Xử lý chiến lược khủng hoảng Covid-19: Một vài khuyến nghị cho doanh nghiệp dầu khí

NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 4 - 2020, trang 50 - 55  
ISSN 2615-9902  
XỬ LÝ CHIẾN LƯỢC KHỦNG HOẢNG COVID-19:  
MỘT VÀI KHUYẾN NGHỊ CHO DOANH NGHIỆP DẦU KHÍ  
Nguyễn Hồng Minh  
Viện Dầu khí Việt Nam  
Email: nguyenhongminh@vpi.pvn.vn  
Tóm tắt  
Trong đại dịch COVID-19, các doanh nghiệp dầu khí trên thế giới chịu tác động kép. Thứ nhất, do giãn cách xã hội, việc di chuyển trở  
nên khó khăn, nguồn cung nhân lực chất lượng cao bị đóng băng, một số cơ sở sản xuất phải đóng cửa hoặc giảm quy mô sản xuất hàng  
hóa, dịch vụ quan trọng bị gián đoạn, giá cả khó lường, ảnh hưởng đến tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ hai, do nhu  
cầu đi lại và hoạt động kinh tế giảm, dẫn đến giảm nhu cầu và hậu quả là giá dầu thấp đến mức chưa từng có trong lịch sử, kéo theo các  
hệ lụy như: doanh thu giảm, tồn kho nhiều, dòng tiền không ổn định hoặc thiếu hụt gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực  
thăm dò, khai thác, chế biến, khí và dịch vụ kỹ thuật dầu khí.  
Trong bài báo này, tác giả giới thiệu cách tiếp cận xử lý khủng hoảng chiến lược do Martin Hirt (McKinsey) đề xuất, với một số gợi ý  
cho bối cảnh đại dịch COVID-19 của tư vấn BCG, IHS và của riêng tác giả để các doanh nghiệp dầu khí ứng xử trong bối cảnh khủng hoảng  
chưa có tiền lệ này.  
Từ khóa: COVID-19, xử lý khủng hoảng chiến lược, quản trị doanh nghiệp, dầu khí.  
1. Cuộc khủng hoảng chưa có tiền lệ  
Cuộc khủng hoảng chưa có tiền lệ không chỉ vì quy  
mô lớn về địa lý làm ảnh hưởng hầu hết các nước, cường  
độ cao với nhiều ca nhiễm và tử vong, đóng băng nhiều  
nền kinh tế, phá vỡ chuỗi giá trị toàn cầu, hàng loạt gói  
cứu trợ chưa từng có tiền lệ, mà còn vì tính khó dự đoán  
của chủng virus Corona mới. Các nhà khoa học gần đây đã  
tìm thấy bằng chứng tác động của virus SARS-CoV-2 lên  
hệ tiêu hóa, hệ thần kinh và giai đoạn lây nhiễm mạnh có  
vẻ như khi người bị nhiễm chưa có triệu chứng. Hàng loạt  
câu hỏi mà các chính phủ, doanh nghiệp, nhà khoa học  
phải tìm câu trả lời hàng ngày, hàng giờ vì rất nhiều “điều  
chưa biết mà ta chưa biết về sự tồn tại của nó” (unknown  
unknowns).  
Các nhà nghiên cứu cho rằng, đại dịch COVID-19 sẽ  
gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong  
lịch sử hiện đại, thậm chí còn nặng nề hơn cả cuộc đại suy  
thoái toàn cầu vào cuối thập niên 1920 - đầu thập niên  
1940. Cú sốc này mạnh đến mức nào, kéo dài bao lâu, tất  
cả phụ thuộc vào việc nhân loại chiến đấu với kẻ thù bé  
nhỏ, vô hình này ra sao? Bao giờ đến đỉnh dịch và sau đó  
đường cong sẽ diễn biến như thế nào, còn những đỉnh  
khác không, khi các nền kinh tế lần lượt mở cửa trở lại?  
Bao giờ tìm ra vaccine chống chủng mới của virus Corona  
này, hay chúng lại sinh ra những biến thể mới làm cuộc  
chiến không biết bao giờ chấm dứt? Các phương thuốc  
cứu chữa nền kinh tế từ các chính phủ, ngân hàng trung  
ương và các định chế tài chính quốc tế sẽ ra sao, có đủ  
“máy thởvà “nguồn oxycho các doanh nghiệp sống sót,  
phục hồi và phát triển? Và ngay cả khi bắt đầu phục hồi  
và phát triển, thì bối cảnh kinh tế - xã hội, thói quen sinh  
hoạt, hành vi của khách hàng sẽ ra sao và doanh nghiệp  
sẽ định hướng thế nào trong điều kiện mới mà nhân loại  
chưa từng biết đến?  
