Chiến lược các công ty dầu khí - Thách thức trước biến động và khủng hoảng

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 7 - 2020, trang 6 - 13  
ISSN 2615-9902  
CHIẾN LƯỢC CÁC CÔNG TY DẦU KHÍ - THÁCH THỨC TRƯỚC BIẾN ĐỘNG  
VÀ KHỦNG HOẢNG  
Phan Ngọc Trung, Lê Ngọc Anh  
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam  
Email: anhln@pvn.vn  
Tóm tắt  
Các công ty dầu khí đang đối mặt với thách thức lớn trong năm 2020 khi đại dịch COVID-19 bùng phát và giá dầu giảm mạnh. Bên  
cạnh đó là những thay đổi đã diễn ra trong nhiều năm qua trên các lĩnh vực năng lượng tái tạo, biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, và  
tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 lên ngành năng lượng. Những xu thế mới này đòi hỏi các công ty dầu khí cần rà soát mô hình  
kinh doanh và điều chỉnh chiến lược phát triển để kịp thời thích ứng với biến động và khủng hoảng.  
Từ khóa: Chiến lược, chuyển dịch năng lượng, biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo, cách mạng công nghiệp 4.0.  
1. Giới thiệu  
Bệnh viêm đường hô hấp cấp ở Trung Quốc đã trở  
về giá và thị phần, tuy kỳ vọng kéo giá dầu lên khỏi mức  
thấp nhất trong 20 năm qua chưa đạt được. Tác động kép  
từ đại dịch COVID-19 và giá dầu giảm sâu khiến các doanh  
nghiệp dầu khí trên thế giới “chao đảo. Giá cổ phiếu của  
các công ty dầu quốc tế (IOC) lớn như BP, ExxonMobil,  
Chevron đều mất tới 50% trong 3 tháng đầu năm 2020.  
Các doanh nghiệp E&P như Occidental Petroleum (Mỹ)  
hay Premier Oil (Anh) có thời điểm đã mất tới 80% giá  
trị vốn hóa trên thị trường chứng khoán. Trong bối cảnh  
khủng hoảng, biến động mạnh như hiện nay, các doanh  
nghiệp cần điều chỉnh chiến lược như thế nào? Xu thế  
chuyển dịch năng lượng, bảo vệ môi trường vẫn tiếp tục  
hay sẽ có sự điều chỉnh? Những sự kiện đầu năm 2020 có  
thể mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm?  
thành đại dịch toàn cầu trong đầu năm 2020 và là cú sốc  
chưa có tiền lệ đối với nền kinh tế toàn cầu. Các quốc gia  
phát triển (như Italy, Pháp, Mỹ…) đều lúng túng trong đối  
phó và dự đoán. Cuộc khủng hoảng về y tế nhanh chóng  
trở thành khủng hoảng về kinh tế và dự kiến sẽ là khủng  
hoảng xã hội - chính trị. Trong gần 1 tháng, thế giới dường  
như mất đi nhịp sống quen thuộc do thực hiện giãn cách  
xã hội, sân bay trở thành nơi đậu máy bay, các cửa khẩu  
hải quan gần như đình trệ. Nhu cầu năng lượng, đặc biệt  
dầu thô và xăng dầu sụt giảm mạnh chưa từng có: ước  
tính tiêu thụ dầu thô thế giới giảm hơn 30 triệu thùng/  
ngày trong tháng 3/2020 (so với tổng nhu cầu khoảng  
100 triệu thùng/ngày năm 2019). Trong đó, nhu cầu có thể  
giảm tới 70% tại Trung Quốc và Ấn Độ trong tháng 4/2020  
do các quy định hạn chế di chuyển vì dịch bệnh [1].  
2. Chiến lược trong quản trị và kinh doanh  
2.1. Chiến lược  
Chiến lược được ví như không chỉ xem cây mà phải  
thấy cả rừng, không dừng ở ngắn hạn hay ngẫu nhiên mà  
phải có tầm nhìn dài hạn và căn bản. Chiến lược là một  
khái niệm được sử dụng từ lâu trong lĩnh vực quân sự,  
chính trị, với các tên tuổi và học thuyết khác nhau từ Tôn  
Tử cho tới Machiavelli, trong chiến tranh du kích cho tới  
chiến tranh lạnh và cuộc chạy đua vũ trang/hạt nhân giữa  
các cường quốc trên thế giới [3]. Câu chuyện và bối cảnh  
thì nhiều, nhưng dường như các nhà chiến lược lớn đều có  
được tầm nhìn, tìm được giá trị hoặc có được cái “gốc” để  
từ đó xây dựng và quy tụ lực lượng, triển khai thực hiện và  
ứng dụng linh hoạt.  
Thêm vào đó, việc Saudi Arabia tuyên bố rút khỏi liên  
minh OPEC+ đã khiến giá dầu giảm 30% chỉ trong 1 ngày  
và tiếp tục giảm xuống tới ngưỡng 20 USD/thùng [2].  
Nhận thấy hệ quả rõ rệt của việc “đổ dầu vào lửa” trong  
bối cảnh khủng hoảng kinh tế và dưới tác động của Mỹ,  
Saudi Arabia đã đồng ý đàm phán với Liên bang Nga và  
các nước G20 để cắt giảm sản lượng 9,7 triệu thùng/ngày  
và giảm dần tới tháng 4/2022, tạm chấm dứt cuộc chiến  
Ngày nhận bài: 5/3/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 5 - 26/3/2020.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 23/6/2020.  
