Xây dựng đời sống văn hóa đô thị trong quá trình hội nhập quốc tế
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐÔ THỊ
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
NGUYỄN THỊ ĐỨC
Tóm tắt
Phát triển đô thị là động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa đang
diễn ra nhanh, mạnh trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Điều đó đã tạo nên những
biến đổi lớn trong đời sống văn hóa của cư dân đô thị trên cả phương diện tích cực lẫn tiêu cực. Với tư
cách là một thành tố quan trọng của đô thị, mỗi bước phát triển của đời sống văn hóa chính là sự phát
triển của đời sống xã hội nói chung. Sự tác động và ảnh hưởng của văn hoá đến quá trình phát triển là
rất lớn, do đó việc xây dựng một đời sống văn hóa lành mạnh luôn có ý nghĩa tích cực cho sự phát triển
bền vững của đô thị và quốc gia.
Từ khóa: Đời sống văn hóa, đô thị, đô thị hóa, hội nhập, hội nhập quốc tế
Abstract
Urban development has always been the driving force for socio-economic development. In Vietnam,
the process of urbanization is happening fast and strongly in the trend of international integration. This
has made great changes in the cultural life of urban residents in both positive and negative aspects.
As an important element of the urban, each grade of development of cultural life is the development
of social life in general. The impact and influence of culture on the development process is great so
building a healthy cultural life always has positive meaning for the sustainable development of the
urban and the country.
Keywords: Cultural life, urban, urbanization, integration, international integration
tế, chính trị, xã hội rất khác nhau. Ở Việt Nam,
đô thị thường hiện diện như là những trung
tâm chính trị, văn hóa và luôn có mối quan hệ
mật thiết với nông thôn trên nhiều phương
diện, không chỉ ở các hoạt động kinh tế, quan
hệ dân cư mà cả ở đời sống văn hóa (các nếp
sinh hoạt, ăn mặc, ứng xử…).
1. Đặt vấn đề
Đô thị hóa là quá trình tập trung dân số,
hình thành nhanh chóng các điểm dân cư trên
cơ sở phát triển sản xuất và đời sống, từ đó kéo
theo sự thay đổi của xã hội, văn hóa... Trong
quá trình phát triển của mỗi quốc gia, đô thị
hóa luôn là động lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, phát triển xã hội. Quá trình đô thị hóa
nói chung là kết quả của các hoàn cảnh kinh
Sau 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới
(1986 – 2016), các đô thị ở Việt Nam đã có sự
phát triển vượt bậc. Năm 1990, các đô thị Việt
NGHIÊN CỨU
Số 22 - Tháng 12 - 2017
61
V
ĂN H Ó
A
NGHIÊN CỨU
V
ĂN H Ó
A
Nam bắt đầu phát triển, lúc đó cả nước mới có
khoảng 500 đô thị. “Năm 1999 cả nước có 629
đô thị, đến nay có 772 đô thị, trong đó có 2 đô
thị đặc biệt, 15 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 47
đô thị loại III, 64 đô thị loại IV và 630 đô thị loại
V”(1). Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn là quốc gia có
tỉ lệ đô thị thấp. Phần lớn các đô thị thuộc loại
vừa và nhỏ, còn yếu kém về mặt không gian -
vật chất. Kết cấu hạ tầng đô thị chưa đáp ứng
đầy đủ tiêu chuẩn của đô thị văn minh, hiện
đại cũng như nhu cầu thiết yếu của người dân.
