Kinh nghiệm vận chuyển dầu nhiều Paraffin bằng đường ống ở các mỏ dầu khí ngoài khơi của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro”

PETROVIETNAM  
KINH NGHIM VN CHUYN DU NHIU PARAFFIN BNG ĐƯỜNG NG  
CÁC MDU KHÍ NGOÀI KHƠI CA LIÊN DOANH VIT-NGA  
“VIETSOVPETRO”  
TS. Tống Cảnh Sơn, KS. Lê Đình Hòe  
Liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro”  
Email: sontc.rd@vietsov.com.vn  
Tóm tắt  
Hiện nay, Liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” đang khai thác dầu từ các mỏ Bạch Hổ, Rồng, Gấu Trắng và Thỏ  
Trắng ở ngoài khơi Việt Nam. Dầu khai thác đều chứa hàm lượng paraffin cao, khoảng 17 - 29% khối lượng và nhiệt  
độ đông đặc cao (29 - 36oC), nhiệt độ miệng giếng của dầu thấp. Vận chuyển dầu có hàm lượng paraffin cao bằng  
đường ống ngầm (có chiều dài lớn, không được bọc cách nhiệt với môi trường bên ngoài) có nhiều vấn đề phức tạp,  
như: nhiệt độ dầu và nhiệt độ môi trường chênh lệch lớn, gây ra hiện tượng kết tinh paraffin và lắng đọng bên trong  
đường ống, làm giảm thiết diện đường ống vận chuyển, gia tăng tổn thất áp suất vận chuyển và hình hành lớp cấu  
trúc paraffin bên trong đường ống, gây tắc nghẽn và phải dừng vận hành.  
Trong bài báo này, nhóm tác giả giới thiệu tính chất phức tạp của dầu mỏ Bạch Hổ, Rồng và một số kinh nghiệm  
trong thu gom, xử lý và vận chuyển dầu nhiều paraffin bằng đường ống ngầm ngoài khơi. Việc vận hành an toàn và  
liên tục đường ống vận chuyển dầu từ mỏ Bạch Hổ sang mỏ Rồng và ngược lại đóng vai trò quan trọng trong công tác  
vận hành các mỏ dầu khí của Vietsovpetro, góp phần tích cực trong việc hoàn thành kế hoạch khai thác dầu khí hàng  
năm của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.  
Từ khóa: Lắng đọng paraffin, nhiệt độ đông đặc, độ nhớt, mỏ Bạch Hổ.  
1. Mở đầu  
Liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro” bắt đầu khai  
Trong các năm 1994 và 1998, Vietsovpetro đã lần lượt  
đưa các khu vực Trung tâm Rồng (RP-1) và Đông Nam  
Rồng (RC-2) vào khai thác. Tuyến đường ống vận chuyển  
dầu không bọc cách nhiệt dài 52km được xây dựng để vận  
chuyển dầu từ mỏ Rồng sang mỏ Bạch Hổ (từ RP-3/RC-2  
qua RP-1 và đến CTP-2 mỏ Bạch Hổ). Việc vận chuyển dầu  
gặp rất nhiều khó khăn do vấn đề lắng đọng paraffin bên  
trong đường ống. Dầu khai thác ở các mỏ của Vietsovpetro  
đều là dầu nhiều paraffin, có độ nhớt và nhiệt độ đông  
đặc cao. Theo thời gian khai thác, lưu lượng giếng và nhiệt  
độ dầu giảm dần, đặc biệt từ khi áp dụng công nghệ khai  
thác dầu bằng phương pháp cơ học gaslift, nhiệt độ sản  
phẩm của giếng càng thấp đi, gây khó khăn cho công tác  
thu gom, xử lý và vận chuyển dầu bằng đường ống. Vấn đề  
trở nên đặc biệt nghiêm trọng khi phải thực hiện việc vận  
chuyển dầu từ mỏ này sang mỏ khác ở điều kiện nhiệt độ  
dầu thấp [2, 5]. Do đó, khuynh hướng phát triển hệ thống  
thu gom, xử lý và vận chuyển dầu bằng đường ống tại các  
mỏ của Vietsovpetro cũng bắt đầu thay đổi. Các đường  
ống xây dựng mới để thu gom và vận chuyển dầu khí ở  
các công trình khai thác tại các mỏ Đông Rồng, Đông Bắc  
Rồng, Nam Rồng - Đồi Mồi, Gấu Trắng, Thỏ Trắng và kết nối  
các mỏ đã được bọc cách nhiệt với môi trường bên ngoài.  
thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam từ năm  
1986. Đến ngày 31/12/2014, tổng sản lượng dầu khai  
thác đã đạt 213 triệu tấn. Việc quy hoạch mỏ và phát  
triển hệ thống thu gom, xử lý và vận chuyển dầu ở các  
mỏ này đã phát triển qua các thời kỳ khác nhau để đảm  
bảo khả năng khai thác dầu liên tục cho Tập đoàn Dầu  
khí Quốc gia Việt Nam. Trong giai đoạn 1986 -1994, khi  
Vietsovpetro thực hiện khai thác dầu khí ở mỏ Bạch  
Hổ, toàn bộ hệ thống đường ống phục vụ thu gom,  
vận chuyển dầu khí ở nội bộ mỏ nối liền các giàn khai  
thác cố định (MSP), giàn đầu giếng (BK), giàn công nghệ  
trung tâm (CTP) và với kho nổi chứa xuất dầu (FSO) được  
xây dựng đều không bọc cách nhiệt với môi trường bên  
ngoài. Dầu khí khai thác trên các giàn khai thác được tách  
khí, sau đó vận chuyển đến các kho nổi chứa xuất dầu.  
Dầu khai thác trên các giàn đầu giếng được vận chuyển  
bằng các tuyến đường ống không bọc cách nhiệt ở dạng  
hỗn hợp dầu - khí đến các giàn công nghệ trung tâm  
(CTP) để xử lý tách khí và nước, sau đó bơm đến các kho  
nổi chứa xuất dầu.  
DU KHÍ - S2/2015  
43  
CÔNG NGH- CÔNG TRÌNH DU KHÍ  
2. Đặc trưng lý hóa và những phức tạp trong thu gom,  
xử lý và vận chuyển dầu nhiều paraffin ở các mỏ của  
Vietsovpetro  
dầu và trong các giếng khai thác, do nhiệt độ dầu giảm  
đáng kể. Hiện nay, nhiệt độ dầu khi thu gom đến các giàn  
công nghệ trung tâm và FSO để xử lý và tàng chứa chỉ từ  
35 - 43oC, thấp hơn nhiệt độ xuất hiện paraffin trong dầu  
khoảng 10 - 15oC.  