DẦU KHÍ - SỐ 7/2020  
6
PETROVIETNAM  
Trong “Binh pháp Tôn Tử, chương đầu tiên nói về Kế  
sách; điều đầu tiên Tôn Tử đặt ra là Đạo, trước khi bàn đến  
các khía cạnh Thiên, Địa, Tướng hay Pháp, để tính được  
thắng bại trong chiến tranh. Cái “gốc” hay nguyên tắc lớn  
nhất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “chỉ được đánh  
thắng, không chắc thắng thì không đánh” có lẽ cũng là lý  
do Đại tướng Võ Nguyên Giáp không đánh nhanh thắng  
nhanh như kế hoạch mà cho lùi quân, chuyển sang đánh  
chắc tiến chắc, từ đó giành thắng lợi lớn trong Chiến dịch  
Điện Biên Phủ. Quan điểm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của  
Chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh tư tưởng thiên tài của một  
nhà chiến lược: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc,  
nhưng sách lược của ta thì linh hoạt[4].  
hình của Michael Porter thể hiện ở tầm nhìn bao quát  
toàn bộ ngành/lĩnh vực kinh doanh của đơn vị sản xuất  
(Business Strategy) để có định vị chiến lược trong chuỗi  
giá trị, cũng như có định hướng tổng thể nhiều lĩnh vực  
khác nhau để hình thành chiến lược chung của toàn  
công ty/tập đoàn (Corporate Strategy). Chiến lược tập  
trung vào tính đặc thù/riêng biệt (Uniqueness) về giá trị  
mà hàng hóa/dịch vụ của doanh nghiệp mang lại, hơn là  
cạnh tranh truyền thống về giá, thị phần. Cách làm này  
giúp cho doanh nghiệp có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu  
đặc thù, đa dạng của nhóm khách hàng, từ đó đưa ra mức  
giá tốt, tăng lợi nhuận, cạnh tranh bằng đổi mới/sáng tạo,  
khuyến khích phát triển cả chiều rộng và chiều sâu của  
thị trường. Theo Michael Porter và nhiều nhà quản lý khác  
[6], chiến lược là phải chọn lựa việc cần làm cũng như việc  
không được làm để đảm bảo nguồn lực doanh nghiệp  
được sử dụng hiệu quả.  
Khái niệm chiến lược bắt đầu được ứng dụng nhiều  
trong quản trị và kinh doanh từ những năm 1970, khi vấn  
đề cạnh tranh trong thương trường trở nên khắc nghiệt  
hơn và các công ty đạt tới quy mô lớn, yêu cầu về quản trị  
cao. Mô hình được nhắc tới nhiều và sớm nhất làNăm lực  
cạnh tranh” (Five Forces) của Michael Porter mà sau này  
được hoàn thiện, phát triển thành các nguyên tắc về “Lợi  
thế cạnh tranh” (Competitive Advantage), “Định vị chiến  
lược” (Strategic Positioning), hay “Chuỗi giá trị” (Value  
Chain) [5]. Mô hình “Năm lực cạnh tranh” của Michael  
Porter cho thấy bức tranh toàn diện về kinh doanh với  
cạnh tranh không chỉ giới hạn ở các đối thủ cạnh tranh  
trực tiếp, mà còn chịu tác động của đối thủ tiềm năng,  
hàng hóa dịch vụ thay thế, hay từ chính các nhà cung cấp,  
khách hàng trong chuỗi giá trị. Tính chiến lược trong mô  
Các lý thuyết về chiến lược kinh doanh tiếp tục được  
ứng dụng nhiều như: Năng lực cốt lõi (Core Competency)  
của Prahalad và Hamel tập trung vào phát triển doanh  
nghiệp hình cây với các sản phẩm cốt lõi, ngành nghề  
cốt lõi để đưa sản phẩm đa dạng tới cho khách hàng, thị  
trường; Chiến lược Đại dương xanh (Blue Ocean) của Kim  
và Mauborgne [7] cho rằng chiến lược tối ưu nhất là loại  
bỏ cạnh tranh, chủ động tạo ra thị trường mới không giới  
hạn, đồng thời đạt được cả mục tiêu giảm chi phí và khác  
biệt hóa sản phẩm.  
Hàng hóa/dịch vụ thay thế  
Cạnh tranh trực tiếp  
từ các đối thủ  
Sức ép từ nhà cung cấp  
Sức ép từ khách hàng  
Đối thủ mới ra nhập  
thị trường  
Hình 1. Mô hình “Năm lực cạnh tranh” của Michael Porter. Nguồn: Havard Business School - Institute for Strategy & Competitiveness  
DẦU KHÍ - SỐ 7/2020  
7
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG  
cụ quan trọng nhất để đưa ra và triển khai  
thành công chiến lược bên cạnh việc nắm  
bắt được các xu thế lớn đang thay đổi [9].  
Cao  
Eric Schmidt của Google cho rằng các  
kế hoạch ít khi đúng và các quỹ đầu tư chủ  
yếu rót tiền vào các start-up vì con người,  
hơn là vì kế hoạch kinh doanh; có thể cách  
tiếp cận này đã giúp Google thành công  
trong việc nắm bắt được xu thế công nghệ  
và chọn sản phẩm cốt lõi là nền tảng tìm  
kiếm [10]. Satya Nadella của Microsoft  
cũng cho rằng xác định rõ giá trị mà  
doanh nghiệp theo đuổi, thống nhất cao  
trong ban lãnh đạo và truyền đạt rõ ràng  
tới từng nhân viên, cũng như xây dựng  
văn hóa doanh nghiệp phù hợp là yếu tố  
chính dẫn tới thành công của Microsoft  
trong giai đoạn mới, khi máy tính không  
còn là sản phẩm chủ đạo và Microsoft sẽ  
tập trung vào các xu thế như: thực tế ảo  
(Mixed Reality), trí tuệ nhân tạo (Artificial  
Intelligence - AI) và điện toán lượng tử  
(Quantum Computing) [11].  