Trong đại dịch COVID-19, các doanh nghiệp dầu khí,  
rủi thay, đều chịu tác động kép. Thứ nhất, do giãn cách xã  
hội, việc di chuyển trở nên khó khăn, nguồn cung nhân  
lực chất lượng cao bị đóng băng, một số cơ sở sản xuất  
phải đóng cửa hoặc giảm quy mô sản xuất hàng hóa, dịch  
vụ quan trọng bị gián đoạn, giá cả khó lường, ảnh hưởng  
đến tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ  
hai, do nhu cầu đi lại và hoạt động kinh tế giảm, dẫn đến  
giảm nhu cầu và hậu quả là giá dầu thấp đến mức chưa  
từng có trong lịch sử, kéo theo nhiều hệ lụy như doanh  
thu giảm, tồn kho nhiều, dòng tiền không ổn định hoặc  
Ngày nhận bài: 21/4/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 21 - 22/4/2020.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/4/2020.  
DẦU KHÍ - SỐ 4/2020  
50  
PETROVIETNAM  
thiếu hụt gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong lĩnh  
vực thăm dò, khai thác, chế biến, khí và dịch vụ kỹ thuật  
dầu khí. Vậy doanh nghiệp dầu khí nên ứng xử trong bối  
cảnh khủng hoảng chưa có tiền lệ này như thế nào?  
được quan tâm nhiều. Bối cảnh khủng hoảng do dịch  
COVID-19, có quy mô, cường độ và tính bất định chưa có  
tiền lệ, đã và đang tạo nên sự thay đổi căn bản về tư duy,  
nhận thức, giá trị, dẫn đến thay đổi hành vi tiêu dùng của  
doanh nghiệp và cá nhân cũng như đặt ra yêu cầu thay  
đổi mô hình kinh doanh hiện có. Do vậy, cần cách tiếp cận  
mang tính chiến lược hơn, tập trung vào các mục tiêu dài  
hạn hơn, trong khi vẫn xử lý được các tình huống ngắn hạn.  
2. Lý thuyết về xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp  
Khi xảy ra khủng hoảng, có 2 mục tiêu quan trọng  
doanh nghiệp cần theo đuổi, đó là tồn tại, vượt qua khủng  
hoảng và chuẩn bị mọi mặt cho phục hồi và phát triển  
một cách nhanh nhất khi khủng hoảng qua đi. Thông  
thường, người ta khuyến nghị các bước: thành lập Nhóm  
xử lý khủng hoảng (Crisis Team); nhóm này có trách nhiệm  
xác định các kịch bản có thể xảy ra, các rủi ro chính; và lập  
kế hoạch hành động cho từng kịch bản, giảm thiểu tác  
động, tránh các rủi ro có thể xảy ra và triển khai các hoạt  
động này.  
Trong bài báo này, tác giả giới thiệu cách tiếp cận xử  
lý khủng hoảng chiến lược (tác giả tạm đặt tên), do Martin  
Hirt (McKinsey) đề xuất, với một số gợi ý cho bối cảnh đại  
dịch COVID-19 của tư vấn BCG, IHS và của riêng tác giả để  
độc giả tham khảo.  
3. Phương pháp tiếp cận “Xử lý khủng hoảng chiến  
lược”  
Tuy nhiên, cách tiếp cận truyền thống thường chủ yếu  
tập trung vào mục tiêu thứ nhất, mục tiêu thứ hai không  
Thay vì thành lập Nhóm xử lý khủng hoảng, Martin  
Hirt đề xuất thành lập nhóm có tên là Nhóm xây dựng  
Bảng 1. Khung phân tích và một số cách tiếp cận xử lý khủng hoảng chiến lược cho doanh nghiệp X [1]  
Tuần này  
2 - 4 tuần tới  
1 - 2 quý tới  
1 - 2 năm tới  
Bình thường mới  
Xác định vị trí hiện tại  
- Một phần dữ liệu quan  
- Một số nhiệm vụ  
- Thiếu nguồn vốn  
triển khai một số  
dự án trong kế  
hoạch.  
- Tình hình ổn định  
trở lại.  
- Cầu tăng trở lại.  
trọng mới được lưu trữ trên quan trọng không  
đám mây (cloud storage);  
- Giá dầu giảm còn 40%  
giá kế hoạch năm 2020.  
Xây dựng các kịch bản  
thể thực hiện trực  
tuyến;  
- Một số tài sản báo lỗ.  