Như đã nói ở trên, dầu thô khai thác tại các mỏ của  
Vietsovpetro thuộc loại dầu có hàm lượng paraffin, độ  
nhớt và nhiệt độ đông đặc cao. Bảng 1 thể hiện các đặc  
trưng lý hóa cơ bản của dầu thô khai thác tại một số khu  
vực ở các mỏ của Vietsovpetro.  
Kinh nghiệm của các công ty khai thác dầu hàng đầu  
thế giới [1] cho thấy nếu khai thác và vận chuyển dầu  
nhiều paraffin bằng đường ống ở điều kiện nhiệt độ môi  
trường thấp hơn nhiệt độ bắt đầu kết tinh của paraffin,  
thấp hơn nhiệt độ đông đặc ở điều kiện ngoài khơi sẽ rất  
khó khăn và gặp nguy hiểm:  
Hiện nay, Vietsovpetro đang khai thác dầu tại các mỏ  
Bạch Hổ, Rồng và các khu vực lân cận kết nối khác như:  
Nam Rồng Đồi Mồi, Gấu Trắng và Thỏ Trắng. Dầu khai thác  
ở các khu vực này có hàm lượng paraffin dao động từ 18  
- 29% khối lượng và độ nhớt cao; nhiệt độ đông đặc của  
dầu khoảng 30 - 36oC, cao hơn nhiệt độ thấp nhất của  
nước biển ở vùng cận đáy (21,8oC) khoảng 9 - 15oC. Nhiệt  
độ bắt đầu kết tinh của paraffin trong dầu các mỏ này dao  
động từ 58 - 61oC. Trong khi đó, các đường ống xây dựng  
dùng để thu gom và vận chuyển dầu nối giữa các công  
trình khai thác ở mỏ Bạch Hổ không được bảo ôn nhiệt  
với môi trường bên ngoài. Theo các tính toán mô phỏng  
cho thấy, sau khi sản phẩm giếng đi vào hệ thống đường  
ống ngầm dưới đáy biển khoảng 2 - 3km, nhiệt độ của dầu  
trong đường ống đã bằng nhiệt độ của nước biển ở vùng  
cận đáy, dao động ở mức 23 - 28oC, thấp hơn nhiệt độ  
đông đặc của dầu khoảng 10oC và thấp hơn nhiệt độ bắt  
đầu xuất hiện paraffin trong dầu khoảng 35oC. Tại nhiệt  
độ này, dầu ở dạng chất lỏng phi Newton, nghĩa là trong  
mọi trường hợp sẽ tạo nên nguy cơ lắng đọng paraffin,  
gây ra hiện tượng tắc nghẽn trong hệ thống thu gom, xử  
lý và vận chuyển dầu bằng đường ống.  
- Hiện tượng lắng đọng paraffin-keo-nhựa bên  
trong ống khai thác và đường ống dẫn dầu, sẽ làm giảm  
tiết diện của ống làm tổn hao áp suất gia tăng. Kết quả là  
lưu lượng dầu khí khai thác và khả năng lưu thông chất  
lỏng của đường ống giảm dần;  
- Quá trình khai thác giếng hoặc quá trình vận  
chuyển dầu bằng đường ống có thể sẽ phải tạm dừng do  
dầu có độ nhớt quá cao khi nhiệt độ vận chuyển thấp hơn  
nhiệt độ đông đặc và lưu lượng vận chuyển thấp.  
Đối với các mỏ của Vietsovpetro, vấn đề khó khăn  
trong thu gom và vận chuyển dầu nhiều paraffin bằng  
đường ống thường hay gặp khi vận chuyển bằng đường  
ống không được bọc cách nhiệt và thậm chí cả các đường  
ống được bọc cách nhiệt với môi trường bên ngoài có  
chiều dài lớn, kết nối từ mỏ này sang mỏ khác.  
3. Hệ thống thu gom và vận chuyển dầu bằng đường  
ống ở các mỏ của Vietsovpetro  
Hiện nay, hệ thống đường ống thu gom và vận chuyển  
sản phẩm khai thác ở nội bộ các mỏ của Vietsovpetro dài  
khoảng 400km. Hệ thống đường ống này nối liền các  
công trình khai thác của các mỏ Bạch Hổ, Rồng, Nam Rồng  
Đồi Mồi, Gấu Trắng và Thỏ Trắng (Hình 1).  
Sau thời gian khai thác tự phun, các giếng tại các mỏ  
của Vietsovpetro đã chuyển sang khai thác cơ học bằng  
gaslift. Phương pháp này duy trì được sản lượng khai thác  
dầu hàng năm trên các mỏ, song lại làm trầm trọng thêm  
vấn đề lắng đọng paraffin trong đường ống vận chuyển  
Bảng 1. Đặc trưng lý hóa cơ bản của dầu thô ở các mỏ của Vietsovpetro  
Mỏ dầu  
Rồng  
847  
TT  
Các thông số  
Bạch Hổ  
831  
Gấu Trắng  
880 - 902  
1
Khối lượng giếng, kg/m3  
Nhiệt độ, oС:  
2
3
4
- Nhiệt độ bắt đầu kết tinh paraffin;  
- Nhiệt độ đông đặc.  