Chuyển đổi mô hình Đại dương xanh  
Giá trị  
cho  
khách  
hàng  
Khác biệt hóa sản phẩm  
Cạnh tranh sản phẩm giá rẻ  
Thấp  
Cao  
Chi phí tương đối  
Thấp  
2.2. Chiến lược thành công 90% ở quá trình triển khai  
Lý thuyết về chiến lược có nhiều, tuy nhiên bài học thành công, số  
lượng các doanh nghiệp/tập đoàn có chiến lược phát triển bền vững  
trong thời gian dài thì không nhiều. Nguyên nhân là do xây dựng chiến  
lược chỉ đóng góp 10% vào thành công, còn 90% thành công đến từ quá  
trình thực hiện chiến lược. Làm sao để cụ thể hóa được chiến lược trong  
kế hoạch dài hạn (cũng như trung hạn, ngắn hạn), phân bổ nguồn lực,  
sản xuất, cung cấp hàng hóa/dịch vụ nhất quán nhưng linh hoạt, nhất là  
với các doanh nghiệp/tập đoàn có bộ máy lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh  
vực/địa bàn.  
Những thay đổi gần đây cũng như  
nhiều bài học kinh nghiệm về xây dựng,  
triển khai thực hiện chiến lược trong quá  
khứ cho thấy tầm quan trọng của người  
đứng đầu trong xác định, truyền tải giá trị,  
tầm nhìn và mục tiêu dài hạn của doanh  
nghiệp cho toàn thể nhân viên cũng như  
các đối tác, cổ đông bên ngoài. Đây chính  
là cái “gốc” - các giá trị và mục tiêu xa nhất  
để có thể vượt trên những biến động thị  
trường, thậm chí trên cả thay đổi về nhân  
sự, vượt xa nhiệm kỳ - để có thể “Dĩ bất  
biến. Mặt khác, chiến lược cần linh hoạt để  
có thể rà soát, điều chỉnh, đáp ứng với môi  
trường kinh doanh thay đổi, đặc biệt các  
thay đổi mang tính cấu trúc - để khi cần sẽ  
“Ứng vạn biến.  
Thời gian gần đây, sự thay đổi về cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu  
(tăng trưởng chính nằm ở châu Á, sự biến đổi về chất của thương mại và  
toàn cầu hóa), sự bứt phá của nền kinh tế số/cách mạng công nghiệp lần  
thứ 4 (4.0) và cả đại dịch COVID-19 đã làm cho nhiều giả định, căn cứ của  
lý thuyết về chiến lược trước đây không còn phù hợp. Ngay cả trong lĩnh  
vực quân sự thì cách hiểu, cách triển khai “vạn sự biến” cũng đã khác khi  
cuộc chiến không chỉ trên thực địa mà bao gồm cả không gian mạng với  
tin tặc, tin giả, định hướng dư luận,… như với Liên bang Nga, Ukraine, Mỹ  
trong thời gian qua.  
Do vậy trong kinh doanh, cách tiếp cận về chiến lược cũng đã thay  
đổi nhất định. Các công ty tư vấn có uy tín đều cho rằng chiến lược đã  
chuyển từ kỳ vọng sang thích nghi (anticipation to adaptation) và triển  
khai đã chuyển từ một chiều trên xuống (push/top-down) sang cách  
tiếp cận hài hòa và kết hợp lắng nghe, theo dõi phản hồi từ hệ thống  
bên dưới, khách hàng, đối tác (pull/bottom-up) [8]. Nhiều doanh nghiệp  
trong thời gian qua, đã chú trọng yếu tố con người và xây dựng doanh  
nghiệp, bộ máy hoạt động và văn hóa (corporate culture) như là công  
3. Chiến lược mới của các công ty dầu khí  
3.1. Khó khăn trong giai đoạn mới  
Các công ty dầu khí có tiềm lực tài  
chính và quy mô lớn, đòi hỏi tầm nhìn và  
hoạch định dài hạn cho các dự án quy mô,  
vòng đời lớn, mang tính chuỗi cao về giá  
trị/công nghệ. Ngành dầu khí cũng đặc  
DẦU KHÍ - SỐ 7/2020  
8
PETROVIETNAM  
thù với số lượng công ty/tập đoàn đa quốc gia lớn (IOC)  
không nhiều, có thời điểm mang tính độc quyền ở một  
số thị trường như: Standard Oil ở Mỹ vào đầu thế kỷ XX,  
hay liên minh 7 công ty dầu khí (Seven Sisters) vào trước  
những năm 1970. Quy mô, tiềm lực, đặc biệt kể từ sau  
những năm 1970 khi các công ty dầu khí quốc gia (NOC)  
xuất hiện, càng làm cho lĩnh vực dầu khí trở thành lĩnh vực  
đặc thù, với tầm nhìn chiến lược vừa cần thiết về góc độ  
kinh tế, vừa bắt buộc về mặt chính trị. Trong hơn 10 năm  
qua, các công ty dầu khí thế giới đã chứng kiến sự thay  
đổi lớn trên thị trường năng lượng khiến cho chiến lược,  
mô hình kinh doanh cũ có thể không còn phù hợp [12]. Sự  
cạnh tranh về thị phần trong nội bộ khối OPEC hay OPEC+  
mặc dù không mới, nhưng cũng không như trước đây khi  
các công ty dầu khí đá phiến tại Mỹ xuất hiện. Khi người  
tiêu dùng, chính phủ và thậm chí xã hội không thụ động  
sử dụng các sản phẩm dầu mỏ có nguồn gốc hóa thạch  
mà đòi hỏi phải gắn với trách nhiệm bảo vệ môi trường.  