- Chính phủ bắt buộc giãn - Chuỗi cung ứng một  
- Giá dầu thô giảm  
sâu;  
- Các đối tác dừng,  
giãn đầu tư.  
- Thị trường chưa  
phục hồi hoàn  
toàn.  
- Cấu trúc thị trường  
thay đổi theo hướng  
đa dạng nguồn năng  
lượng.  
cách xã hội;  
- Có ca F1 trong doanh  
nghiệp.  
số dịch vụ kỹ thuật  
cao bị đứt;  
- Thiếu chuyên gia  
nước ngoài.  
Định hướng phát triển  
- Liên kết nội địa để bảo  
đảm chuỗi cung ứng;  
- Xây dựng kế hoạch,  
phương án giãn cách xã  
hội trong doanh nghiệp;  
các kịch bản hành động  
theo nguy cơ nhiễm  
- Mở rộng mạng lưới,  
dự phòng cho chuỗi  
cung ứng;  
- Cắt giảm phúc lợi và  
thu nhập thêm ngoài  
lương.  
- Rà soát, tối ưu hóa  
từng hạng mục chi  
phí;  
- Tối ưu hóa giỏ dự  
án đầu tư.  
- Quay trở lại kinh  
doanh bình  
thường;  
- Đánh giá một số  
hướng phát triển  
kinh doanh mới.  
- Triển khai cung cấp  
dịch vụ điều hành  
hợp đồng PSC, khai  
thác mỏ cho bên  
thuê là nhà nước,  
chủ mỏ;  
- Mở rộng kinh doanh  
ra ngoài ngành dầu  
khí;  
bệnh từ thấp đến cao.  
Quyết sách chiến lược  
- Chia lực lượng sản xuất  
thành các nhóm không  
trực tiếp gặp nhau.  
- Tăng cường đào tạo  
làm việc trực tuyến;  
- Giảm số lượng nhân  
viên gián tiếp;  
- Tuyển dụng nguồn  
nhân lực chuyển đổi  
số.  
- Đóng một số mỏ;  
- Tạm dừng khai  
thác một số giếng,  
giảm sản lượng  
một số mỏ;  
- Đẩy mạnh chuyển  
đổi số.  
- Farm-in một số dự  
án trong nước có  
tiềm năng;  
- Farm-out, swap  
một số dự án nước  
ngoài không trong  
vùng trọng điểm.  
- Ưu tiên đầu tư các  
dự án trong nước;  
- Hợp tác với đối tác  
năng lượng ngoài  
dầu khí.  
Xác định các điều kiện kích hoạt  
- Quyết định của cơ quan  
công quyền.  
- Biện pháp giãn cách  
kéo dài quá thời hạn  
nhất định.  
- Giá dầu so với giá  
thành và khai thác  
(production &  
- Giá dầu so với giá  
thành phát hiện và  
khai thác (-nding &  
production costs).  
lifting costs).  
DẦU KHÍ - SỐ 4/2020  
51  
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI  
kế hoạch tiến về phía trước (Plan-Ahead Team), sau đây  
gọi tắt là Nhóm đặc nhiệm. Gần giống với cách thức xử lý  
khủng hoảng trong quân đội, nhóm này có trách nhiệm  
thu thập, phân tích các thông tin tình báo nhìn về phía  
trước, có tính dự báo, phát triển các kịch bản tương lai, xây  
dựng các phương án hành động cho nhiều tầm nhìn thời  
gian khác nhau. Cơ cấu tổ chức của Nhóm đặc nhiệm này  
theo hình thức module, mỗi module chịu trách nhiệm về  
một lĩnh vực/vấn đề trong suốt toàn bộ quá trình xây dựng  
kế hoạch. Khi có những vấn đề mới xuất hiện, module mới  
được hình thành và bổ sung vào nhóm ngay lập tức.  
động của bối cảnh khủng hoảng lên các mục tiêu tài chính  
thành 3 nhóm: tác động tốt, tác động xấu và chưa rõ tác  
động. Có thể tham khảo phương pháp của Deloitte [2],  
theo đó có 3 nhóm việc với danh mục các bước cụ thể cần  
phải làm: phân tích sức khỏe tài chính và tính thanh khoản  
của doanh nghiệp, phân tích sức khỏe chuỗi cung ứng và  
rà soát, điều chỉnh cách làm việc với các nhà đầu tư.  