Tình trạng đô thị hóa nhanh dẫn đến sự mất
cân bằng môi trường sinh thái, xã hội. Các giá
trị văn hóa nông thôn vẫn còn phát huy mạnh
ở đô thị, cùng với đó là những ảnh hưởng
từ bên ngoài trong quá trình hội nhập đã và
đang tạo ra sự pha trộn phức tạp về văn hóa,
làm nảy sinh nhiều vấn đề, gây khó khăn cho
quản lý văn hóa đô thị theo hướng văn minh,
hiện đại.
tạo nên đời sống văn hóa. Vì thế, nói tới đời
sống văn hoá là nói đến những hoạt động văn
hóa như: sáng tạo và biểu diễn nghệ thuật;
thực hành giáo dục nhằm nâng cao tri thức,
bồi dưỡng nhân cách; hoạt động thông tin và
truyền thông; thực hành hệ thống phong tục,
tập quán v.v…
Như vậy, đời sống văn hoá là một bộ phận
của đời sống xã hội, phản ánh nhu cầu văn hoá
của xã hội. Nhu cầu của xã hội có hai loại cơ
bản: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu vật chất nhằm đảm bảo sự sống, nhu
cầu tinh thần hướng tới hình thành một nhân
cách văn hoá. Sự phân biệt này cũng chỉ có ý
nghĩa tương đối vì thực chất, nhu cầu vật chất
và nhu cầu tinh thần thường thống nhất với
nhau trong hoạt động sống của con người.
Nhu cầu văn hoá thể hiện chất lượng sống của
con người nhằm hướng tới cái đúng, cái tốt và
cái đẹp trong cả lĩnh vực hoạt động vật chất và
tinh thần.
2. Đời sống văn hóa và đời sống văn hóa
đô thị
Hoạt động văn hoá là một bộ phận của
hoạt động xã hội nhằm tạo ra các thành tựu
văn hoá để vừa thoả mãn nhu cầu về văn
hoá, vừa hướng con người tới các giá trị của
cái đúng, cái tốt và cái đẹp, thúc đẩy sự tiến
bộ xã hội. Hoạt động văn hoá bao gồm quá
trình sáng tạo, sản xuất, bảo quản, phổ biến
và tiêu dùng các sản phẩm văn hoá. Các sản
phẩm văn hoá khác với các sản phẩm vật chất
thông thường ở chỗ, nó mang giá trị và ý nghĩa
tinh thần, độc đáo, không lặp lại, có khả năng
nâng cao nhận thức và tình cảm, góp phần bồi
dưỡng tâm hồn và trí tuệ, nhân cách và bản
lĩnh cho con người.
2.1. Đời sống văn hóa
Chúng ta đều biết rằng, văn hoá là những
sáng tạo thể hiện dấu ấn phát triển của một
đất nước, một thời đại. Dân tộc nào, xã hội
nào cũng có các thể chế kinh tế, chính trị; các
phong tục, tập quán; cách thức tổ chức đời
sống xã hội; cùng các nhu cầu: lao động, ăn,
mặc, ở, sáng tạo và hưởng thụ nghệ thuật... Tổ
chức thực hiện những điều đó ra sao? Mức độ
và cách thức thỏa mãn những nhu cầu đó như
thế nào? Về các vấn đề này, mỗi quốc gia lại
có những cách thức riêng, tạo nên đời sống xã
hội, đời sống văn hóa khác nhau.
Sản phẩm văn hoá bao gồm hai loại: Sản
phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể. Sản phẩm
văn hoá vật thể là loại sản phẩm văn hoá tồn
tại hữu hình dưới dạng vật thể như các công
trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa; các di tích
lịch sử văn hoá, di tích khảo cổ học; cổ vật, bảo
vật v.v… Sản phẩm văn hoá phi vật thể là loại
Đời sống xã hội bao gồm cả đời sống kinh
tế, đời sống chính trị, đời sống văn hóa (của
cá nhân, gia đình và cộng đồng). Bất cứ hành
vi sống nào cũng là biểu hiện của văn hoá,
cho nên, có thể nói, các hoạt động sống của
con người khi hướng tới mục đích thỏa mãn
nhu cầu tinh thần, hoàn thiện nhân cách thì
62 Số 22 - Tháng 12 - 2017
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
sản phẩm văn hoá không hiện hữu một cách
cố định mà tồn tại dưới dạng các quan niệm
về giá trị và chuẩn mực xã hội, được ghi nhận
và lưu truyền trong ký ức của con người. Đó
là các loại hình như huyền thoại, lễ hội, tín
ngưỡng, nghệ thuật trình diễn (vũ điệu, âm
nhạc, trò chơi…)… cùng các giá trị tinh thần
như chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân
đạo, ý thức cộng đồng, tinh thần khoan dung,
đề cao nghĩa tình, đạo lý, lạc quan yêu đời… và
các phẩm chất người như lương tâm, danh dự,
trách nhiệm…
con người, mỗi gia đình và cộng đồng với những
biểu hiện cụ thể trong lao động sản xuất, trong
thực hành tín ngưỡng, lễ hội, trong ứng xử, trong
lối sống, nếp sống...