Dầu khí chịu sức ép lớn của sản phẩm thay thế là điện,  
nhưng được tạo ra từ các nguồn gốc tái tạo như: mặt trời,  
gió. Các yếu tố mới trên toàn bộ chuỗi giá trị khiến các  
công ty dầu khí cần hoạch định lại chiến lược phát triển và  
có sự điều chỉnh cho một thời kỳ mới.  
sẵn sàng bán phá giá để chiếm lại thị phần từ Mỹ cũng  
như Nga. Khủng hoảng giá dầu đã trở nên trầm trọng hơn  
khi nhu cầu dầu thô và sản phẩm xăng dầu của thế giới  
giảm mạnh trong đại dịch COVID-19. Kết quả là giá dầu  
đã xuống mức thấp nhất trong 20 năm qua, cá biệt có  
thời điểm giá dầu WTI tại Mỹ lần đầu tiên đã xuống mức  
âm (- 40 USD/thùng) do hoạt động đầu cơ trên thị trường  
hàng hóa tương lai (futures) cũng như hạn chế về kho  
dự trữ khi cung - cầu mất cân bằng nghiêm trọng [14].  
Giá dầu đã hồi phục nhưng vẫn còn ở mức thấp như hiện  
nay (khoảng dưới 30 USD/thùng trong đầu tháng 5/2020)  
khiến các công ty dầu khí không có lãi nên việc sản lượng  
bị cắt giảm chỉ là vấn đề thời gian. Vấn đề là liệu cung có  
giảm đủ nhiều để tương ứng với mức giảm cầu hiện nay  
và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch COVID-19  
cũng như các thay đổi dài hạn khác về cấu trúc.  
3.3. Biến đổi khí hậu và năng lượng tái tạo  
Biến đổi khí hậu trở thành tâm điểm của ngành năng  
lượng và dầu khí toàn cầu. Nhiệt độ tại nhiều nơi trên thế  
giới được ghi nhận tăng cao kỷ lục trong những năm qua  
và tháng 1/2020 tiếp tục là tháng 1 nóng nhất trong lịch  
sử trên cả bề mặt trái đất và đại dương (trước khi đại dịch  
COVID-19 khiến phát thải khí nhà kính giảm mạnh) [15].  
Những thảm họa như: cháy rừng diện rộng ở Australia  
năm 2019; sóng nhiệt (heatwave) ở Nam Cực với nhiệt độ  
tháng 3/2020 lên tới 18,3 oC [16] cũng như hạn mặn chưa  
từng có ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam… khiến  
cho thế giới không thể đứng nhìn. Sức ép đối với các công  
ty dầu khí không chỉ đến từ những nhà hoạt động vì môi  
trường mà từ chính thị trường tài chính: số lượng tổ chức  
đầu tư (Institutional investors) cam kết cắt giảm đầu tư  
vào năng lượng hóa thạch đã tăng từ 180 năm 2014 lên  
1.000 năm 2019 (tổng giá trị quản lý lên tới 11 nghìn tỷ  
USD), khiến ngay cả Royal Dutch Shell hay BP cũng phải  
thừa nhận sức ép không nhỏ [17].  
3.2. Giá dầu lên và xuống, và xuống…  
Trước đây, chiến lược của các công ty dầu khí được  
dựa trên tính thay đổi theo chu kỳ (lên xuống) của giá  
dầu: khi giá dầu lên là cơ hội để tăng tiền mặt đồng thời  
đầu tư mở rộng; giá dầu xuống sẽ cắt giảm chi phí, dừng/  
giãn đầu tư và chờ hiệu ứng nguồn cung hạn chế hoặc  
nhu cầu gia tăng để kéo giá lên. Chu kỳ lên xuống của giá  
dầu còn được kỳ vọng sẽ được kiểm soát nhờ can thiệp  
của OPEC hay gần đây là OPEC+ (Nga và 9 quốc gia khác)  
do các nước xuất khẩu dầu mỏ này đều cần giá dầu cao  
để đáp ứng ngân sách quốc gia khá lớn. Tuy nhiên, giả  
định về tính chu kỳ của giá dầu đang trở nên ngày càng  
mong manh. Giá dầu đã giảm mạnh trong giai đoạn 2014  
- 2016 (từ hơn 110 USD/thùng xuống thấp nhất 29 USD/  
thùng) cũng do OPEC đã không thể thống nhất được việc  
cắt giảm sản lượng. Hơn thế nữa, ngành công nghiệp dầu  
khí đá phiến tại Mỹ (với hàng nghìn doanh nghiệp đa số  
có quy mô nhỏ), sẵn sàng tham gia/rút khỏi thị trường  
nhanh chóng (thực tế đã có hơn 200 công ty tuyên bố phá  
sản sau khủng hoảng 2014 - 2016 [13]). Do đó, dầu thô  
không còn là “cuộc chơi” của các “ông lớn, đồng thời giá  
dầu khó tăng mạnh trở lại (giá dầu trung bình không vượt  
quá 60 USD/thùng trong giai đoạn 2016 - 2019). Lần giảm  
giá năm 2020 cũng bắt đầu từ việc OPEC+ không thống  
nhất được việc cắt giảm sản lượng chung khi Saudi Arabia  
Cùng với đó, sự tăng trưởng nhanh chóng và ấn tượng  
của năng lượng thay thế và tái tạo, càng khiến các sản  
phẩm dầu khí chịu thêm áp lực, ngay cả trên lĩnh vực được  