Các dự án đang triển khai và các phương án chiến  
lược theo mô hình kinh doanh cũ cũng được chia thành  
3 nhóm theo tiêu chí tương tự. Trong trường hợp doanh  
nghiệp X, khi giá dầu giảm tới 60% so với giá kế hoạch, các  
tài sản đang hoạt động sau khi rà soát được chia thành 3  
nhóm: (i) một số mỏ, hợp đồng vẫn có lãi có thể tiếp tục  
khai thác; (ii) một số mỏ, hợp đồng mà chi phí hoạt động  
đã vượt giá dầu cần dừng ngay; và (iii) một số mỏ, hợp  
đồng dưới góc độ nhà thầu có thể lỗ, nhưng dưới góc độ  
dự án (bao gồm cả thuế, chia chính phủ) vẫn tạo nên giá  
trị. Nhóm thứ 3 này rất nhạy cảm với khoảng giá dầu đang  
dao động. Vì vậy, có thể giãn, tạm dừng tùy theo tình hình.  
Theo BCG, các lĩnh vực cần có phương án bảo vệ,  
xử lý trong trường hợp COVID-19 gồm: sức khỏe nguồn  
nhân lực, sức khỏe hoạt động/dự án, sức khỏe tài chính,  
sức khỏe chuỗi cung cấp và sức khỏe số và công nghệ.  
BCG cũng đề xuất nhóm này phải có thẩm quyền ra  
quyết định, do lãnh đạo cao cấp đứng đầu, có một đội  
ngũ chuyên gia đủ các lĩnh vực chuyên môn tư vấn, hỗ  
trợ và đặt văn phòng ngay bên cạnh văn phòng của Tổng  
giám đốc, để có thể báo cáo lãnh đạo cao nhất quyết định  
nhanh chóng những việc vượt thẩm quyền.  
3.2. Xây dựng các kịch bản (Scenarios)  
Xây dựng các kịch bản khác nhau cho tương lai cần  
nhìn thẳng vào các yếu tố bất định, không chắc chắn, xem  
xét khách quan, tránh coi thường, bỏ qua, cũng như quá  
lo lắng, đến mức tê liệt không biết nên làm gì.  
Thay vì 3 bước, cách tiếp cận nêu trên đề xuất 5 bước,  
hay còn gọi là 5 khung phân tích và triển khai các phân  
tích này cho nhiều tầm nhìn thời gian. 5 khung phân tích  
đó là:  
Có thể tham khảo nhận định của các nhà tư vấn để  
hình dung các kịch bản có thể xảy ra. Ví dụ, BCG chia kịch  
bản khủng hoảng kinh tế toàn cầu theo 3 mức độ từ nhẹ  
đến nặng, tượng trưng bằng chữ V, chữ U hoặc chữ L. Kịch  
bản V cho rằng kinh tế bị suy thoái, nhưng không kéo dài  
và bật nhanh sau khi vượt qua khủng hoảng. Kịch bản U  
xảy ra khi kinh tế suy thoái kéo dài, nhưng sau đó vẫn phục  
hồi trở lại với tốc độ tăng trưởng như trước thời kỳ khủng  
hoảng. Kịch bản L là tồi tệ nhất, khi kinh tế suy thoái kéo  
dài, phục hồi chậm, nền kinh tế không thể lấy lại tốc độ  
tăng trưởng như trước [3].  
- Xác định vị trí hiện tại (Starting position);  
- Xây dựng các kịch bản (Scenarios);  
- Định hướng phát triển (Broad directions of travel);  
- Quyết sách chiến lược (Strategic moves);  
- Xác định các điều kiện kích hoạt (Set trigger points).  
Nội dung các bước phân tích này, mối liên hệ với các  
tầm nhìn thời gian khác nhau được tổng hợp trong Bảng  
1. Các gợi ý và ý kiến thảo luận sau đó được dựa trên giả  
thiết trường hợp cho doanh nghiệp X hoạt động trong  
lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, có danh mục tài sản cả  
trong và ngoài nước, có thành công bước đầu trong thời  
gian qua, đang có kế hoạch tái cấu trúc mạnh mẽ, chuyển  
đổi số nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động.  
Martin Hirt (McKinsey), chi tiết hơn, khi đưa ra 2 chiều  
tác động của khủng hoảng: quy mô đại dịch và hiệu quả  
của các biện pháp phòng chống và hiệu quả của các biện  
pháp cứu trợ, phục hồi, kích thích phát triển nền kinh  
tế. Trên từng chiều tác động, lại chia thành 3 cấp độ, từ  
đó, từng nền kinh tế có thể có đến 9 kịch bản xảy ra sau  
khủng hoảng (Hình 1).  