Hàm lượng, % khối lượng:  
- Paraffin  
58 - 61  
33,10  
59 - 60  
30,5 - 33  
59 - 60  
33 - 36  
27,1  
2,68  
18,7 - 25,0  
7,25 - 8,78  
22 - 29  
0,102 - 0,146  
- Asphaltene - keo - nhựa  
Độ nhớt, mm2/s:  
- ở 50oC  
4,66  
3,02  
70,60  
7.151  
4.611  
67,7 - 83,4  
49 - 120  
32,03 - 42,49  
14,24 - 34,45  
90 - 115  
- ở 70oC  
5
6
Nhiệt độ sôi ban đầu, oС  
Hệ số khí, m3/t  
195 - 220  
47 - 53  
DU KHÍ - S2/2015  
44  
PETROVIETNAM  
МSP-6  
МSP-7  
Cá Ngừ Vàng  
БК -CNV  
МSP-4  
МSP-3  
МSP-8  
МSP-5  
BК-15  
МSP-10  
МSP-9  
BК-3  
МSP-11  
МSP-1  
BК-7  
CTP-2  
BК-2  
BК-10  
BК-1  
BК-6  
BК-5  
UBN-4 VSP-01  
CTP-3  
BК-9  
BК-4  
Chú giải:  
RC-7  
Dầu  
Dầu bão hòa khí  
BК-14 BТ-7  
BК-8  
BK-17  
RC-3  
RC-1  
RP-2  
GTC-1  
UBN-3  
Chi Linh  
BK-16  
PLEM  
UBN-3  
RP-1  
RC-6  
RC-2  
RP-3  
RC-5  
RC-4  
RC-DM  
Hình 1. Sơ đồ thu gom, xử lý và vận chuyển hỗn hợp dầu khí, dầu đã tách khí từ một số công trình chủ yếu ở các mỏ của Vietsovpetro  
Sản phẩm khai thác tại các giàn nhẹ (BK/RC) được vận  
chuyển ở dạng hỗn hợp dầu - khí về các điểm xử lý tách  
khí và nước trên các giàn cố định và các giàn công nghệ  
trung tâm. Trong nhiều trường hợp, khoảng cách giữa các  
giàn nhẹ đến các giàn cố định hay giàn công nghệ trung  
tâm khá lớn, hoặc phải vận chuyển từ mỏ này sang mỏ  
khác như: từ mỏ Gấu Trắng, BK-14/BK-7 về CTP-3, từ Thỏ  
Trắng về MSP-6, từ mỏ Nam Rồng - Đồi Mồi hay từ Nam  
Trung tâm Rồng RC-5, RC-6 đến RP-1 với tổng chiều dài  
toàn tuyến 18 - 20km; từ Đông Bắc Rồng RC-1, RC-3 đến  
RP-2, và trước năm 2003 là từ RC-2 về RP-1 dài 19km. Trong  
khi đó, khai thác bằng phương pháp gaslift nên nhiệt độ  
của dầu khi lên đến miệng giếng rất thấp, chỉ dao động  
trong khoảng 35 - 60oC, nhiệt độ của hỗn hợp chất lỏng đi  
ra khỏi giàn, vào đường ống thu gom ở mức 45 - 55oC, và  
đến trạm xử lý trên các giàn cố định hay giàn công nghệ  
trung tâm chỉ còn nhiệt độ khoảng 28 - 35oC (Hình 1). Để  
đảm bảo khả năng vận chuyển an toàn bằng đường ống,  
dầu được xử lý bằng hóa phẩm giảm nhiệt độ đông đặc  
[3, 4]. Trong khi đó, theo kết quả nghiên cứu lưu biến ở  
phòng thí nghiệm, để xử lý bằng hóa phẩm đạt hiệu quả  
cao nhất thì nhiệt độ của dầu không được thấp hơn 65 -  
75oC. Để đạt được điều đó, Vietsovpetro đã áp dụng công  
nghệ bơm hóa phẩm giảm nhiệt độ đông đặc vào dòng  
sản phẩm của giếng ở độ sâu 2.000 - 2.500m, nơi có nhiệt  
độ không thấp hơn 65oC. Như vậy, hỗn hợp dầu và khí  
sau khi xử lý bằng hóa phẩm ở nhiệt độ cần thiết sẽ đi lên  
miệng giếng, vào hệ thống thu gom và vào đường ống  
ngầm dưới biển đến trạm xử lý sẽ có tính chất lưu biến  
được cải thiện đáng kể.  
3.1. Vận chuyển dầu bằng đường ống từ mỏ Bạch Hổ đến  
mỏ Rồng  
Sơ đồ vận chuyển dầu đã tách khí ở mỏ Bạch Hổ là  
các đường liên tục nối các giàn cố định đến các giàn công  
nghệ trung tâm CTP-2, CTP-3 và đến các kho nổi FSO ở  
DU KHÍ - S2/2015  
45  
CÔNG NGH- CÔNG TRÌNH DU KHÍ  
mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng (Hình 1). Sản phẩm khai thác trên  
các giàn cố định dưới dạng chất lỏng đã tách khí được  
vận chuyển đến các giàn công nghệ trung tâm. Trên các  
giàn công nghệ trung tâm CTP-2 và CTP-3 sẽ thực hiện xử  
lý tách khí và tách nước. Sau khi xử lý dầu với hàm lượng  
nước còn lại khoảng 0,7 - 2,3%, được vận chuyển đến các  
FSO để xử lý triệt để đến chất lượng thương phẩm. Thông  
thường, trên các mỏ của Vietsovpetro có 2 FSO hoạt động  
tại mỏ Bạch Hổ, 1 FSO hoạt động tại mỏ Rồng. Trong  
trường hợp, khi ở mỏ Bạch Hổ chỉ có 1 FSO, hoặc 1 FSO  
gặp sự cố, thì dầu từ mỏ Bạch Hổ được vận chuyển đến  
FSO ở mỏ Rồng theo đường ống ngầm dài 22km từ CTP-  
3 đến PLEM-FSO-3. Để đảm bảo vận hành liên tục và an  
toàn đường ống, hạn chế lắng đọng paraffin, dầu được  
xử lý bằng hóa phẩm giảm nhiệt độ đông đặc. Vì đã tách  
khí và nước nên việc xử lý dầu này bằng hóa phẩm giảm  
nhiệt độ đông đặc sẽ đơn giản và đạt hiệu quả cao. Ngoài  
ra, trong quá trình xử lý tách nước trên các giàn công nghệ  
trung tâm, do dầu được duy trì nhiệt độ ở mức 65oC nên  
hóa phẩm giảm nhiệt độ đông đặc được bơm vào dòng  
dầu ở vị trí sau bình tách nước sử dụng điện trường cao và  
trước máy bơm. Sau khi đã xử lý hóa phẩm, dầu được vận  
chuyển đến FSO mỏ Rồng theo tuyến ống nối từ CTP-3  
đến FSO-3 mỏ Rồng.  
14.000  
12.000  
10.000  
8.000  
6.000  
4.000  
2.000  
0
80  
70  
60  
50  
40  
30  
20  
10  
0
Nhit độ du trên CTP-3  
Lưu lượng du  
Nhit độ du đến UBN-3  
Nhit độ đông đặc ca du  
Tn tht áp sut  
1/1 1/2 1/3 1/4 1/5 1/6 1/7 1/8 1/9 1/10 1/11 1/12 1/1  
Hình 2. Các thông số của đường ống từ CTP-3 Bạch Hổ sang FSO mỏ Rồng  
Hình 2 là các thông số vận hành đường ống vận  
chuyển dầu CTP-3 sang FSO-3. Kết quả cho thấy, với lưu  
lượng vận chuyển khoảng 6.000 - 10.000m3/ngày đêm và  
nhiệt độ dầu trên CTP-3 dao động ở mức 60 - 65oC, thì  
dầu sau khi xử lý bằng hóa phẩm giảm nhiệt độ đông đặc  
với định lượng 350ppm sẽ có nhiệt độ đông đặc khoảng  
24 - 26oC được bơm đến FSO-3 mỏ Rồng và tổn hao áp  
suất trên toàn tuyến đường ống CTP-3 PLEM-FSO-3 ổn  
định ở mức 7 - 10at, nhiệt độ dầu đến UBN-3 mỏ Rồng còn  
khoảng 37 - 42oC. Hình 3 và 4 là độ nhớt của dầu trước và  
sau khi xử lý hóa phẩm giảm nhiệt độ đông đặc và hình  
ảnh quan sát lắng đọng paraffin trong đường ống vận  
chuyển dầu từ mỏ Bạch Hổ sang mỏ Rồng.  