coi làsân nhànhư giao thông vận tải. Quy định chặt hơn  
của Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) về vận tải đường biển  
mới chỉ là tác động bước đầu lên dầu FO, trong khi sự tăng  
trưởng của thị trường xe điện (các hãng ô tô lớn trên thế  
giới đều đang chạy đua phát triển sản phẩm mới) dẫn tới  
điều không tránh khỏi là nhu cầu xăng và dầu diesel sẽ bị  
tác động mạnh trong tương lai. Trong lĩnh vực điện, các dự  
án năng lượng tái tạo mới lắp đặt liên tục vượt dự án điện  
từ than và khí, với sản lượng chiếm tới 26% tổng sản lượng  
DẦU KHÍ - SỐ 7/2020  
9
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG  
điện thế giới năm 2018 [18]. Tại Anh năm 2019, sản lượng  
điện từ các nguồn năng lượng tái tạo đã lần đầu tiên vượt  
trên sản lượng từ nguồn hóa thạch [19]. Những thay đổi  
mang tính cấu trúc, đột phá như trên mang lại thách thức  
không nhỏ cho các công ty dầu khí về sản phẩm, khách  
hàng, về cạnh tranh và phát triển. Tài sản dầu khí dưới  
dạng tài nguyên, trữ lượng cho tương lai đang đối mặt với  
rủi ro không thể tiền tệ hóa (monetisation). Đây sẽ là rủi  
ro rất lớn không chỉ cho ngành dầu khí mà cả lĩnh vực tài  
chính và nền kinh tế toàn cầu [20]. Trước thách thức lớn  
như vậy, việc điều chỉnh chiến lược là cần thiết hơn bao  
giờ hết.  
xã hội về môi trường. Chiến lược trong xu thế chuyển dịch  
năng lượng được thể hiện ở 3 bước sau:  
- Giảm hàm lượng carbon (Decarbonisation)  
Với cơ cấu và tốc độ tăng trưởng dân số cùng với các  
kịch bản về phát triển kinh tế, nhu cầu năng lượng của  
thế giới chỉ có thể giảm chậm lại (nhờ các giải pháp công  
nghệ tiết kiệm) so với giai đoạn trước. Ngay cả với kịch  
bản tham vọng nhất về giảm lượng khí thải nhà kính, thì  
nhiên liệu hóa thạch (như than, dầu, khí) vẫn còn chiếm  
tỷ trọng lớn (ít nhất khoảng 50%) trong tổng cung năng  
lượng vào năm 2050 [21, 22]. Như vậy, giải pháp trước tiên  
để thực hiện chuyển dịch năng lượng chính là giảm tối đa  
hàm lượng carbon trong các sản phẩm dầu khí. Đây cũng  
là chiến lược chung, rõ nhất của đa phần các công ty dầu  
khí lớn. Khí thiên nhiên với hàm lượng carbon thấp hơn  
và hiệu suất chuyển đổi thành năng lượng cao hơn dầu,  
được coi là sản phẩm chủ đạo để thực hiện thành công  
chiến lược này, dự báo sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong rổ  
năng lượng, thậm chí còn khiến các công ty dầu xem xét  
đổi tên thành công ty khí [23]. Ngành công nghiệp khí đã  
phát triển mạnh, do vậy trong tương lai các công ty đang  
chú trọng vào việc phát triển hệ thống kho cảng LNG,  
chuẩn bị cho giai đoạn khí thiên nhiên sẽ được thương  
mại hóa và vận chuyển quốc tế, giúp đáp ứng nhu cầu sản  
xuất, đặc biệt cho phát điện trong bối cảnh hệ thống điện  
cần linh hoạt để tiếp nhận các nguồn năng lượng tái tạo  
như điện gió, điện mặt trời. Bên cạnh đó, việc tăng cường  
an toàn và hiệu quả trong sản xuất, cung ứng và sử dụng  
khí để cắt giảm lượng khí methane thải/thoát (leaking),  
hạn chế tối đa đốt bỏ khí đồng hành được đa phần các  
công ty IOC như ExxonMobil, Total, Shell coi là giải pháp  
quan trọng để giảm thiểu hàm lượng carbon của công  
nghiệp khí. BP đưa ra tầm nhìn Net Zero, dự kiến cắt giảm  
lượng khí thải carbon từ hoạt động sản xuất và các sản  
phẩm của BP về 0 trước năm 2050. Hiện BP chưa công  
bố chi tiết giải pháp, tuy nhiên các công nghệ như: CCS  
(Carbon Capture and Storage) hay CCUS (Carbon Capture  
Utilisation and Storage) đang tiếp tục được các doanh  
nghiệp thử nghiệm ở quy mô rộng hơn và sẽ giúp ngành  
dầu khí cắt giảm mạnh lượng carbon phát thải. Ví dụ việc  
Occidental Petroleum hợp tác với Net Power để triển khai  
công nghệ CCUS, tăng hệ số thu hồi dầu (EOR) cho các mỏ  
tại Mỹ, khẳng định hướng đi phù hợp, có thể cân bằng lợi  
ích kinh tế và môi trường [24].  