2.2. Đời sống văn hóa đô thị
Văn hóa đô thị được hình thành và phát
triển trong quá trình hoạt động và tương tác
xã hội của người dân đô thị. Văn hóa đô thị và
đời sống văn hóa đô thị do đó có thể hiểu một
cách khái quát là quá trình thay đổi cách thức
hoạt động và quan hệ văn hóa của người dân
đô thị, nhờ đó có thể dẫn đến việc hình thành,
phát triển và tạo ra cấu trúc văn hóa mới theo
thời gian và những cấp độ khác nhau. Đô thị
hóa đòi hỏi con người phải chuyển động theo
tốc độ chuyển động của nó. Tức là khi, một nơi
nào đó đã đô thị hóa, đã trở thành đô thị thì
nơi ấy đòi hỏi một đời sống văn hóa khác với
đời sống văn hóa khi chưa trở thành đô thị.
Các sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật
thể là cơ sở để tạo nên môi trường văn hoá, liên
kết sức mạnh của các nhóm xã hội và các thế
hệ, tạo nên sức sống của dân tộc trong cuộc
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đồng thời,
chính môi trường văn hoá đã nuôi dưỡng và
hình thành các thế hệ tiếp nối nhau để phát
triển đất nước. Môi trường văn hoá là thiên
nhiên thứ hai nuôi dưỡng và phát triển nhân
cách con người. Các sản phẩm văn hoá tác
động đến cộng đồng thông qua môi trường
văn hóa, đó là các thiết chế văn hoá - xã hội
như gia đình, trường học, trung tâm văn hoá,
thư viện, cơ quan thông tin đại chúng… Vì thế
có thể nói, môi trường văn hóa chính là phần
trọng yếu trong việc chuyển tải các giá trị văn
hoá đến cộng đồng, tạo nên đời sống văn hóa
của cộng đồng.
Như trên đã nói, đặc điểm đô thị Việt Nam
là sự gắn kết mật thiết hai chiều với nông
thôn từ dân cư đến kinh tế và văn hóa. Vì thế,
ở Việt Nam, “Văn hóa đô thị có thể nói là một
thể phức hợp giữa văn hóa bác học (hàn lâm,
chuyên nghiệp), văn hóa dân gian và văn hóa
đại chúng. Tại đô thị, tập trung các cơ quan
văn hóa chuyên nghiệp, giới trí thức, vì thế văn
hóa bác học phát triển (khoa học, giáo dục,
văn học, mỹ thuật, nghệ thuật biểu diễn,…).