1,800  
Dầu Bạch Hổ không hóa phjẩm  
1,600  
1,400  
1,200  
1,000  
800  
Dầu Bạch Hổ với hóa phẩm PPD Chemical -1  
Dầu Bạch Hổ với hóa phẩm PPD Chemical -2  
600  
400  
200  
0
20  
25  
30  
35  
40  
45  
50  
55  
60  
Nhiệt độ, oC  
Hình 3. Độ nhớt của dầu thô mỏ Bạch Hổ không xử lý và xử lý hóa phẩm giảm nhiệt độ  
đông đặc định lượng 350 ppm (ml/m3)  
Kết quả Hình 3 và 4 cho thấy, nếu được xử lý hóa  
phẩm, độ nhớt của dầu mỏ Bạch Hổ sẽ giảm nhiều và hạn  
chế được lắng đọng paraffin bên trong đường ống dẫn  
dầu từ mỏ Bạch Hổ sang mỏ Rồng.  
3.2. Vận chuyển dầu bằng đường ống từ mỏ Rồng sang  
mỏ Bạch Hổ  
Việc thu gom và vận chuyển dầu nội bộ các mỏ Bạch  
Hổ và mỏ Rồng được thực hiện ngay trong các mỏ (Hình  
1). Dầu khai thác ở mỏ Bạch Hổ sau khi xử lý được vận  
chuyển theo các đường ống ngầm nội mỏ đến các FSO  
đặt tại mỏ Bạch Hổ, dầu khai thác ở mỏ Rồng được vận  
chuyển về FSO-3 đặt tại mỏ Rồng. Tuy nhiên, theo định  
kỳ 2,5 năm một lần, các FSO này phải dừng để kiểm tra  
định kỳ, sửa chữa nhỏ và 5 năm một lần phải lên đốc  
để sửa chữa lớn, nâng cấp. Vì vậy, bài toán vận chuyển  
Hình 4. Lắng đọng paraffin trong đường ống dẫn dầu từ Bạch Hổ sang FSO-3 mỏ Rồng  
(lấy trong thời gian sửa chữa Plem UBN-3)  
DU KHÍ - S2/2015  
46  
PETROVIETNAM  
dầu từ mỏ Bạch Hổ sang mỏ Rồng hay ngược lại thường  
xuyên được đặt ra đối với Vietsovpetro. Nếu vận chuyển  
dầu từ mỏ Bạch Hổ sang mỏ Rồng (từ CTP-3 hoặc CTP-2  
sang FSO-3 mỏ Rồng), do lưu lượng dầu khá lớn, khoảng  
8.000 - 10.000m3/ngày đêm, (tương đương vận tốc dòng  
chảy trong ống 0,8 - 1,2m/s), nên việc vận chuyển dầu  
theo tuyến ống này không gặp khó khăn. Thực tế vận  
hành đường ống CTP-3 FSO-3 trình bày ở trên đã  
chứng minh.  
Kết quả Bảng 2 cho thấy, nếu sử dụng condensate với  
hàm lượng 5 - 10% trộn lẫn với dầu RP-3 mỏ Rồng sẽ làm  
giảm nhiệt độ đông đặc của dầu đã xử lý hóa phẩm từ 21  
- 22oC xuống còn 18 - 16oC và tính linh động của dầu tăng  
lên từ 4 - 8 lần. Như vậy, có thể sử dụng condensate hòa  
trộn với dầu mỏ Rồng để làm tăng tính linh động và khả  
năng vận chuyển về mỏ Bạch Hổ. Vietsovpetro đã thu gom  
condensate có được trong quá trình xử lý khí ở mỏ Bạch  
Hổ tại các trạm nén khí trên các giàn công nghệ trung  
tâm và ở giàn nén khí lớn ở mỏ Bạch Hổ để vận chuyển  
sang mỏ Rồng theo một tuyến ống, tuyến ống còn lại sẽ  
sử dụng để vận chuyển dầu sau khi được pha trộn với  
condensate sang mỏ Bạch Hổ. Hai tuyến ống này sẽ hình  
thành một vòng khép kín. Vietsovpetro đã tiến hành sử  
dụng thử nghiệm cả hai tuyến ống nói trên để vận chuyển  
dầu từ mỏ Rồng sang mỏ Bạch Hổ trong những trường  
hợp cần thiết.  
Ban đầu, mỏ Rồng được kết nối với mỏ Bạch Hổ bằng  
tuyến ống RP-3 RP-1 RC-1 BT-7 CTP-2 không  
bọc cách nhiệt có tổng chiều dài 52km. Tuyến đường ống  
này có hai cấp đường kính 426 x 16mm và 325 x 16mm.  
Do có nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến lắng đọng  
paraffin-keo-nhựa khi vận hành đường ống này với lưu  
lượng thấp trong giai đoạn 1996 - 2001 nên Vietsovpetro  
đã xây dựng tuyến ống thứ hai RP-3 RP-2 PLEM (FSO-  
3) CTP-2 dài 42km. Tuyến đường ống mới này được bọc  
cách nhiệt và cũng có hai cấp đường kính 325 x 16mm và  
426 x 16mm. Lượng dầu khai thác trên RP-3 của giai đoạn  
2003 - 2012 ở mức 2.000 - 3.500m3/ngày đêm. Như vậy,  
với lưu lượng trên, vận tốc trung bình của dòng chất lỏng  
trong đoạn ống 426 x 16mm sẽ là 0,2 - 0,5m/s và trong  
đoạn ống 325 x 16mm là 0,4 - 0,7m/s. Với vận tốc này, sẽ  
gặp khó khăn do tổn hao nhiệt lớn, vì thể tích của đường  
ống lớn nên thời gian chuyển động của dầu trong ống  
cũng tăng lên, tất cả các yếu tố đó sẽ làm gia tăng khả  
năng lắng đọng paraffin bên trong đường ống. Bên cạnh  
đó, nhiệt độ ban đầu của dầu mỏ Rồng đi vào đường ống  
chỉ dao động ở mức 45 - 55oC, thấp hơn nhiệt độ bắt đầu  
xuất hiện paraffin trong dầu (58 - 61oC) khoảng 13 - 15oC.  