3.4. Hai xu thế lớn: Chuyển dịch năng lượng và cách  
mạng công nghiệp 4.0  
Chiến lược của các công ty dầu khí cho giai đoạn tới  
sẽ khá đa dạng. Một phần vì loại hình, quy mô, tiềm lực  
công ty sẽ quyết định hướng đi phù hợp: các IOC chắc  
chắn sẽ có cách tiếp cận khác các NOC; NOC của nước có  
nhiều tài nguyên cũng sẽ rất khác NOC các quốc gia ít tài  
nguyên; công ty dầu khí của Mỹ như Cheaspeake, Pioneer  
sẽ chọn giải pháp khác các công ty E&P truyền thống như  
ConocoPhillips, Hess, Tullow… Một lý do nữa khiến việc  
chiến lược đưa ra đang rất khác nhau: đơn giản vì các  
công ty đều đang tìm kiếm, lựa chọn trong bối cảnh chính  
sách, môi trường đầu tư còn chưa rõ ràng (nước Mỹ rút  
khỏi Thỏa thuận chung Paris về Biến đổi khí hậu, hay xu  
hướng đa cực hóa của thương mại, chính trị trên thế giới).  
Tuy nhiên, có 2 xu thế chiến lược lớn mà các IOC và NOC  
lớn đang tập trung nghiên cứu, triển khai - để có thể tiếp  
tục vai trò/nhiệm vụ trọng yếu lâu nay là cung cấp nguồn  
năng lượng cho nền kinh tế - xã hội với chi phí hợp lý, đảm  
bảo an ninh năng lượng, an toàn đồng thời thân thiện  
với môi trường, đó là chuyển dịch năng lượng (Energy  
Transition) và cách mạng công nghiệp 4.0.  
3.4.1. Chuyển dịch năng lượng  
Chuyển dịch năng lượng vẫn đang định hình nhưng  
sẽ là một chủ đề lớn. Tương tự như khi than rồi xăng dầu  
thay nhau trở thành nguồn năng lượng, nhiên liệu chính  
để phục vụ các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây,  
trong tương lai điện và các nguồn năng lượng sạch, tái  
tạo được dự báo sẽ chiếm vị trí lớn nhất trong rổ năng  
lượng. Tuy nhiên, chuyển dịch năng lượng lần này sẽ có  
quy mô và tác động lớn hơn rất nhiều, bao gồm thay đổi  
lớn, mang tính cách mạng trong các thiết bị sử dụng năng  
lượng từ dân dụng đến công nghiệp, nằm trong bối cảnh  
điều chỉnh phức tạp của các chính sách quốc tế và quốc  
gia, cũng như sức ép không nhỏ của người tiêu dùng và  
- Điện hóa nền kinh tế và xã hội (Electrification)  
Điện đang thâm nhập vào thị trường truyền thống  
cuối cùng của các sản phẩm dầu khí là lĩnh vực giao thông.  
DẦU KHÍ - SỐ 7/2020  
10  
PETROVIETNAM  
Nếu như chưa đến 10 năm trước chỉ có xe ô tô điện Tesla,  
thì đến nay các hãng ô tô lớn đều đã tham gia thị trường xe  
điện, cho ra đời khoảng 100 mẫu xe điện/năm và số lượng  
xe điện bán đạt khoảng 2 triệu chiếc vào năm 2018 [25].  
Các công ty dầu khí đã nhanh chóng đầu tư, thử nghiệm  
vào hệ thống dịch vụ sạc điện, để thu thập thông tin về  
tác động đối với sản phẩm xăng truyền thống, sẵn sàng  
mở rộng quy mô để tích hợp vào chuỗi giá trị ở khâu sau  
với thế mạnh sẵn có ở hệ thống cửa hàng xăng dầu hay  
cửa hàng tiện lợi, cũng như kết hợp tổng thể trong chuỗi  
giá trị thượng nguồn (khai thác khí) và hạ nguồn (nhà máy  
điện). Royal Dutch Shell liên tục mua lại các thương hiệu  
trong lĩnh vực sạc nhanh như: Ionity, Greenlot, NewMotion  
và cả công ty mua bán điện First Utility. BP đã đầu tư vào  
ChargeMaster và StoreDot, trong khi Total đã sở hữu hệ  
thống sạc Direct Energie. Chiến lược của các công ty dầu  
khí hiện nay là nhanh chóng thử nghiệm, chấp nhận thất  
bại, lựa chọn công nghệ và nền tảng phù hợp để sẵn sàng  
phát triển khi thị trường mở rộng và định hình, dự kiến  
bao gồm cả hệ thống giao thông, căn hộ thông minh  
trong thời gian tới.  
