
và chất lượng rừng tại cấp độ địa phương. Hiện đang  
thiếu sự rõ ràng về ranh giới diện tích rừng của các  
chủ rừng giữa bản đồ và ở thực địa. Việc sử dụng  
Việc tiến hành và thực hiện hợp đồng, đánh giá tính  
ràng buộc và tiến hành chi trả cho việc cung cấp các  
dịch vụ môi trường cần được tiến hành một cách  
minh bạch. Kiểm tra nội bộ hoặc giám sát bởi bên  
Chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam  
|
xiii  
thứ ba hoặc các bên liên quan cần được xét kỹ càng  
hơn trong hệ thống giám sát và đánh giá. Hiện chưa  
có một hệ thống phản hồi hiệu quả và hệ thống  
phản hồi hiện nay chủ yếu thông qua trao đổi với  
trưởng thôn/bản bởi người dân không hiểu được hệ  
thống vận hành của PFES, không hiểu được quyền  
của họ, hoặc trong một số trường hợp họ không biết  
đọc, biết viết. Tuy nhiên tại nhiều điểm nghiên cứu  
đã cho thấy trưởng thôn/bản đã không thể đóng vai  
trò của một kênh phản hồi hiệu quả do lợi ích cá  
nhân của họ. Một quy trình giám sát và phản hồi ý  
kiến hiệu quả cần được thiết lập và giám sát để đảm  
bảo rằng những thắc mắc và nghi vấn của người dân  
được nhận diện và giải quyết kịp thời. Cuối cùng,  
sự chậm chạp trong quá trình kiểm chứng và phân  
bổ tiền chi trả dẫn tới sự thiếu tin tưởng của người  
dân, đồng thời dẫn tới việc sao nhãng khi thực hiện  
PFES. Một vài hạn chế trong việc thực hiện hợp  
đồng trong PFES được nhận diện như sau:  
• iếu nguồn nhân lực và thiếu năng lực của cả  
chính quyền địa phương và cấp xã trong việc thực  
hiện và giám sát hợp đồng PFES;  
sẵn sàng chi trả của người mua và sử dụng dịch vụ và  
do đó tác động xấu tới tính hiệu quả của PFES. Tất  
cả những vấn đề trên cần được nhận biết để nâng  
cao chất lượng đầu ra của PFES.  
Kết luận  
Nghiên cứu nhấn mạnh rằng PFES được xem như  
một trong những bước đột phá quan trọng trong  
ngành lâm nghiệp Việt Nam và chính sách này đang  
tiếp tục được hoàn thiện và cải tiến. Những thành  
tựu đáng kể về thiết lập khung pháp lý và tổ chức  
bộ máy, việc tạo ra nguồn thu đáng kể, đạt được các  
cam kết chính trị và sự quan tâm để hỗ trợ PFES ở  
cả cấp địa phương và cấp tỉnh cũng như ngay trong  
cộng đồng người dân địa phương hứa hẹn một tương  
lai tươi sáng cho PFES.  
Để nâng cao sự hiệu quả, hiệu ích và công bằng cho  
các kết quả đầu ra của PFES, các nhà hoạch định  
chính sách nên đảm bảo việc phân bổ tiền được  
minh bạch và được giải trình từ cấp trung ương tới  
địa phương thông qua việc phát triển một hệ thống  
giám sát và đánh giá với một cơ chế ghi nhận và phản  
hồi ý kiến rõ ràng. PFES cũng cần được hỗ trợ và kết  
hợp với các chương trình bảo tồn đất, nguồn nước  
ở lưu vực và phát triển kinh tế xã hội khác để mang  
đến một chương trình toàn diện hơn. Tổ chức thực  
hiện PFES cần phải tiến hành cùng với việc xây dựng  
năng lực dài hạn cho các cán bộ Nhà nước, các hộ  
gia đình, cộng đồng và người đại diện của các bên  
liên quan.  
• Các hình phạt là quá nhẹ cho những hành vi sai  
phạm pháp luật;  
• iếu sự tăng cường tính ràng buộc (tiền vẫn  
được chi trả ngay cả khi có vi phạm luật);và  
• Chưa có một hệ thống ghi nhận khiếu nại hoặc  
phản hồi.  