Đô thị tập trung các cộng đồng dân cư khác
nhau nên mỗi cộng đồng dân cư lại có văn hóa
dân gian của mình. Tại đô thị, do tính giao lưu
văn hóa cao, sống động và với sự tập trung
của phương tiện thông tin đại chúng nên văn
hóa đám đông (đại chúng) cũng phát triển” (4,
tr.28). Cơ sở thúc đẩy sự hình thành văn hóa
đô thị cũng như đời sống văn hóa đô thị nằm
ở quá trình biến đổi của các nhân tố tư tưởng,
kinh tế, khoa học kỹ thuật dưới tác động của
sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa trong và ngoài
nước, sự phát triển dân số về quy mô, cơ cấu
và chất lượng, cùng sự phát triển các thiết chế
xã hội - văn hóa…
Tóm lại, đời sống văn hoá là toàn thể các
hoạt động sống của con người nhằm thoả mãn
nhu cầu văn hoá, hướng con người đến các giá
trị chân, thiện, mỹ, hình thành con người nhân
văn. Đời sống văn hóa bao gồm các sản phẩm
văn hóa và cách thức, hình thức hoạt động
văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và
sáng tạo của con người trong những điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định. Đó cũng là quá trình
thâu nhận các giá trị văn hóa vì sự phát triển
của con người và cộng đồng. Đời sống văn hóa
ở ngay trong cuộc sống hàng ngày, trong mỗi
NGHIÊN CỨU
Số 22 - Tháng 12 - 2017
63
V
ĂN H Ó
A
NGHIÊN CỨU
V
ĂN H Ó
A
Kết cấu đời sống xã hội và quan hệ cư trú,
ứng xử khiến cho đời sống văn hóa đô thị có
sự khác biệt so với nông thôn. Nếu quan hệ cư
trú - ứng xử ở nông thôn theo kết cấu gia đình
- họ mạc - xóm giềng - làng xã - xã hội thì ở đô
thị, quan hệ này theo kết cấu giản lược hơn:
gia đình - xóm giềng - xã hội. Điều đó có nghĩa
là người thành thị khi bước chân ra khỏi nhà,
đã hòa mình với xã hội rồi. Nếu môi trường
thiên nhiên, sinh thái ở nông thôn là sự giao
hòa giữa nhà - vườn - cổng làng - cánh đồng
thì ở đô thị là: nhà - ngõ - phố - nơi làm việc.
Ở nông thôn, mỗi gia đình có thể tự túc được
lương thực, thực phẩm, còn ở thành phố, con
người phải phụ thuộc vào dịch vụ. Nhu cầu
tiêu dùng của người đô thị thường đa dạng
hơn. Vì vậy, dịch vụ công không thể thiếu đối
với cư dân đô thị. Đây có thể được xem như là
một nét văn hóa rất riêng biệt của đô thị. Kết
cấu đời sống xã hội và điều kiện phát triển ở
đô thị tạo nên tính mở của văn hóa, khiến đời
sống văn hoá đô thị có tính cơ động và biến
đổi cao. Trong môi trường giao lưu nhiều và đa
dạng hơn hẳn nông thôn, đô thị hiển nhiên là
nơi dễ bị tác động và cũng dễ tác động đến
các khu vực nông thôn. Văn hóa ứng xử của
người đô thị có phần thiên về quan hệ trên cơ
sở luật pháp và thị trường nhiều hơn, người
đô thị sống sòng phẳng và có vẻ “lạnh lùng”
hơn. Sự phân hóa theo nghề nghiệp, thu nhập
(giàu nghèo) nhanh chóng dẫn đến sự phân
hóa về tư tưởng, đạo đức, lối sống…, thúc đẩy
sự phân tầng trong đời sống văn hóa.
diễn trình thường thấy trong các đô thị hiện
đại. Ở đó, biến đổi văn hóa thường chuyển từ
trạng thái thuần nhất - đơn giản sang trạng
thái không thuần nhất - phức tạp để đạt đến
tính năng động ở một trình độ biểu hiện cao
hơn. Đặc biệt, trong khung cảnh hội nhập hiện
nay, tính cơ động và biến đổi không chỉ hình
thành như một sản phẩm tự nhiên mà còn là
nhu cầu sinh tồn và phát triển của đô thị. Thực
tế đã chứng minh rằng: mỗi đổi thay đến với
một đất nước bao giờ cũng bắt đầu từ đô thị.
Từ sự thay đổi kinh tế, các sản phẩm văn hóa
cũng thay đổi theo. Chính tính mở và điều kiện
giao lưu, tiếp xúc đã làm cho văn hoá đô thị có
trình độ văn minh cao hơn so với văn hóa nông
thôn. Văn minh là trình độ đạt được trong sự
phát triển của văn hoá vật chất và văn hoá tinh
thần của loài người theo từng thời đại. Nói đến
văn minh, thông thường chúng ta nghĩ đến
những gì vượt trội (đi trước), mẫu mực… Với
cả hai nghĩa đó, văn hoá đô thị trong mỗi thời
đại đều là nơi trưng bày những gì hiện đại, mới
mẻ, tiêu biểu, mẫu mực… cho mỗi quốc gia.