3.1. Xác định vị trí hiện tại (Starting position)  
Do không có nhiều thời gian, Nhóm đặc nhiệm cần  
dựa vào chiến lược và kế hoạch sẵn có của doanh nghiệp,  
tập trung phân tích 3 lĩnh vực chính: tài chính, các dự án  
đang triển khai và các lựa chọn chiến lược sẵn có. Trong  
lĩnh vực tài chính, đánh giá và phân chia các yếu tố tác  
Tương ứng với từng kịch bản kinh tế, cùng với phản  
ứng của các nhà sản xuất chính, sẽ là các kịch bản khác  
nhau về giá dầu. Từ kịch bản khác nhau có thể hình dung  
ra các thách thức, rủi ro và cơ hội cụ thể. Trên cơ sở đó, có  
DẦU KHÍ - SỐ 4/2020  
52  
PETROVIETNAM  
Các kịch bản khủng hoảng kinh tế  
Tốt  
Kiểm soát nhanh chóng  
và hiệu quả sự lây lan  
của dịch bệnh.  
Dịch bệnh được kiểm  
soát, kinh tế phục hồi  
chậm.  
Dịch bệnh được kiểm  
soát, nhưng cơ cấu kinh  
tế ngành bị phá vỡ.  
Dịch bệnh được kiểm soát,  
kinh tế phục hồi trở lại  
mạnh mẽ và nhanh chóng.  
Kiểm soát có hiệu quả  
nhưng vẫn để xảy ra  
bùng phát nhiều lần.  
Tình hình dịch kéo dài;  
kinh tế phát triển chậm.  
Tình hình dịch kéo dài;  
kinh tế phát triển chậm  
trong dài hạn.  
Tình hình dịch kéo dài; kinh  
tế có xu thế phát triển trở  
lại.  
Dịch bệnh lan rộng; kinh  
tế có xu hướng phục hồi  
nhưng chậm.  
Dịch bệnh lan rộng;  
khủng hoảng trầm trọng  
và kéo dài.  
Dịch bệnh lan rộng; kinh tế  
phục hồi hoàn toàn nhưng  
có độ trễ.  
Thất bại trong kiểm  
soát; dịch bệnh lan rộng  
trong thời gian dài.  
Kém  
Hỗ trợ hiệu quả; tránh  
được phá vỡ cấu trúc kinh  
tế; phục hồi các nền tảng  
cơ bản như trước khủng  
hoảng.  
Hỗ trợ không hiệu quả;  
phá sản hàng loạt; hệ  
thống ngân hàng gặp  
khủng hoảng.  
Hỗ trợ hiệu quả 1 phần;  
tránh khủng hoảng cho hệ  
thống ngân hàng; phục  
hồi kinh tế chậm.  
Tt  
Kém  
Hiệu quả của các biện pháp cứu trợ, phục hồi, kích thích phát triển kinh tế  
Hình 1. Các kịch bản khủng hoảng kinh tế [1]  
thể biến những điều không chắc chắn mà chúng ta đang  
hình dung về tương lai thành tập hợp các hành động cụ  
thể, có thể đo đếm được.  
of future). Rystad Energy dự báo cầu dầu thô giảm 10%  
cho năm 2020 [8], nhưng chỉ sau công bố của Rystad vài  
ngày, nhiều tổ chức đã dự báo nhu cầu dầu giảm tới 30%.  
Tham khảo thông tin này, áp dụng khoảng bất định cho  
thị trường dầu mỏ, có thể dự báo nhu cầu dầu mỏ sẽ giảm  
trong khoảng từ 10 - 30% trong thời gian từ 1 - 3 năm tới.  
Từ đây, Hugh đề xuất phát triển một số kịch bản mang  
tính đại diện cho khoảng biến đổi nêu trên và xây dựng  
chiến lược cho từng kịch bản.  
Có thể tham khảo báo cáo của các chuyên gia [4 - 6]  
để hình dung “bình thường mới” sẽ như thế nào, qua đó  
xây dựng kịch bản sát thực tế.  
3.3. Định hướng phát triển (Broad directions of travel)  
Với tư duy mở cho tất cả các khả năng xảy ra, Nhóm  
đặc nhiệm cần đưa ra các định hướng phát triển lớn nhằm  
tránh phân tán nguồn lực trong tương lai vào quá nhiều  
phương án khác nhau.  
3.4. Quyết sách chiến lược (Strategic moves)  
Trong điều kiện mọi thứ không chắc chắn, kế hoạch  
cứng nhắc sẽ không tồn tại được lâu, nhưng nếu linh hoạt  
quá thì cũng không đi đến đâu cả.  