Để tăng cường khả năng vận chuyển của dầu theo đường  
ống có chiều dài lớn từ mỏ Rồng sang mỏ Bạch Hổ, ngoài  
việc xử lý dầu bằng hóa phẩm giảm nhiệt độ đông đặc,  
Vietsovpetro đã phải sử dụng condensate để pha loãng  
làm giảm độ nhớt và nhiệt độ đông đặc của dầu.  
3.3. Vận chuyển dầu mỏ Rồng từ RP-3 đến CTP-2 mỏ  
Bạch Hổ theo tuyến ống không bọc cách nhiệt RP-3  
RP-1 PLEM(FSO-3) RC-1BT-7 CTP-2  
Tuyến đường ống không bọc cách nhiệt RP-3 RP-1  
PLEM(FSO-3) RC-1 BT-7 CTP-2 có tổng chiều dài  
52km (RP-3 RP-1 = 18km, RP-1 RC-1 = 12km, RC-1 →  
BT-7 CTP-2 = 22km). Ống có các cấp đường kính khác  
nhau: ØRP-3 RP-1 = 426 x 16mm, ØRP-1 RC-1 = 325 x 16mm,  
ØRC-1 CTP-2 = 426 x 16mm và 8 đoạn ống đứng lên xuống  
RP-3, RP-1, RC-1, BT-7 và CTP-2. Dầu vận chuyển theo  
đường ống này, còn condensate từ mỏ Bạch Hổ được thu  
gom và vận chuyển đến RP-3 theo tuyến ống bọc cách  
nhiệt CTP-2 CTP-3 RP-1 RP-3.  
Việc vận chuyển dầu theo tuyến ống RP-3 RP-1  
PLEM(FSO-3) RC-1 BT-7 CTP-2 được thực hiện  
trong nửa đầu năm 2007 và giữa năm 2013, khi FSO-  
3 ngừng vận hành. Các thông số làm việc ban đầu của  
đường ống như sau:  
Bảng 2. Tính chất lưu biến của hỗn hợp dầu mỏ Rồng RP-3 đã xử lý hóa phẩm với condensate  
Độ nhớt và ứng suất trượt của dầu mỏ Rồng RP-3 đã xử lý hóa phẩm khi hòa tan ở các hàm lượng  
condensate khác nhau  
Nhiệt độ đo,  
oС  
0%  
5%  
10%  
Ứng suất trượt  
Độ nhớt dẻo  
Ứng suất trượt  
Độ nhớt dẻo  
Ứng suất trượt  
Độ nhớt dẻo,  
động, Pа  
(mPa*s)  
động (Pа)  
(mPa*s)  
động (Pа)  
(mPa*s)  
35  
30  
28  
26  
24  
0
12  
21  
33  
35  
46  
82  
0
0
0,01  
0,04  
0,09  
0,14  
9
13  
19,3  
21,5  
27,4  
38,6  
0
0
0
6
6,5  
7,0  
7,6  
9,0  
15,0  
0,01  
0,03  
0,08  
0,20  
0,55  
0,01  
0,035  
0,056  
22  
Tđđ, oС  
21 - 22  
18  
16 - 17  
DU KHÍ - S2/2015  
47  
CÔNG NGH- CÔNG TRÌNH DU KHÍ  
FSO -1  
Ba Vi  
Dầu thô  
CPP -2  
B Т -7  
Dầu thô  
condensate  
Dầu thô và condensate  
RC -1  
FSO -4  
VSP -01  
(RB) C PP -3  
condensate  
PLEM FSO -3  
RP -1  
RP -2  
Dầu thô và condensate  
condensate  
RP -3  
Hình 5. Sơ đồ vận chuyển dầu mỏ Rồng RP-3 đến CTP-2 mỏ Bạch Hổ theo tuyến ống không bọc cách nhiệt RP-3 RP-1 PLEM FSO-3 RC-1 BT-7 CTP-2  
- Lưu lượng chất lỏng trong đường ống dao động ở  
40  
6400  
5600  
4800  
4000  
3200  
2400  
1600  
800  
mức 3.200 - 3.500m3/ngày đêm;  
35  
30  
- Áp suất dầu tại ống đứng trên RP-3 dao động ở  
mức 12 - 12,5аt, trên RP-1 khoảng 9,5 - 10at và trên CTP-2  
là 4,5at.  
25  
20  
15  
10  
- Tỷ lệ condensate trong dầu dao động ở mức 7 -  
10% theo thể tích;  
Tổn hao áp suất  
Lưu lượng chất lỏng  
5
0
0
27/5 1/4 6/4 11/4 16/4 21/4 26/4 1/5 6/5 11/5 16/5 21/5 26/5  
- Nhiệt độ dầu tại ống đứng trên RP-3 là 55oС;  
- Nhiệt độ dầu đến RP-1 là 32oС;  
Hình 6. Động thái làm việc của đường ống không bọc cách nhiệt RP-3 RP-1 PLEM  
FSO-3 RC-1 BT-7 CTP-2 trong vận chuyển dầu từ mỏ Rồng sang mỏ Bạch Hổ  
- Nhiệt độ dầu đến CTP-2 là 27oС (tương đương nhiệt  
độ nước biển ở vùng cận đáy, xung quanh đường ống);  
Phân tích động thái làm việc của tuyến đường ống  
(Hình 6) cho thấy: mặc dù nhiệt độ đông đặc của dầu sau  
khi pha với condensate giảm xuống còn 18oС, nhưng tổn  
hao áp suất khi vận chuyển dầu RP-3 sang mỏ Bạch Hổ  
theo thời gian vẫn tăng nhanh, đặc biệt trên đoạn ống  
cuối RP-1 PLEM(FSO-3) BT-7 CTP-2. Sau khoảng  
30 ngày vận hành đường ống, tổn hao áp suất vận chuyển  
dầu trong đoạn RP-1 RC-1 BT-7 CTP-2 đã tăng  
từ 5at lên 9at (tốc độ tăng áp suất đạt 0,13at/ngày đêm).  
Áp suất vận chuyển dầu tăng là do hiện tượng lắng đọng  
paraffin bên trong đường ống. Kết quả tính toán mô  
phỏng [3] cho thấy khi tốc độ dòng càng nhỏ thì lắng  
- Nhiệt độ đông đặc của dầu với condensate đến  
CTP-2 dao động ở mức 15 - 21oС.  
Như vậy, thực tế tổn thất áp suất ban đầu khi vận  
chuyển dầu trên đoạn RP-3 RP-1 là 2,5 - 3at và trên  
đoạn RP-1 CTP-2 là 5at.  
Sơ đồ vận chuyển dầu RP-3 theo tuyến ống RP-3 →  
RP-1 PLEM(FSO-3) RC-1 BT-7 CTP-2 được trình  
bày ở Hình 5 và các thông số làm việc được trình bày  
trong Hình 6.  