Đó luôn là cái đích mà các vùng khác vươn tới.
Tuy nhiên, nói đô thị có tính văn minh, không
có nghĩa là mọi việc ở đây đều tốt đẹp. Trong
sự đi trước, vượt trội của đô thị có cả văn hoá
và cả phản văn hoá.
3. Hội nhập quốc tế và những ảnh hưởng
của nó đến đời sống văn hóa đô thịViệt Nam
Hội nhập quốc tế là quá trình phát triển
tất yếu và đã trở thành một xu thế lớn của thế
giới hiện đại. Hội nhập quốc tế diễn ra trên rất
nhiều lĩnh vực, làm biến đổi sâu sắc, toàn diện
các mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá,
khoa học, công nghệ, môi trường sinh thái…
của toàn thế giới. Đồng thời, hội nhập cũng là
một quá trình phức tạp đầy mâu thuẫn, chứa
đựng cả mặt tích cực và tiêu cực, cả thời cơ và
thách thức cho tất cả các quốc gia, nhất là các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Đặc trưng nổi bật của văn hóa đô thị là
tính phức hợp và tính biến đổi cao. Đời sống
văn hóa đô thị có mối quan hệ hữu cơ với sự
phát triển chung của kinh tế xã hội đô thị,
nó bị tác động, chi phối, ảnh hưởng của nền
tảng kinh tế - xã hội này. Vì thế, tùy thuộc vào
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội mà các
phương thức sinh hoạt văn hóa và những biểu
hiện của nó cũng có sự phát triển tương ứng.
Sự biến đổi của đời sống văn hóa đô thị là một
Trước hết, hội nhập tạo cơ hội cho phát triển
kinh tế qua việc tự do hoá thương mại, thu hút
64 Số 22 - Tháng 12 - 2017
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
đầu tư, chuyển giao công nghệ, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường…Tuy nhiên,
hội nhập cũng tạo ra nguy cơ phá hủy môi
trường sinh thái, biến các quốc gia chậm phát
triển trở thành bãi chứa rác thải công nghiệp.
Đồng thời, với ưu thế vượt trội về tiềm lực tài
chính và khoa học công nghệ, các nước lớn có
điều kiện áp đặt về kinh tế, thao túng chính trị,
an ninh quốc gia, tạo nguy cơ lệ thuộc cho các
nước kém phát triển.
Trước hết, đô thị hóa đang làm thay đổi tập
quán sản xuất, kinh doanh theo hướng công
nghiệp hóa, đa thành phần, đa dạng dịch vụ
vận hành trong cơ chế thị trường. Điều đó dẫn
đến sự thay đổi trong thế giới quan, nhân sinh
quan, tình cảm và tâm lý của người dân đô thị.
Người dân đang dần dần khắc phục tác phong
sản xuất nhỏ, trì trệ, luộm thuộm, manh mún
để hình thành tác phong công nghiệp, xây
dựng ý thức chấp hành pháp luật, ý thức công
dân và ý thức cá nhân. Thái độ lao động có
những thay đổi tích cực: năng động tìm kiếm
việc làm để có thu nhập cao, có việc làm phù
hợp với năng lực, không trông chờ, ỷ lại vào sự
bao cấp của nhà nước. Thái độ ứng xử cũng có
sự thay đổi theo hướng hiện đại, đó là sự thông
cảm, sẻ chia và tôn trọng tự do cá nhân, sống
và làm việc theo pháp luật. Người dân đô thị
đang dần cải thiện tính ích kỷ, tự ti của người
nông dân, vượt qua các hủ tục lạc hậu trong tổ
chức đời sống.... Điều khác biệt lớn nhất là sự
hình thành nhân cách công dân với đặc trưng
khẳng định cái“tôi”, cái cá nhân nhiều hơn và ít
bị chi phối bởi cộng đồng.