Ngoài ra, giám sát thường dựa theo báo cáo của từng  
chủ rừng, do vậy những báo cáo này có thể mang  
tính chủ quan hoặc thiếu chính xác. Các hướng dẫn  
thi hành luật không rõ ràng làm ảnh hưởng tới sự  
Giới thiệu  
1
Ý tưởng cơ bản về “chi trả dịch vụ môi trường”, hay  
còn gọi là PES, là tạo ra lợi ích cho các cá nhân và  
cộng đồng để bảo vệ các dịch vụ môi trường bằng  
cách bồi hoàn cho họ khoản chi phí phát sinh từ việc  
quản lý và cung cấp những dịch vụ này (Mayrand  
và Paquin 2004). eo định nghĩa kinh điển của  
Wunder (2005), PES bao gồm năm yếu tố chính là:  
giao dịch tự nguyện, một dịch vụ môi trường được  
xác định rõ ràng, có ít nhất một người mua dịch vụ,  
ít nhất một người cung cấp dịch vụ, và phải có tính  
điều kiện (người mua chỉ chi trả khi mà người cung  
cấp đảm bảo việc cung cấp dịch vụ được diễn ra liên  
tục). Trong báo cáo này, “PES” được hiểu là bất kỳ  
sự bồi hoàn nào đối với dịch vụ, công sức hoặc nỗ  
lực, và/hoặc bất kỳ sự đền đáp nào cho việc duy trì và  
nâng cao dịch vụ môi trường rừng được cung cấp bởi  
người bán hoặc được chi trả bởi người mua. Sự bồi  
hoàn hoặc đền đáp có thể dưới hình thức chi trả trực  
tiếp, lợi ích tài chính hoặc hiện vật như là sự tiếp cận  
thị trường (Gouyon 2002; Van Noordwijk 2005).  
2008, Quyết định số 380/QD-TTg đã thiết lập một  
Chương trình quốc gia có tên Chi trả Dịch vụ Môi  
trường Rừng (PFES), và đã được triển khai thí điểm  
tại tỉnh Sơn La và tỉnh Lâm Đồng. Sau giai đoạn thí  
điểm, năm 2010, Nghị định số 99/2010/NĐ-CP đã  
được ban hành và đặt mục tiêu triển khai PFES trên  
toàn quốc. Vì vậy, Việt Nam đã trở thành quốc gia  
đầu tiên ở châu Á đưa ra một cơ chế PES quốc gia  
– mặc dù cơ chế PES tại Việt Nam có sự khác biệt  
với định nghĩa kinh điển về PES (Wunder 2005) do  
Chính phủ quyết định mức chi trả, mức chi trả này  
hoạt động hiệu quả dưới hình thức thuế hay phí về  
điện, nước và du lịch.  
Một vài nghiên cứu đã đánh giá các bài học từ việc  
triển khai PFES tại Việt Nam (ví dụ, Tô và Laslo  
2009; Nguyễn 2009; McElwee 2012). Tuy nhiên,  
các đánh giá này chỉ tập trung vào một tỉnh riêng lẻ  
(Hess và Tô 2010; Nguyễn 2011), một vấn đề riêng  
rẽ, như là vấn đề sử dụng đất hoặc biến động về đa  
dạng sinh học (McElwee 2012; Tô và cộng sự 2012)  
hoặc chỉ nghiên cứu về lợi ích kinh tế (MARD  
2010b; Trần 2010). êm vào đó, các đánh giá trước  
đây dựa trên phân tích về các kết quả tại các tỉnh thí  
điểm PFES (Lâm Đồng và Sơn La) và các dự án dưới  
dạng PES trước khi có Nghị định 99 (ví dụ, Hoàng  
và cộng sự 2008; Kolinjivadi và Sunderland 2012;  
Tô và cộng sự 2012). Tiếp đó, mặc dù các nhà tài trợ  
và chính phủ đã dành sự chú ý đáng kể tới các khía  
cạnh xã hội và kinh tế của PES, có rất ít phân tích về  
tiềm năng pháp lý và cơ cấu thể chế để đạt được tính  
hiệu quả, hiệu ích và công bằng cho hệ thống chi trả  
PFES. Các cuộc thảo luận về mặt pháp lý thường bị  
giới hạn trong các khuyến nghị tổng quan và đơn  
thuần là lý thuyết.  