DU KHÍ - S2/2015  
48  
PETROVIETNAM  
đọng paraffin mềm trong đường ống vận chuyển dầu  
từ RP-3 mỏ Rồng sẽ càng lớn. Ở đây, vận tốc dòng chảy  
trong đường ống chỉ đạt 0,2 - 0,5m/s. Để dự đoán lượng  
lắng đọng paraffin mềm tích tụ trong đoạn ống này, nhiệt  
thủy lực đường ống đã được tính toán, với giả thiết rằng  
bên trong thành ống có một lớp lắng đọng paraffin với  
chiều dày như nhau trên toàn bộ đoạn ống, kết quả của  
mô phỏng được trình bày tại Bảng 3 và Hình 7.  
và vận hành an toàn đường ống, phải chuyển việc vận  
chuyển dầu từ đường ống không bọc cách nhiệt sang  
tuyến đường ống bọc cách nhiệt RP-3 PLEM(FSO-3)  
CTP-3 CTP2.  
3.4. Vận chuyển dầu mỏ Rồng từ RP-3 đến CTP-2 mỏ Bạch  
Hổ theo tuyến ống bọc cách nhiệt RP-3 PLEM(FSO-3)  
CTP-3 CTP-2  
Dầu RP-3 được vận chuyển theo đường ống bọc cách  
nhiệt RP-3 PLEM(FSO-3) CTP-3 CTP-2 có tổng  
chiều dài 41km với các cấp đường kính sau:  
Kết quả Bảng 3 cho thấy, tổn hao áp suất khoảng  
9at thì khối lượng lắng đọng paraffin mềm trong đoạn  
ống này đã là 554m3. Do vậy phải bơm thêm nước biển  
để tăng vận tốc dịch chuyển của dòng chất lỏng trong  
đường ống để tẩy rửa lớp lắng đọng này. Tuy nhiên, kết  
quả cho thấy tổn hao áp suất trên đoạn ống này sau khi  
bơm rửa bằng nước biển giảm không đáng kể (Hình 6),  
sau đó tốc độ tăng tổn hao áp suất đạt tới mức 0,35 -  
0,4аt/ngày đêm, và đạt đến 14at chỉ sau 10 ngày sau khi  
bơm rửa, nghĩa là lượng lắng đọng trong ống đã đạt đến  
750 - 800m3. Như vậy, quá trình bơm rửa bằng nước biển  
tuyến ống này không hiệu quả như mong muốn. Để  
đảm bảo việc khai thác liên tục dầu trên RP-3 mỏ Rồng  
- Đoạn RP-3 PLEM(FSO-3), chiều dài 17km, đường  
kính 325 x 16mm;  
- Đoạn PLEM(FSO-3) CTP-3, 4km đầu đường kính  
325 x 16mm, 17km đường kính 426 x 16mm;  
- Đoạn CTP-3 CTP-2, chiều dài 3km, đường kính  
426 x 16mm.  
Việc vận chuyển condensate từ mỏ Bạch Hổ đến RP-3  
được thực hiện theo tuyến ống không bọc cách nhiệt  
CTP-2 BT-7 RC-1 PLEM(FSO-3) RP-1 RP-3.  
Bảng 3. Dự đoán lắng đọng paraffin mềm trong ống không bọc cách nhiệt  
RP-1 PLEM(FSO-3) BT-7 CTP-2  
Sau khi chuyển dòng, dầu được vận chuyển theo  
đường ống bọc cách nhiệt, các thông số làm việc của  
đường ống như sau:  
Chiều dày  
lắng đọng  
(mm)  
Tổn hao áp  
suất  
Thể tích lớp  
Thể tích  
paraffin (m3) ống còn lại  
(m3)  
- Áp suất dầu ở ống đứng RP-3 là 10 - 11at và trên  
CTP-2 là 4,1 - 4,5at. Như vậy, tổn hao áp suất là 5 - 6at;  
(at)  
0
4,7  
0
3.529  
3.339  
3.155  
2.975  
2.801  
2.633  
- Nhiệt độ dầu tại RP-3 là 55 - 57oС và trên CTP-2 là  
27oС;  
10  
20  
30  
40  
50  
5,2  
6,4  
190  
374  
554  
728  
896  
- Lưu lượng chất lỏng trong ống là 3.500 - 3.700m3/  
ngày đêm;  
9,0  
12,0  
17,1  
- Hàm lượng nước trong dầu khoảng 2 - 2,5% thể  
tích;  
- Nhiệt độ nước biển ở vùng cận đáy xung quanh  
đường ống 25 - 28oС;  
- Tổng lượng condensate đưa sang RP-3 khoảng  
250 - 300m3/ngày đêm, trong đó condensate ổn định là  
80 - 130m3/ngày đêm, không ổn định là 150 - 175m3/ngày  
đêm;  
- Nhiệt độ đông đặc của dầu RP-3 lên đến CTP-2 dao  
động ở mức 15 - 17oС.  
Sơ đồ vận chuyển dầu RP-3 mỏ Rồng theo đường  
ống bọc cách nhiệt được trình bày trong Hình 7 và động  
thái làm việc của đường ống bọc cách nhiệt RP-3 PLEM  
(FSO-3) CTP-3 CTP-2 được trình bày ở Hình 8.  
Hình 7. Lắng đọng paraffin, RP-1 PLEM(FSO-3)  
DU KHÍ - S2/2015  
49  
CÔNG NGH- CÔNG TRÌNH DU KHÍ  
FSO -1  
Ba Vi  
Dầu thô  
C P P -2  
condensate  
BТ-7  
Dầu thô  
condensate  
FSO-4  
VSP-01  
RC-1  
(RB) C P P-3  
PLEM FSO -3  
Dầu thô và condensate  
RP -1  
RP -2  
condensate  
Dầu thô và condensate  
RP -3  
Hình 8. Sơ đồ vận chuyển dầu mỏ Rồng RP-3 đến CTP-2 mỏ Bạch Hổ theo tuyến ống bọc cách nhiệt RP-3 PLEM FSO-3 CTP-2  
Kết quả cho thấy vận chuyển dầu RP-3 theo tuyến  
40  
36  
32  
28  
24  
20  
16  
12  
8
8000  
7300  
6600  
5900  
5200  
4500  
3800  
3100  
2400  
1700  
1000  
đường ống bọc cách nhiệt RP-3 PLEM(FSO-3) CTP-3  
CTP-2 không làm giảm tốc độ lắng đọng paraffin trong  
ống. Sau khoảng 30 ngày vận hành, tổn thất áp suất vận  
chuyển dầu trong đường ống đã tăng từ 5 - 6at lên đến  
10at (tốc độ tăng áp suất khoảng 0,13 - 0,15at/ngày đêm).  