Đối với Việt Nam, hội nhập cho chúng ta
cơ hội để tiếp thu công nghệ, kỹ thuật và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới, tham
gia vào sự phân công và hợp tác lao động trên
toàn cầu, khai thác có hiệu quả các nguồn lực
trong và ngoài nước, phát triển nguồn nhân
lực lao động có trình độ học vấn, kỹ thuật
cao, phát triển nền kinh tế tri thức… Bên cạnh
những thuận lợi, chúng ta cũng đang đứng
trước những thách thức như: khả năng quản
lí kém, sức cạnh tranh yếu dẫn đến dễ bị lệ
thuộc; bất bình đẳng về thu nhập dẫn đến
chênh lệch giàu nghèo; tham nhũng làm cho
các giá trị đảo lộn; tội phạm, tệ nạn… đe dọa
an sinh xã hội v.v… Sự thâm nhập một cách
tràn lan các sản phẩm hàng hóa nước ngoài,
một mặt đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của con
người nhưng mặt khác, nó kích thích tâm lý
sùng ngoại. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến
sản xuất nội địa, các ngành nghề truyền thống
mà nguy hiểm hơn, còn tác động tiêu cực tới
tâm lý, những giá trị tinh thần, lối sống, đời
sống văn hóa của chúng ta.
Sự biến đổi của văn hóa sản xuất, kinh
doanh đang thúc đẩy nhanh quá trình dân
chủ trong lĩnh vực văn hóa, xác lập ngày càng
đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của người
dân, của các nhóm cư dân đô thị trong sáng
tạo, phát huy, bảo tồn và hưởng thụ văn hóa.
Với mức sống được cải thiện, người dân đô thị
ngày càng đa dạng hóa nhu cầu tiêu dùng, chú
trọng đến chất lượng các loại hình dịch vụ văn
hóa, có nhiều lựa chọn cách thức hưởng thụ
giá trị văn hóa. Chính đặc điểm này đã thúc
đẩy sự đổi mới, đa dạng hóa văn hóa, làm tăng
mức độ giao lưu, nhu cầu thông tin và các dịch
vụ công cộng…
Những biến đổi của kinh tế, xã hội ấy cùng
với quá trình đô thị hóa tăng tốc có tác động
đa chiều đến đời sống văn hóa ở các đô thị
Việt Nam. Bản chất của quá trình đô thị hóa
và phát triển đô thị ở Việt Nam hiện nay đang
nằm trong giai đoạn quá độ: biến đổi văn hóa
từ nông thôn sang đô thị với những đặc trưng
tiêu biểu như đa dạng hóa, phức tạp hóa, hiện
đại hóa…, trong đó chứa đựng nhiều yếu tố
tích cực nhưng cũng không ít những tiêu cực,
trái chiều.
Tuy nhiên, trong đời sống văn hóa cũng
nảy sinh những tiêu cực như sự thẩm lậu và lưu
hành các loại hình văn hóa độc hại (qua sách
báo, băng đĩa, sự phát triển thái quá của một
NGHIÊN CỨU
Số 22 - Tháng 12 - 2017
65
V
ĂN H Ó
A
NGHIÊN CỨU
V
ĂN H Ó
A
số loại hình dịch vụ văn hóa nhạy cảm như
karaoke, vũ trường, internet…). Tình trạng văn
hóa nghe nhìn, mạng xã hội phát triển mạnh
khiến văn hóa đọc, viết đang bị mai một là một
ví dụ tiêu biểu về phong cách sống của cư dân
đô thị hiện đại… Đáng lo ngại nhất là sự phát
triển của chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, thực dụng,
khiến cho nhiều mối quan hệ chỉ được giải
quyết thông qua giá trị của đồng tiền, kể cả
quan hệ ruột thịt trong gia đình. Một bộ phận
cư dân đô thị sống lạnh lùng, quá coi trọng giá
trị đồng tiền, tôn sùng vật chất, có biểu hiện
suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống…
trương thực hiện để đáp ứng nhu cầu sáng tạo
và hưởng thụ của người dân.