của năng lượng tái tạo: BP Lightsource đặt mục tiêu đạt  
công suất 10GW vào năm 2023. Shell đầu tư vào 2 công  
ty năng lượng mặt trời lớn ở Mỹ (Silicon Ranch) và Đông  
Nam Á (Cleantech Solar), trong khi Total tiếp tục tăng sở  
hữu tại SunPower. Ngay cả các NOC lớn ở Trung Đông như  
Saudi Aramco hay Mubadala cũng đang đầu tư mạnh vào  
năng lượng tái tạo, đặc biệt điện mặt trời. Các dạng năng  
lượng tái tạo khác như hydrogen, nhiên liệu sinh học thế  
hệ mới (advanced biofuel) cũng được các công ty dầu  
khí tăng cường nghiên cứu, triển khai: Eni hoàn thiện và  
sẵn sàng thương mại hóa công nghệ sản xuất nhiên liệu  
sinh học từ dầu ăn và sắp tới là nguyên liệu/rác thải sinh  
học (biofining) tại nhà máy ở Venice (Italy). OMV đã thử  
nghiệm công nghiệp tái chế nhựa thành nhiên liệu (dầu  
thô) tại nhà máy ở Schwechat (Austria) từ năm 2018. Nền  
kinh tế tái chế với công nghệ mới như chuyển đổi từ nhựa  
trở lại dầu (plastic pyrolysis) vừa là thách thức nhưng cũng  
là cơ hội cho các công ty dầu khí: Total, ExxonMobil đều  
nghiên cứu và đăng ký nhiều bằng sáng chế (patent) cho  
công nghệ này [22].  
3.4.2. Cách mạng công nghiệp 4.0  
- Phát triển năng lượng tái tạo (Renewable energy)  
Chuyển dịch năng lượng là xu thế lớn đã và đang  
diễn ra đối với ngành năng lượng. Nhưng cuộc cách mạng  
công nghiệp 4.0 đã có tác động mạnh mẽ, thậm chí đột  
phá tới toàn bộ nền kinh tế - xã hội và được dự báo có tiềm  
năng ứng dụng rất lớn trong ngành dầu khí/năng lượng.  
Cuộc cách mạng này đã giúp xe ô tô điện và sắp tới là giao  
thông không người lái (self-driving) thương mại hóa; giúp  
cho người tiêu dùng ở Mỹ hay châu Âu có thể dễ dàng  
thay đổi nhà cung cấp điện, gây sức ép lớn về giá và chất  
lượng dịch vụ. Dầu khí vừa gặp phải sức ép về thị trường,  
cần cắt giảm chi phí và sản xuất hiệu quả hơn, đồng thời  
cần thích nghi với bối cảnh năng lượng và các dịch vụ đi  
cùng sẽ thông minh hơn, tích hợp nhiều hơn trong nền  
kinh tế số. Thực tế trong thời gian qua, các công ty dầu khí  
đã áp dụng các giải pháp số hóa (digitalisation), tuy nhiên  
giá trị mang lại sẽ lớn nhất khi triển khai đồng bộ việc số  
hóa, sử dụng, phân tích.  
Bước đi không thành công của BP vào lĩnh vực năng  
lượng tái tạo đầu những năm 2000 là bài học cho các công  
ty dầu khí. Tuy nhiên, công nghệ, chi phí và thị trường đã  
khác rất nhiều vào thời điểm hiện nay. Suất đầu tư cho  
điện mặt trời và pin giảm trung bình tới gần 14%/năm  
trong giai đoạn 2010 - 2020 (điện gió giảm khoảng 5%) và  
được dự báo sẽ tiếp tục giảm trong giai đoạn 2020 - 2040  
[26]. Nhiều dự án năng lượng tái tạo như: điện gió, điện  
mặt trời hiện nay đã có thể cạnh tranh trực tiếp với các dự  
án điện than/điện khí truyền thống (thậm chí với cả một  
số nhà máy đã hoạt động/khấu hao). Thách thức và cũng  
là bài toán chiến lược đặt ra cho các công ty dầu khí là  
dịch chuyển sang hệ thống năng lượng mới này và phát  
huy tốt nhất lợi thế cạnh tranh của các tài sản vô hình và  
hữu hình đã xây dựng trong thời gian dài vừa qua. Các  
IOC với tiềm lực tài chính lớn đang triển khai đồng loạt từ  
nghiên cứu phát triển cho tới dự án thương mại về năng  
lượng tái tạo. BP, Royal Dutch Shell đang vận hành các dự  
án điện gió ngoài khơi lớn ở Mỹ và châu Âu. Điện gió ngoài  
khơi tận dụng tốt tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản lý  
dự án, cũng như tài sản, kinh nghiệm lắp đặt, vận hành  
bảo dưỡng các công trình ngoài khơi của công ty dầu khí.  
Thậm chí Dong Energy (Đan Mạch) đã chuyển hoàn toàn  
sang đầu tư, vận hành các dự án điện gió và đổi tên thành  
Orsted [27]. Tuy thận trọng hơn, các IOC cũng rất tham  
vọng và quyết tâm thử sức với nhiều mảng khác nhau  
Trong lĩnh vực thượng nguồn, Repsol đã kết hợp với  
IBM phát triển phần mềm Excalibur, sử dụng trí tuệ nhân  
tạo (AI) để so sánh, đánh giá các mỏ tiềm năng, cho thấy  
cải thiện lớn so với các phương pháp truyền thống về tỷ lệ  
thành công và thời gian tính toán [28]. BP cũng đầu tư lớn  
choviệcshóavàquảnlýtptrunghàngnghìnmtnthế  
giới, tạo cơ sở dữ liệu lên tới 1 petabyte (1 triệu gigabyte);  
hỗ trợ việc sử dụng các phần mềm như Argus để theo dõi,  
đánh giá động thái mỏ trực tuyến, cũng như sẵn sàng ứng  
DẦU KHÍ - SỐ 7/2020  
11  
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG  
dụng AI từ các start-up mà BP liên tục đầu tư trong thời  
gian qua (Beyond Limits hay Belmont Technology) [29].  