Nguyên nhân tăng áp suất trong đường ống này cũng  
do đặc thù tính chất lưu biến của dầu và có sự lắng đọng  
paraffin mềm bên trong ống. Kết quả mô hình hóa tính  
toán tổn thất thủy lực xác định lượng lắng đọng paraffin  
trong đường ống dẫn dầu RP-3 PLEM(FSO-3) CTP-3  
CTP-2 (Bảng 4). Lưu lượng bơm dầu trong tính toán mô  
phỏng là 3.150m3/ngày đêm.  
Tổn hao áp suất  
Lưu lượng chất lỏng  
4
РбRP1  
0
27- 1- 6- 11- 16- 21- 26- 1- 6- 11- 16- 21- 26- 31- 5- 10- 15- 20- 25- 30- 4-  
T5 T6 T6 T6 T6 T6 T6 T7 T7 T7 T7 T7 T7 T7 T8 T8 T8 T8 T8 T8 T9  
Hình 9. Động thái làm việc của đường ống bọc cách nhiệt RP-3 PLEM FSO-3) →  
CTP-3 CTP-2 trong vận chuyển dầu từ mỏ Rồng sang mỏ Bạch Hổ  
Bảng 4. Dự đoán lắng đọng paraffin mềm trong ống bọc cách nhiệt  
RP-3 PLEM(FSO-3) CTP-3  
Kết quả cho thấy rằng: nếu tổn thất áp suất khi vận  
chuyển dầu đạt tới 10at, có nghĩa là trong đường ống đã  
hình thành lớp lắng đọng dày 30mm và lượng lắng đọng  
paraffin mềm đạt đến 1.070m3.  
Chiều dày  
lắng đọng  
(mm)  
0
Tổn hao  
áp suất  
(at)  
Thể tích lớp  
paraffin  
(m3)  
Thể tích  
ống còn lại  
(m3)  
4,6  
4,9  
0
193  
3.370  
3.170  
5
Để tẩy rửa lớp lắng đọng paraffin này, đường ống đã  
được tẩy rửa bằng cách bơm thêm một lượng nước biển  
nhằm tăng vận tốc dòng chảy trong ống. Hình 8 cho thấy,  
10  
20  
30  
5,4  
7,0  
9,8  
380  
737  
1.070  
2.990  
2.633  
2.300  
DU KHÍ - S2/2015  
50  
PETROVIETNAM  
520  
480  
440  
400  
360  
320  
280  
240  
200  
160  
120  
80  
40  
36  
32  
28  
24  
20  
16  
12  
8
Tổn hao áp suất RP-3 -CTP-2  
Tổng lưu lượng bơmra (dầu+nước)  
Lưu lượng nước bơmthêm  
Tổng lưu lượng chất lỏng bơm rửa lần 1  
Tổng lưu lượng chất lỏng bơm rửa lần 2  
Lưu lượng nước bơm rửa lần 2  
Lưu lượng nước bơm rửa lần 1  
4
40  
Tổn hao áp suất khi bơm rửa lần 1  
Tổn hao áp suất khi bơm rửa lần 2  
0
0
1
5
9
13  
17  
21  
25  
29  
33  
37  
41  
45  
Thời gian bơm rửa, giờ  
Hình 10. Các thông số bơm rửa đường ống bọc cách nhiệt RP-3 PLEM(FSO-3) CTP-2  
sau khi bơm rửa bằng nước biển, áp suất vận chuyển dầu  
trên ống đứng tại RP-3 đã giảm xuống 11at, như vậy tổn  
hao áp suất trong đường ống RP-3 PLEM(FSO-3) CTP-  
3 CTP-2 sau khi bơm rửa đã trở lại gần như giá trị ban đầu.  
Điều này chứng tỏ phần lớn lượng paraffin lắng đọng trong  
đường ống đã được đẩy ra. Quá trình bơm rửa nước biển vào  
đường ống vận chuyển dầu RP-3 PLEM(FSO-3) CTP-3  
CTP-2 được mô tả trong Hình 10.  
là do lưu lượng dòng dầu trong đường ống tăng lên đến  
4.500m3/ngày đêm. Tốc độ dòng chất lỏng trong đường ống  
đạt 0,8 - 1m/s, tốc độ tối ưu cho việc tẩy rửa các lớp lắng đọng  
paraffin mềm trong đường ống dẫn dầu. Như vậy, sử dụng  
đường ống bọc cách nhiệt RP-3 PLEM(FSO-3) CTP-3 →  
CTP-2 đã thực hiện được liên tục quá trình vận chuyển dầu  
từ mỏ Rồng sang mỏ Bạch Hổ với việc sử dụng condensate  
hàm lượng khoảng 7% và định kỳ tẩy rửa lắng đọng paraffin  
bằng cách bơm thêm nước biển vào đường ống.  
Hình 9 mô tả các thông số hai lần rửa đường ống vận  
chuyển dầu RP-3 PLEM(FSO-3) CTP-3 CTP-2, mỗi  
lần cách nhau hơn 30 ngày. Kết quả cho thấy, dùng nước  
biển rửa đường ống bọc cách nhiệt RP-3 PLEM(FSO-3)  
CTP-3 CTP-2 hiệu quả hơn hẳn đường ống không bọc  
cách nhiệt RP-3 RP-1 PLEM(FSO-3) BT-7 CTP-3  
CTP-2. Khi bắt đầu tiến hành bơm nước, áp suất tại ống  
đứng trên RP-3 đạt đến 37at, tổng lưu lượng dầu và nước  
chỉ đạt khoảng 200 - 220m3/giờ. Sau 24 giờ bơm rửa, lưu  
lượng dầu và nước trong ống đã đạt mức 300 - 320m3/giờ,  
trong khi áp suất tại ống đứng RP-3 lại giảm từ 37at xuống  
còn 32at. Như vậy, khả năng tẩy rửa lớp lắng đọng paraffin  
trong đường ống bọc cách nhiệt hơn hẳn đường ống không  
bọc cách nhiệt, có thể do đường ống không bọc cách nhiệt  
có quá nhiều cấp đường kính khác nhau và nhiều đoạn ống  
đứng (8 đoạn), trong khi đường ống bọc cách nhiệt đoạn  
RP-3 PLEM(FSO-3) đường kính 325mm còn đoạn sau  
PLEM(FSO-3) CTP-3 đường kính 426mm và hai đoạn ống  
đứng. Sau khi rửa bằng nước biển lần thứ 2, tổn thất áp suất  
vận chuyển dầu trong ống RP-3 PLEM(FSO-3) CTP-3 →  
CTP-2 tăng lên đến 11 - 12at sau đó ổn định. Nguyên nhân  
4. Kết luận  
Dầu khai thác ở các mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng của  
Vietsovpetro là loại dầu nhiều paraffin, có độ nhớt và  
nhiệt độ đông đặc cao so với nhiệt độ môi trường bên  
ngoài. Thu gom và vận chuyển dầu này bằng đường ống  
ngầm dưới đáy biển sẽ gặp rất nhiều khó khăn do vấn đề  
lắng đọng paraffin.  