- Phải xây dựng và kiện toàn các thiết chế văn
hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân đô thị tiếp xúc và hưởng thụ văn hóa.
Thiết chế văn hóa cần được hiểu một cách đầy
đủ nhất: bao gồm cả cơ sở vật chất và thể chế
vận hành như hệ thống tổ chức, các quy định,
nguyên tắc, văn bản pháp luật… về quản lí văn
hóa. Trong điều kiện hiện nay, cần đẩy mạnh
xã hội hóa việc xây dựng và quản lí các thiết
chế văn hóa để người dân tích cực tham gia và
cũng để phục vụ tối ưu cho nhu cầu văn hóa
của họ.
4. Quản lí, xây dựng đời sống văn hóa đô thị
lành mạnh
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cung và cầu
trong lĩnh vực văn hoá cũng như định hướng
thông tin văn hoá là vấn đề cấp bách đang đặt
ra đối với các nhà quản lý văn hoá. Phát triển
kinh tế hàng hóa là một trong những điều kiện
để tạo ra sản phẩm văn hóa nhiều hơn, phong
phú hơn, đáp ứng cao hơn nhu cầu xã hội. Khi
hình thành các ngành công nghiệp văn hóa
vận hành theo cơ chế thị trường thì thị trường
sẽ là động lực của sự phát triển văn hóa: thị
trường sẽ trở thành biểu đồ xác định nhu cầu
văn hóa đa dạng của con người, từ đó dẫn dắt
các nhà sản xuất, kinh doanh tìm mọi cách
để đáp ứng nhu cầu đa dạng ấy. Thị trường
văn hóa đô thị cần được bắt đầu từ việc đưa
ra những sản phẩm văn hóa giải trí phù hợp.
Do đó cần mở rộng thời lượng cũng như đa
dạng hoá các nội dung, hình thức đối với các
chương trình văn hoá nghệ thuật tại các đài
phát thanh, truyền hình, cơ quan báo chí, nhà
xuất bản. Cần tăng cường các hoạt động biểu
diễn nghệ thuật chuyên nghiệp và nghệ thuật
quần chúng, làm cho khối lượng và chất lượng
các sản phẩm văn hoá tăng nhanh, đáp ứng thị
hiếu của công chúng hiện nay.
Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và
tinh thần của xã hội, luôn can thiệp vào quá
trình xã hội thông qua sự tiếp nhận, đánh giá
của chủ thể (cá nhân hoặc cộng đồng). Nhân
tố văn hoá tác động đến quá trình phát triển
thường trở nên tiềm ẩn, tinh tế và có sức sống
lâu bền. Với tư cách là một thành tố quan trọng
của đô thị, mỗi bước phát triển của đời sống
văn hóa chính là sự phát triển của đời sống xã
hội nói chung. Ảnh hưởng của văn hoá đến
quá trình hình thành nhân cách và phát triển
con người là rất lớn. Do đó, việc xây dựng đời
sống văn hóa lành mạnh luôn có ý nghĩa tích
cực trong sự phát triển bền vững của đô thị.
Sau đây là một số giải pháp cho việc xây
dựng đời sống văn hóa đô thị lành mạnh ở Việt
Nam hiện nay:
- Ở tầm vĩ mô, các cơ quan quản lí trước hết
cần tiếp tục điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát
triển các đô thị sao cho phù hợp với sự phát
triển kinh tế - xã hội, hướng đến phát triển bền
vững. Trong quá trình phát triển đô thị, việc
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo tồn, tôn
tạo các di tích lịch sử, văn hóa, các công trình
kiến trúc và danh lam thắng cảnh cần được coi
trọng. Việc xây dựng và hoàn thiện quy hoạch
không gian văn hóa đô thị cần được khẩn
- Bên cạnh việc ưu tiên đầu tư cho các hoạt
động văn hóa ở đô thị, nhà nước cần nâng cao
hiệu quả quản lí văn hóa để phòng chống các
biểu hiện, các hành vi phi văn hóa, chống sự
66 Số 22 - Tháng 12 - 2017
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
xâm nhập của các hình thức văn hóa không
phù hợp với truyền thống dân tộc, bài trừ
tệ nạn xã hội. Nhà nước cần hoàn thiện, hệ
thống lại các văn bản quy phạm pháp luật về
văn hóa (các văn bản này hiện đang phân tán
dưới dạng các quy định). Thực tế cho thấy có
những sản phẩm văn hóa độc hại, khêu gợi
bản năng với thị hiếu thấp kém được truyền
thụ qua internet, băng đĩa, sách báo, tranh
ảnh lậu; qua các chương trình vui chơi giải trí
thiếu lành mạnh tại các vũ trường, quán bar…,
từ đó ảnh hưởng xấu đến đời sống văn hóa.