Có thể tham khảo định hướng lớn do Martin Hirt đưa  
ra, dựa trên 2 tiêu chí: (i) nhu cầu dầu mỏ giảm ở mức độ  
nào và bao lâu; và (ii) mức độ thay đổi của mô hình kinh  
doanh. Khi đó có 4 định hướng lớn là: (i) phục hồi và tiếp  
tục sản xuất kinh doanh, khi 2 tiêu chí trên không thay đổi  
nhiều; (ii) tái cơ cấu lại doanh nghiệp, nếu mô hình kinh  
doanh không biến động, nhưng nhu cầu giảm nhiều; (iii)  
chuyển dịch mô hình kinh doanh, nếu nhu cầu giảm ít,  
nhưng môi trường, hành vi tiêu dùng thay đổi; (iv) chuyển  
đổi sang một loại hình kinh doanh mới, nếu cả 2 tiêu chí  
trên có những thay đổi đáng kể (Hình 2).  
Có thể bắt đầu bằng cách rà soát danh sách các dự án,  
chương trình hành động có sẵn trong kế hoạch sẽ thấy, có  
những dự án, chương trình phải bỏ, một số sáng kiến mới  
có thể được bổ sung.  
Xem xét các dự án, chương trình này, có thể thấy một  
số giữ nguyên giá trị trong mọi trường hợp, ví dụ như kế  
hoạch đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao  
chất lượng nguồn nhân lực, hay chương trình chuyển đổi  
số, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động...  
Cũng có thể tham khảo khung chiến lược trong điều  
kiện tương lai có nhiều bất định của Hugh G.Courtney  
[7]. Theo đó tính bất định của khủng hoảng COVID-19  
có thể xếp ở mức 3, bất định trong một khoảng (range  
Có những dự án sẽ mang lại lợi ích to lớn, nhưng trong  
từng điều kiện, kịch bản nhất định. Đây là loại dự án rủi ro,  
“năm ăn, năm thua, đòi hỏi thu thập thông tin và phân  
tích tình hình liên tục, trước khi đưa ra quyết định tiếp  
DẦU KHÍ - SỐ 4/2020  
53  
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI  
đối tác tham gia các dự án mới, chia sẻ rủi ro… cũng  
là việc có thể làm, tùy thuộc vào “khẩu vị rủi ro” của  
doanh nghiệp.  
Nhiều  
Chuyển đổi sang  
một loại hình  
kinh doanh mới  
Chuyển dịch  
mô hình  
kinh doanh  
3.5. Xác định các điều kiện kích hoạt (Set trigger  
points)  
Như vậy, kết quả của bước trên là danh sách các  
dự án, chương trình hành động, từ loại “cần phải  
làm, cho đến những loại có độ rủi ro từ thấp đến  
cao. Những việc làm rủi ro, chỉ nên kích hoạt trong  
những điều kiện nhất định. Nhiều doanh nghiệp, chỉ  
khi xuất hiện những tình huống, điều kiện nhất định,  
mới bàn luận đến phương án có thực hiện hay không  
thực hiện. Trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh như  
hiện nay, việc chậm ra quyết định cũng là một hạn  
chế không đáng có.  
Phục hồi  
và tiếp tục  
sản xuất  
Tái cơ cấu lại  
doanh nghiệp  
kinh doanh  
Ít  
Ít  
Nhiều  
Mức độ và khoảng thời gian nhu cầu dầu mỏ giảm  
Hình 2. Minh họa các định hướng chiến lược lớn [7]  
tục triển khai. Một ví dụ cụ thể cho trường hợp này là có phát  
triển một mỏ mới hay không, khi mỏ là cận biên với dự báo giá  
dầu trong thời gian tới. Trong khi đó, chương trình thăm dò,  
thẩm lượng đang được tiến hành ở lô bên cạnh. Nếu giá dầu  
biến động theo chiều hướng tốt lên, hoặc mỏ ở lô bên cạnh có  
trữ lượng tốt cho phép 2 mỏ cùng phát triển trên cơ sở dùng  
chung hạ tầng. Đây có thể là tín hiệu để ra quyết định.  