Có nhiều học giả đã khẳng định rằng PES mang đến  
một giải pháp mà các bên đều có lợi xét cả về mặt  
con người và môi trường (Pagiola và cộng sự 2005;  
Swallow và cộng sự 2005; Wunder 2005, 2006;  
Wunder và cộng sự 2005), nhưng không có nhiều  
bằng chứng xác nhận được luận điểm này, đặc biệt  
là ở các nước đang phát triển. Cần phải tiến hành  
nhiều hơn các nghiên cứu về sự khác biệt tiềm ẩn  
trong các mặt thể chế, kinh tế và xã hội giữa các  
nước đang phát triển và việc các khía cạnh riêng rẽ  
này có tác động lên PES như thế nào (Swallow và  
cộng sự 2005; Wunder 2006; Dudley và cộng sự  
2007; Lee và Mahanty 2009). Nghiên cứu này đưa  
ra các nghiên cứu điểm ở Việt Nam để đóng góp vào  
kiến thức và hiểu biết chung nhằm trả lời câu hỏi  
liệu các bối cảnh riêng biệt sẽ tạo điều kiện hay gây  
trở ngại cho PES.  
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thực hiện một  
đánh giá so sánh về PFES ở Việt Nam để đánh giá  
thực trạng của chương trình PFES, so sánh các cách  
tiếp cận cho việc triển khai và nhận biết các bài học  
thực tiễn và các vấn đề có thể nhân rộng và nêu ra  
tại các khu vực khác. Dựa trên các phân tích và đánh  
Năm 2004, Chính phủ Việt Nam đã đặt nền móng  
cho một chương trình PES cấp quốc gia thông qua  
Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng sửa đổi (2004). Năm  
2 | Phạm Thu Thủy, Karen Bennett, Vũ Tấn Phương, Jake Brunner, Lê Ngọc Dũng và Nguyễn Đình Tiến  
giá, chúng tôi cũng đưa ra các khuyến nghị nhằm  
đạt được tính hiệu quả, hiệu ích và công bằng trong  
thực hiện PFES. Trong nghiên cứu này, chúng tôi  
cũng xem xét đến các nguyên tắc và bài học thực tiễn  
từ những cơ chế PES khác nhau, trên phương diện  
quốc gia và quốc tế.  
bối cảnh của nghiên cứu ở Phần 1 và mô tả khung  
phân tích và phương pháp nghiên cứu tại Phần 2.  
Phần 3 tập trung vào tiến trình PFES tại Việt Nam,  
Phần 4 cung cấp phân tích chi tiết về ba loại dịch vụ  
môi trường rừng triển khai thực hiện trong Chính  
sách PFES, bao gồm phòng hộ đầu nguồn, vẻ đẹp  
cảnh quan và cung cấp bãi đẻ, nguồn thức ăn và con  
giống tự nhiên cho hoạt động nuôi trồng thủy sản.  
Phân tích này bao gồm cả việc kiểm tra và đánh giá  
lại tác động của các chính sách lên mỗi loại dịch  
vụ môi trường, và các vấn đề về cơ cấu tổ chức, cơ  
chế chia sẻ lợi ích và hệ thống giám sát và đánh giá  
có liên quan. Ở Phần 5, chúng tôi thảo luận về các  
nhân tố thể chế và tổ chức của PFES cũng như vai  
trò và tiềm năng của các nhân tố này đối với đầu ra  
của Chương trình PFES. Cuối cùng, chúng tôi đưa  
ra các khuyến nghị chính sách rõ ràng cho việc triển  
khai PFES trong tương lai ở Phần 6 và các kết luận  
nêu ở Phần 7.  
Chúng tôi tập trung vào ba khía cạnh của PFES:  
(1) cơ cấu thể chế (các văn bản pháp quy và cơ cấu tổ  
chức); (2) cơ chế chia sẻ lợi ích (phân bổ nguồn tài  
chính và quá trình tham gia) và (3) giám sát và đánh  
giá (giám sát các dịch vụ môi trường, các hợp đồng,  
dòng tài chính và tác động xã hội của PFES). Dữ liệu  
được thu thập từ các nghiên cứu điểm, phỏng vấn  
bán cấu trúc với câu hỏi mở, họp nhóm và các hội  
thảo chuyên đề.  
Báo cáo chuyên đề này của CIFOR bao gồm bảy  
phần. Chúng tôi bắt đầu báo cáo bằng việc giải thích  
Khung phân tích và phương pháp  
2
2.1 Khung phân tích  
các nhân tố tham gia vào chương trình, dòng chảy  
vốn và phân phối tài chính, các yếu tố thúc đẩy như  
mức độ quan tâm và sự tham gia của người hưởng  
lợi và các kết quả đầu ra tổng quát (Kosoy và cộng  
sự 2008; Corbera và cộng sự 2009). Vì vậy, bước  
đầu tiên trong nghiên cứu của chúng tôi là phân tích  
các luật và quy định của Việt Nam về PFES để nhận  
ra các yếu tố hỗ trợ cũng như gây trở ngại cho việc  
triển khai PFES. Chúng tôi đánh giá cơ chế PFES  
theo khả năng đạt được các kết quả đầu ra hiệu quả,  
hiệu ích và công bằng. Hiệu quả ở đây mang nghĩa  
Sơ đồ khung phân tích cho thực hiện nghiên cứu  
này được mô tả tại Hình 1.  