Việc để cho các tác phẩm văn hoá nghệ thuật
mang tư tưởng độc hại được ấn hành trong
nước và truyền bá rộng rãi trong công chúng,
trách nhiệm trước hết thuộc về các nhà quản
lý văn hoá. Việc thẩm định chất lượng qua
loa, cấp giấy phép xuất bản ồ ạt, quản lý lỏng
lẻo nguồn nhập cảnh sản phẩm văn hoá… là
những nguyên nhân trực tiếp gây nên các hiện
tượng xấu trong đời sống văn hóa đô thị. Do
đó các cơ quan quản lý văn hoá cần quản lý
tốt hơn việc kinh doanh xuất bản phẩm, các
dịch vụ văn hoá nhằm hạn chế tối đa những
tác động của sản phẩm phản văn hoá đến đời
sống tinh thần của người dân.
Quản lý tốt thị trường văn hoá là góp phần
đắc lực vào việc tạo môi trường văn hoá tốt,
hướng con người đến với những giá trị chân,
thiện, mỹ, hình thành đời sống văn hoá đô thị
lành mạnh, góp phần quan trọng vào sự phát
triển bền vững của đất nước.
N.T.Đ
(Viện Văn hóa, Trường ĐHVH HN)
Tài liệu tham khảo
1. Trần Thị Lan Anh (2014), Thực trạng đô thị
hóa, phát triển đô thị & những yêu cầu cần đổi mới
tại Việt Nam, Tạp chí Quy hoạch Xây dựng, số 70,
tr.13-17.
2. Phạm Duy Đức (2008), Những thách thức
của văn hoá Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, Nxb. Văn hoá Thông tin & Viện Văn
hoá, Hà Nội.
3. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định
số 445/QĐ-TTg, ngày 7/4/2009 về phê duyệt quy
hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam
đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050.
4. Nguyễn Thanh Tuấn (2006), Biến đổi văn
hóa đô thị Việt Nam hiện nay, Nxb. Văn hóa Thông
tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.
Trong quá trình quản lý, ngành văn hoá
phải kết hợp với các bộ, ngành liên quan như
công an, thuế vụ, hải quan để kiểm soát các
sản phẩm văn hoá nhập lậu và lưu thông trên
thị trường. Đối với hành vi vi phạm trong việc
kinh doanh dịch vụ văn hoá, cần xử lý nghiêm
khắc hơn. Để công tác thanh kiểm tra có hiệu
quả, cần nâng cao trình độ chuyên môn cho
đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý văn hoá,
đặc biệt là đội ngũ thanh tra văn hoá tại các
địa phương. Vụ pháp chế thuộc Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch cần có sự trao đổi thường
xuyên với các sở văn hoá, các hãng kinh doanh
văn hoá để nắm bắt được tình hình thực tế, kịp
thời chỉnh lý, bổ sung và cho ra đời các văn bản
dưới luật nhằm hướng dẫn quản lý văn hoá với
những thông tin cập nhật và phù hợp nhất.
Ngày nhận bài: 2 - 12 - 2015
Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 12 - 2017
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 12 - 2017
NGHIÊN CỨU
Số 22 - Tháng 12 - 2017
67
V
ĂN H Ó
A
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng đời sống văn hóa đô thị trong quá trình hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- xay_dung_doi_song_van_hoa_do_thi_trong_qua_trinh_hoi_nhap_qu.pdf