Trong bước này, điều quan trọng là xác định một  
loạt những sự việc, điều kiện đủ để quyết định triển  
khai một dự án, chương trình hành động cụ thể ngay  
lập tức. Như phân tích ở trên, đóng mỏ, hay tạm dừng,  
giảm sản lượng khai thác sẽ phụ thuộc nhiều vào giá  
dầu trên thị trường; quyết định phát triển mỏ sẽ phụ  
thuộc vào giá dầu hay/và tình hình thẩm lượng của  
lô bên cạnh. Các phương án xử lý ngắn hạn sẽ phụ  
thuộc nhiều vào tình hình diễn biến của dịch bệnh,  
các biện pháp giãn cách, cách ly của chính phủ và  
nguy cơ dịch bệnh tại chính doanh nghiệp.  
Một nhóm dự án, chương trình hành động mang tính  
chuẩn bị nắm bắt cơ hội. Tất nhiên là cũng cần chi phí để tạo ra  
cơ hội, nhưng trong điều kiện không chắc chắn thì cũng đáng  
để đầu tư cho những việc này. Chương trình nghiên cứu, đánh  
giá, sàng lọc các cấu tạo triển vọng (prospects inventory) nhằm  
chuẩn bị cho các dự án đầu tư trong tương lai, hay nghiên cứu,  
đánh giá trước các cơ hội farm-in, farm-out là việc có thể làm,  
trong điều kiện nguồn lực con người, kỹ thuật cho phép.  
Kế hoạch xử lý khủng hoảng chiến lược cần xây  
dựng rất nhanh, trong 1 ngày phải ra được phiên bản  
đầu tiên. Tiếp theo các bước trên được rà soát lại, cập  
nhật thường xuyên và ngay lập tức khi có thông tin,  
tình huống, hay sự kiện mới có tầm ảnh hưởng nhất  
định xuất hiện. Với những cuộc khủng hoảng có nhiều  
bất định như COVID-19, có thể ngày mai, tuần sau,  
sẽ xuất hiện sự việc làm thay đổi toàn bộ môi trường  
kinh doanh, toàn bộ tương lai ngành công nghiệp  
đang hoạt động. Rất nhiều kế hoạch tuyệt vời, nhưng  
trở nên lạc hậu nhanh chóng khi tình hình thay đổi.  
Không cần hoàn hảo về mọi khía cạnh, nhưng cần  
nhanh. Đây là tinh thần cơ bản của cách tiếp cận xử lý  
khủng hoảng chiến lược này.  
Cuối cùng, có một nhóm việc giúp doanh nghiệp tránh  
được hoặc giảm thiểu rủi ro. Tùy theo mức độ rủi ro, khả năng  
chịu đựng của doanh nghiệp và chi phí đầu tư, đây cũng là  
phương án cần được xem xét. Do tính hội nhập toàn cầu cao,  
chuỗi cung ứng cho doanh nghiệp dầu khí rất dễ bị gián đoạn  
trong bối cảnh COVID-19. Vì vậy, việc rà soát lại các mắt xích  
của chuỗi cung ứng và đề ra các giải pháp khắc phục điểm yếu  
là rất cần thiết. Doanh nghiệp có thể tham khảo phương pháp  
của Wood Mackenzie [9], theo đó việc rà soát gồm 3 bước: lập  
bản đồ chuỗi cung ứng, xác định các rủi ro trong từng mắt xích,  
dự báo những điểm dễ bị tổn thương trong doanh nghiệp do  
những rủi ro nêu trên. Trên cơ sở đó doanh nghiệp có thể xây  
dựng những giải pháp hạn chế sự tổn thương dựa trên 4 chiến  
lược cơ bản: (i) mở rộng mạng lưới để tăng khả năng lựa chọn;  
(ii) nâng cao khả năng kiểm soát toàn chuỗi (ví dụ như đến cả  
các nhà thầu phụ cấp 2, 3); (iii) nâng cao tính linh hoạt, khả  
năng thích nghi của doanh nghiệp đối với thay đổi cung ứng;  
và (iv) nâng cao tốc độ cung ứng. Mua bảo hiểm, mời thêm  
4. Kết luận và khuyến nghị  
Bài viết giới thiệu khung xử lý khủng hoảng  
chiến lược lấy ví dụ cho trường hợp một doanh  
nghiệp thăm dò, khai thác dầu khí, song nguyên lý  
và cách thức cũng đúng đối với các loại hình doanh  
nghiệp khác. Doanh nghiệp dầu khí có thể xem xét  
DẦU KHÍ - SỐ 4/2020  
54  
PETROVIETNAM  
áp dụng cho trường hợp của mình, có tính toán đến đặc  
thù lĩnh vực. Ví dụ, doanh nghiệp vận chuyển, chế biến  
dầu khí có thể xem xét thêm tích hợp hóa dầu, chế biến  
khí sâu; doanh nghiệp kinh doanh, dịch vụ tổng hợp nên  
lưu ý đến xu thế thanh toán không tiếp xúc, thương mại  
điện tử; doanh nghiệp dịch vụ kỹ thuật công nghệ cao có  
thể nghiên cứu mở rộng cung cấp dịch vụ cho các lĩnh  
vực kinh tế biển khác, ngoài dầu khí. Và dù bất kỳ doanh  
nghiệp nào, chuyển đổi số cần được đẩy mạnh hơn nữa.  