Schlumberger, Chevron và Microsoft hợp tác đẩy mạnh  
phát triển phần mềm DELFI của Schlumberger trên nền  
tảng điện toán đám mây Microsoft Azure [30], là hướng đi  
khác so với phát triển độc lập nhưng cho thấy lĩnh vực tìm  
kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí đang chứng kiến sự thay  
đổi lớn trong ứng dụng công nghệ thông tin.  
[3] Lawrence Freedman, Strategy: A history. Oxford  
University Press, 2013.  
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập (Tập 8). Nhà xuất bản  
Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2011, tr. 555.  
[5] Michael E.Porter, On competition. Harvard  
Business Review Press, 2008.  
[6] McKinsey Quarterly, “What strategists need: A  
meeting of the minds, 2014.  
Đối với hoạt động sản xuất ở thượng nguồn (giàn khai  
thác ngoài khơi) hoặc trung và hạ nguồn (hệ thống đường  
ống, nhà máy lọc hóa dầu), việc sử dụng robot, phương  
tiện bay không người lái (drone), cảm biến... kết hợp với AI  
mang lại lợi ích lớn trong điều hành, bảo dưỡng trong khi  
có thể tiết kiệm chi phí nhân công, máy bay và tăng cường  
an ninh, an toàn [31]. Ngay cả lĩnh vực thương mại cũng  
có thể sớm thay đổi hoàn toàn với giao dịch thông qua  
chuỗi khối (blockchain) như hệ thống Vakt đang được các  
doanh nghiệp (như BP, Royal Dutch Shell, Equinor, Gunvor,  
Mercuria, ABN Amro, ING…) thử nghiệm phát triển [32].  
Cũng giống như với năng lượng tái tạo, các công ty dầu  
khí đang coi cách mạng công nghiệp 4.0 là chiến lược  
quan trọng và không thể bỏ qua, cần nhanh chóng thử  
nghiệm và sẵn sàng mở rộng quy mô khi phù hợp.  
[7] Harvard Business Review, HBR's 10 must reads on  
strategy, 2011.  
[8] James Allen, “The changing nature of strategy:  
Reflections on thirty years, Bain & Company, 2019.  
[9] Jim Collins, Good to great: Why some companies  
make the leap and others don't. Harper Business, 2001.  
[10]Eric Schmidt and Jonathan Rosenberg, “How  
Google works, Grand Central Publishing, 2017.  
[11] Satya Nadella, Greg Shaw, Jill Tracie Nichols, and  
Bill Gates, Hit Refresh: The quest to rediscover Microsoft's soul  
and imagine a better future for everyone. Harper Business,  
2017.  
[12] Paul Stevens, “International oil companies - The  
death of the old business model, Chatham House, 2016.  
4. Kết luận  
Chiến lược là vấn đề rất “nóng” đối với các công ty  
dầu khí khi bối cảnh và thậm chí “luật chơi” đã thay đổi.  
Chuyển dịch năng lượng là xu thế tự nhiên mà chính các  
công ty dầu khí đã mang tới và gặt hái thành công khi dầu  
thay thế than, hay khí thiên nhiên nổi lên như một nguồn  
năng lượng sạch hơn trong giai đoạn hiện nay. Trong xu  
thế chuyển dịch năng lượng, các công ty dầu khí cần tập  
trung rà soát, điều chỉnh chiến lược trong bối cảnh sản  
phẩm, dịch vụ về năng lượng; yêu cầu của xã hội về an  
ninh, môi trường; phương pháp quản trị, sản xuất đã và  
đang có sự chuyển biến rất lớn.  
[13] Matt Phillips and Clifford Krauss, “American  
oil drillers were hanging on by a thread. Then came the  
virus, New York Times, 20/3/2020. [Online]. Available:  
environment/coronavirus-oil-companies-debt.html.  
[14] David Sheppard, Myles McCormick, Anjli Raval,  
Derek Brower, and Hudson Lockett, “US oil price below  
zero for first time in history, Financial Times, 21/4/2020.  
[Online].  
Available:  
a5292644-958d-4065-92e8-ace55d766654.  
[15] Oliver Milman, “Earth just had hottest January  
since records began, data shows, The Guardian,  
com/environment/2020/feb/13/january-hottest-earth-  
record-climate-crisis.  
Tài liệu tham khảo  
[1] Christopher Sell, “How the pandemic wiped out  
oil demand around the world, Bloomberg, 9/4/2020.  
articles/2020-04-09/how-the-pandemic-wiped-out-oil-  
demand-around-the-world.  
[16] Graham Readfearn, “Antarctica logs hottest  
temperature on record with a reading of 18.3C, The  
theguardian.com/world/2020/feb/07/antarctica-logs-  
hottest-temperature-on-record-with-a-reading-of-183c.  
[2] David Sheppard, Anjli Raval, and Hudson Lockett,  
“Oil price crashes 30% as markets open, Financial Times,  
content/dab75720-618a-11ea-a6cd-df28cc3c6a68.  
[17] Billy Nauman, “Sharp rise in number of  
DẦU KHÍ - SỐ 7/2020  
12  
pdf 8 trang yennguyen 16/04/2022 3340
Bạn đang xem tài liệu "Chiến lược các công ty dầu khí - Thách thức trước biến động và khủng hoảng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfchien_luoc_cac_cong_ty_dau_khi_thach_thuc_truoc_bien_dong_va.pdf