ành công hay thất bại của cơ chế PES và cơ chế  
chia sẻ lợi ích phụ thuộc rất lớn vào khung thể chế  
và sự thiết lập thể chế (Archer và cộng sự 2008;  
Corbera và cộng sự 2009; Neef và omas 2009;  
Zabel và Roe 2009; Clements và cộng sự 2010; Vatn  
2010). Khung thể chế quyết định mối quan hệ của  
HIỆU QUẢ  
Năng lực của cán  
bộ nhà nước  
Thiết lập thể chế  
Tổ chức bộ máy  
Các quy định  
Giám sát các dịch  
vụ môi trường  
Giám sát và đánh giá  
Cơ chế chia sẻ lợi ích  
Giám sát dòng tiền  
PFES  
Giám sát tác  
động xã hội  
Phương thức  
chi trả, mức  
chi trả, v.v…  
HIỆU ÍCH  
CÔNG BẰNG  
Hình 1. Khung phân tích  
4 | Phạm Thu Thủy, Karen Bennett, Vũ Tấn Phương, Jake Brunner, Lê Ngọc Dũng và Nguyễn Đình Tiến  
liệu PFES trên thực tế có duy trì và nâng cao dịch vụ  
môi trường hay không (khía cạnh môi trường). Tính  
hiệu ích được xem xét dưới góc độ liệu cơ chế PFES  
có được thiết lập, triển khai và giám sát ở mức chi  
phí tối thiểu (khía cạnh tài chính). Công bằng được  
hiểu là sự công bằng trên cả khía cạnh phân phối  
(phân phối lợi ích công bằng từ nguồn lợi của PFES)  
và tiến trình (sự tham gia của quá trình PFES) (khía  
cạnh xã hội).  
án Nghiên cứu so sánh toàn cầu về REDD+,2 của  
CIFOR được tài trợ bởi NORAD. Các phương  
pháp sử dụng trong nghiên cứu được trình bày tại  
Hình 2.  
Nghiên cứu tổng quan: Mục tiêu của nghiên cứu  
tổng quan là nhằm tìm hiểu xem PES được triển  
khai ở đâu và như thế nào tại Việt Nam, và nhận  
biết các bài học kinh nghiệm từ những nỗ lực trước  
đây ở cả Việt Nam và trên bình diện quốc tế. Chúng  
tôi đã ứng dụng các bài học này trong suốt quá  
trình nghiên cứu, từ việc ứng dụng để phát triển  
các tiêu chí lựa chọn nghiên cứu điểm và xây dựng  
phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham  
gia (PRA). Kết quả từ nghiên cứu tổng quan cũng  
được sử dụng để thiết lập một khung chính sách  
với các khuyến nghị chính sách cụ thể đưa ra từ kết  
quả nghiên cứu, và đảm bảo rằng các khuyến nghị  
có tính thực tiễn, hợp lý và có thể áp dụng được  
trên nền tảng khung pháp lý và các chính sách môi  
trường ở Việt Nam.  
Sau đó, chúng tôi xem xét hai thành tố chính của cơ  
chế PFES gây ảnh hưởng quan trọng tới việc liệu cơ  
chế sẽ đạt được các kết quả đầu ra hiệu quả, hiệu ích  
và công bằng, đó là cơ chế chia sẻ lợi ích và hệ thống  
giám sát đánh giá. Chúng tôi đưa ra luận điểm rằng  
các nhà cung cấp dịch vụ môi trường rừng tham gia  
vào cơ chế PFES để tìm kiếm những lợi ích nhất  
định. Những lợi ích này có thể dưới dạng tiền mặt  
hoặc hiện vật – người cung cấp không chỉ tìm kiếm  
lợi ích dưới dạng giá trị kinh tế mà còn là những dấu  
hiệu cho thấy sự tôn trọng của xã hội tới những nỗ  
lực của họ tới việc bảo vệ và phát triển rừng. Việc  
thiết kế yếu kém hoặc cơ chế chia sẻ lợi ích không  
công bằng có thể không chỉ làm mất sự quan tâm  
và hứng thú của người cung cấp dịch vụ môi trường  
trong việc tham gia vào PES mà còn gây ra thêm mâu  
thuẫn giữa các bên liên quan và làm suy yếu tính  
hiệu quả của cơ chế. Với lý do này, chúng tôi không  
chỉ đánh giá số tiền và lợi ích được phân phối, mà  
quan trọng hơn, đó là nền tảng và cơ chế cho việc  
phân phối và tính công bằng ẩn giấu trong đó.  