Cuộc khủng hoảng COVID-19 cho thấy đây là đòi hỏi thực  
tế, yêu cầu tiên quyết cho sự sống còn và phát triển bền  
vững của doanh nghiệp trong thời kỳ hậu khủng hoảng.  
Mô hình quản trị doanh nghiệp cũng cần đổi mới theo  
hướng tinh, gọn, thay đổi và thích nghi nhanh với hoàn  
cảnh, với phản hồi của khách hàng.  
laner, Mihir Mysore, Yuval Atsmon and Nicholas Northcot,  
"Getting ahead of the next stage of the coronavirus crisis",  
McKinsey & Company, 4/2020.  
[2]. Deloitte, “COVID-19 checklist: Practical steps for  
immediate, midterm, and long-term, 4/2020.  
[3]. BCG, “Navigating through COVID-19 and oil sup-  
ply-demand shock, Presentation to PVN and VPI, 4/2020.  
[4]. Accenture, “Continuity in crisis: How to run effec-  
tive business services during COVID-19, 4/2020.  
[5]. IHS, “Webinar: Navigating short-term risks and  
planning for long-term value creation in E&P, 4/2020.  
[6]. Kevin Sneader and Shubham Singhal, “The future  
is not what it used to be: Thoughts on the shape of the  
next normal, McKinsey & Company, 4/2020.  
Các doanh nghiệp cần kiến nghị Chính phủ và các cấp  
quản lý nhà nước về việc hoàn thiện thể chế, tạo hành  
lang pháp lý phù hợp để doanh nghiệp có thể phản ứng  
nhanh với các biến đổi của thị trường thế giới. Yêu cầu  
này thực tiễn trước đây đã đặt ra, bây giờ trong bối cảnh  
COVID-19 lại càng cần có sự vào cuộc tích cực của cơ quan  
quản lý nhà nước.  
[7]. Hugh Courtney, Jane Kirkland and Patrick Vigue-  
rie, “Strategy under uncertainty, Harvard Business Review,  
pp. 11 - 12, 1997.  
[8]. Rystad Energy, “Covid-19 report, 6th edition:  
Global outbreak overview and its impact on the energy  
sector, 4/2020.  
Tài liệu tham khảo  
[9]. Wood Mackenzie, “Exposing and managing risks  
in oil and gas supply chain, 4/2020.  
[1]. Martin Hirt, Sven Smit, Chris Bradley, Robert Uh-  
STRATEGIC CRISIS MANAGEMENT DURING COVID-19:  
SOME RECOMMENDATIONS FOR OIL AND GAS ENTERPRISES  
Nguyen Hong Minh  
Vietnam Petroleum Institute  
Email: nguyenhongminh@vpi.pvn.vn  
Summary  
Oil and gas companies around the world are suffering double impacts during the COVID-19 pandemic. Firstly, social distancing and  
lockdown measures imposed in many countries have led to difficulties in movement, frozen supply of high-quality human resources,  
closure or reduced scale of certain number of production facilities, interruption of important services, and unpredictable prices, affecting  
the continuity of production and business activities. Secondly, as oil demand goes down due to plummeting travel demand and lessened  
economic activities, oil prices have seen an unprecedented low in the history, resulting in serious consequences, e.g. shrunken revenue,  
excessive inventories, and instability or shortage of cash flow, causing difficulties for businesses in various sectors such as E&P, oil and gas  
production and processing, oil and gas technical services.  
In this paper, the author introduces the strategic crisis management approach proposed by Martin Hirt (McKinsey), with some  
recommendations for oil and gas companies from BCG and IHS consultants and the author himself in the context of this unprecedented crisis.  
Key words: COVID-19, strategic crisis management, corporate governance, oil and gas.  
DẦU KHÍ - SỐ 4/2020  
55  
pdf 6 trang yennguyen 16/04/2022 2600
Bạn đang xem tài liệu "Xử lý chiến lược khủng hoảng Covid-19: Một vài khuyến nghị cho doanh nghiệp dầu khí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfxu_ly_chien_luoc_khung_hoang_covid_19_mot_vai_khuyen_nghi_ch.pdf