Xử lý dầu nhiều paraffin mỏ Bạch Hổ đã tách khí bằng  
hóa phẩm giảm nhiệt độ đông đặc sẽ làm tăng tính lưu biến  
của dầu, có thể đảm bảo an toàn khả năng vận chuyển dầu  
bằng đường ống ngầm dưới biển từ mỏ Bạch Hổ sang mỏ  
Rồng và hạn chế hiện tượng lắng đọng paraffin trong ống.  
Nhiệt độ xử lý dầu đã tách khí bằng hóa phẩm đạt hiệu quả  
cao ở nhiệt độ không nhỏ hơn 65oС (lớn hơn nhiệt độ bắt  
đầu kết tinh của paraffin khoảng 5 - 10oС).  
Sử dụng condensate hàm lượng 7 - 10% sẽ làm giảm  
đáng kể nhiệt độ đông đặc và độ nhớt của dầu RP-3 mỏ  
Rồng, có thể đảm bảo khả năng vận chuyển dầu mỏ Rồng  
DU KHÍ - S2/2015  
51  
CÔNG NGH- CÔNG TRÌNH DU KHÍ  
từ RP-3 sang mỏ Bạch Hổ bằng đường ống bọc cách nhiệt.  
Tuy nhiên, vận chuyển dầu nhiều paraffin từ mỏ Rồng  
sang mỏ Bạch Hổ bằng đường ống bọc cách nhiệt hoặc  
không bọc cách nhiệt đều có vấn đề nghiêm trọng do  
lắng đọng paraffin mềm trong ống. Nguyên nhân do:  
Tài liệu tham khảo  
1. G.P.Van Engelen, C.L.Kaul, B.Vos, H.P.Aranha. Study  
of flow improvers for transportation of Bombay High crude  
oil through submarine pipelines. Journal of Petroleum  
Technology. 1981; 33(12): p. 2539 - 2544.  
- Xử lý dầu bằng cách bơm hóa phẩm giảm nhiệt độ  
đông đặc vào dòng hỗn hợp dầu khí của giếng đạt hiệu  
quả không cao bằng xử lý dầu đã tách khí, thời gian phục  
hồi cấu trúc của dầu nhanh;  
2. Phung Dinh Thuc, Ha Van Bich, Tong Canh Son, Le  
Dinh Hoe, V.P.Vygovskoy. The problem in transportation  
of high waxy crude oils through submarine pipeline at  
JV “Vietsovpetro” oil fields, offshore Vietnam. Journal of  
Canadian Petroleum Technology. 2003; 42(6): p.15 - 18.  
- Nhiệt độ xử lý dầu của các giếng từ tất cả các công  
trình khai thác ở mỏ Rồng thấp hơn nhiều so với nhiệt độ  
xử lý dầu ở mỏ Bạch Hổ.  
3. Phung Dinh Thuc, Tong Canh Son, Ha Van Bich.  
Complexity and technological solution in gathering,  
processing and transporting high wax crude oil of the Rong  
field. Petrovietnam Review. 2000; 4: p. 16 - 21.  
Sử dụng nước biển có khả năng tẩy rửa sạch paraffin  
lắng đọng trong đường ống bọc cách nhiệt RP-3 →  
PLEM(FSO-3) CTP-3 CTP-2, phục hồi được công  
suất vận hành đường ống ban đầu và tốt hơn nhiều so  
với đường ống không bọc cách nhiệt RP-3 RP-1 →  
PLEM(FSO-3) CTP-3 CTP-2.  
4. Nguyen Thuc Khang, Tong Canh Son, Le Dinh Hoe,  
Albert Akhmadeev. Increase of the efficiency and safety  
of highly paraffin crude oil transportation of Vietsovpetro  
offshore oilfields. Forum Proceeding 7 International  
Conference, St. Petersburg. 2007: p. 184 - 186.  
Lưu lượng dầu trong đường ống dẫn dầu không  
thấp hơn 3.800m3/ngày đêm (vận tốc chất lỏng trong  
đường ống khoảng 0,8-1,2m/s) sẽ hạn chế được lắng  
đọng paraffin trong đường ống bọc cách nhiệt RP-3 →  
PLEM(FSO-3) CTP-3 CTP-2. Trong trường hợp ngược  
lại, lắng đọng paraffin sẽ tăng nhanh.  
5. Tong Canh Son, A.G.Akhmadeev, Le Dinh Hoe,  
S.A.Ivanov. Transportation of high paraffinic oil produced in  
offshore oilfield of JV “Vietsovpetro”. Oil Industry, Moscow.  
2008; 6: p. 34 - 36.  
Experience of high waxy crude transportation through  
submarine pipeline in "Vietsovpetro" offshore oil fields  
Tong Canh Son, Le Dinh Hoe  
Vietsovpetro  
Summary  
At present, Vietsovpetro is operating a number of offshore oil fields in Vietnam, namely Bach Ho, Rong, Gau Trang  
and Tho Trang. Crude oil produced from those fields has a wax content ranging between 17-29% by weight, and a  
high pour point temperature of 29-36oC. Wellhead temperature of crude is very low. The transportation of crude oil  
with high wax content through long-distance submarine pipelines built without thermal insulation can cause many  
serious problems. The heat loss due to the sharp temperature gradient between the crude and the environment re-  
sults in the crystallisation of wax in the crude, with a subsequent wax deposition on the walls of the pipeline, which  
leads to reduction of the actual pipeline diameter, higher pressure drops, and the formation of gelled interlocking  
structure of wax crystals in the pipeline, leading to shutdowns.  
This paper will describe the characteristic complexities of Bach Ho and Rong crude oil and some experiences in gath-  
ering, processing and transporting high wax crude through submarine pipeline. The safe and continuous pipeline  
operation from Bach Ho to Rong and vice versa plays an important role in the operation of Vietsovpetro’s oil and gas  
fields and contributes significantly to the achievement of Petrovietnam’s annual production plans.  
Key words: Wax deposition, pour point temperature, viscosity, Bach Ho field.  
DU KHÍ - S2/2015  
52  
pdf 10 trang yennguyen 16/04/2022 3140
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm vận chuyển dầu nhiều Paraffin bằng đường ống ở các mỏ dầu khí ngoài khơi của liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkinh_nghiem_van_chuyen_dau_nhieu_paraffin_bang_duong_ong_o_c.pdf