Các nghiên cứu điểm tại các tỉnh Bắc Kạn, Sơn La,  
Hòa Bình, Nha Trang, Nam Định, ừa iên Huế,  
Quảng Nam, Đắk Nông và Lâm Đồng (Hình 3)  
được lựa chọn để đưa ra các bài học kinh nghiệm từ  
các phát hiện trong nghiên cứu.  
Phỏng vấn bán cấu trúc và câu hỏi mở: Tổng cộng  
chúng tôi đã thực hiện 210 cuộc phỏng vấn bán cấu  
trúc với người tham gia phỏng vấn đến từ các bên  
khác nhau (Bảng 1). Các cuộc phỏng vấn đã thu  
thập các thông tin về nhận thức của các bên liên  
quan về PFES, cơ hội và thách thức cho việc triển  
khai, và những gợi ý để tiếp tục phát triển.  
Tương tự, chúng tôi xem xét việc thiết kế hệ thống  
giám sát đánh giá và kiểm nghiệm việc xây dựng, ký  
kết và giám sát các hợp đồng để đảm bảo người bán  
và người mua phải tuân thủ theo những nghĩa vụ  
của họ trong hợp đồng. Chúng tôi cũng ghi nhận  
bất kỳ một tác động nào mà PFES mang lại hoặc gây  
nên đối với sinh kế của các cộng đồng địa phương,  
an sinh xã hội và các mối quan hệ và liên kết trong  
xã hội.  
Các cuộc họp nhóm nhằm tham vấn cộng đồng địa  
phương được thực hiện ở tỉnh Lâm Đồng (huyện  
Lâm Hà và Di Linh năm 2011 và huyện Lạc Dương  
2
CIFOR tiến hành Nghiên cứu so sánh toàn cầu về REDD+  
(GCS-REDD+) tại 13 quốc gia từ 2009-2013 với mục tiêu  
đánh giá dựa trên kinh nghiệm thực hiện REDD+ ở cấp quốc  
tế, quốc gia và cấp vùng và nhận diện các thách thức trong quá  
trình thiết kế và triển khai các chính sách và dự án REDD+  
hiệu quả, hiệu ích và công bằng. Hợp phần 1 của GCS bao gồm  
4 thành tố: (1) một báo cáo bối cảnh quốc gia, để phân tích ảnh  
hưởng từ nền tảng nhằm đạt được cơ chế PES và REDD+ hiệu  
quả, hiệu ích và công bằng chính sách quốc gia, kinh tế chính trị  
và cơ cấu tổ chức (2) phân tích truyền thông về REDD+, nhằm  
nhận diện các nhân tố ảnh hưởng và tham gia vào REDD+ và  
PES tại Việt Nam; (3) phân tích mạng lưới chính sách được  
phát triển và sử dụng bởi các nhân tố REDD+ và PES và sự  
tương tác giữa các nhân tố này; và (4) hướng tiếp cận thiết kế  
linh hoạt, để các nghiên cứu có thể phân tích các nguyên nhân  
mất rừng và các yếu tố đặc biệt hỗ trợ hoặc gây trở ngại tới quá  
trình triển khai PES/REDD+.  
2.2 Quá trình và phương pháp nghiên cứu  
Các số liệu đưa ra trong nghiên cứu này được thu  
thập từ hai nghiên cứu: đánh giá so sánh và các bài  
học rút ra từ cơ chế PFES tại Việt Nam, được tài  
trợ bởi USAID và thực hiện bởi CIFOR và Cơ  
quan Lâm nghiệp Hoa Kỳ1, và Hợp phần 1 của Dự  
1
Cơ quan phát triển Hoa Kỳ tại Châu Á (RDMA) gần đây  
đã mở rộng hợp tác và tài trợ cho Tchức Nghiên cứu Lâm  
nghiệp Quốc tế (CIFOR) tại Bogor, Indonesia, để tiến hành  
nghiên cứu về chi trả dịch vụ môi trường ở khu vực Mê Kông,  
bao gồm nghiên cứu so sánh về sáng tạo PFES tại Việt Nam.  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 101 trang yennguyen 02/04/2022 5120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Chuyên đề Chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Việt Nam - Từ chính sách đến thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_chi_tra_dich_vu_moi_truong_rung_tai_viet_nam_tu_chin.pdf