Cơ sở hình thành văn hóa du lịch ở Việt Nam

VĂN HÓA DU LỊCH  
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN HÓA DU LỊCH Ở VIỆT NAM  
DƯƠNG VĂN SÁU*  
Tóm tắt  
Văn hóa du lịch là khoa học nghiên cứu để làm rõ “giá trị du lịch” của văn hóa và làm rõ “giá trị văn  
hóa” trong hoạt động du lịch. Như vậy, văn hóa du lịch là yêu cầu tất yếu trong phát triển du lịch ở một  
quốc gia đa văn hóa như Việt Nam. Bộ môn khoa học nghiên cứu về văn hóa du lịch được hình thành  
từ thực tế hoạt động, các tài nguyên và nguồn lực về du lịch ở Việt Nam.  
Từ khóa: Cơ sở văn hóa du lịch, văn hóa du lịch, khoa học về du lịch  
Abstract  
Tourism culture is the science that researches to clarify the “tourism value” of culture and to clarify the  
“cultural value” in tourism activities. Thus, tourism culture is an indispensable requirement in tourism  
development in a multicultural nation like Vietnam. The subject on scientific research on tourism  
culture is inevitably formed from the reality of tourism activities and tourism resources in Vietnam.  
Keywords: Basis of tourist culture, tourism culture, tourism science  
1. Văn hóa du lịch  
rong tiến trình phát triển của thế giới,  
lực ấy phải được khai thác có chọn lọc, đạt hiệu  
quả tối ưu để phát triển du lịch bền vững. Yêu  
cầu đặt ra cho quá trình khai thác, phát huy có  
hiệu quả giá trị của kho tàng di sản văn hóa  
trong hoạt động du lịch mà vẫn bảo tồn được  
các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các giá  
trị văn hóa bản địa hoàn toàn phù hợp với tiến  
trình phát triển của xã hội và đất nước.  
phát triển bền vững trở thành mục  
tiêu cho tất cả các nền kinh tế. Đây là  
T
hướng đi đúng đắn và cần thiết, là yêu cầu tất  
yếu đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia  
đang phát triển trong đó có Việt Nam. Trong  
quá trình đưa du lịch sớm trở thành kinh tế  
mũi nhọn, mục tiêu phát triển bền vững đã  
được đặt ra xuyên suốt. Điều 3, Luật Du lịch  
(2017) đã nêu rõ: “Phát triển du lịch bền vững là  
sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu  
cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm  
hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt  
động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng  
đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai[5].  
Muốn phát triển du lịch bền vững phải dựa vào  
yếu tố con người, vào văn hóa của con người  
trong hoạt động du lịch; tức là phải dựa vào  
văn hóa du lịch. Trong hoạt động du lịch ở Việt  
Nam, văn hóa là một trong những tài nguyên,  
nguồn lực trọng yếu, có vai trò đặc biệt quan  
trọng để phát triển du lịch. Tài nguyên, nguồn  
Bản chất và nội hàm của du lịch là văn hóa;  
cung - cầu trong kinh tế du lịch là cung cầu  
văn hóa. Muốn vậy, cần nghiên cứu để đưa ra  
những cách thức và biện pháp khai thác có  
hiệu quả các tài nguyên và nguồn lực du lịch.  
Đây chính là những bước đi và biện pháp cụ  
thể của quá trình“kinh tế hóa văn hóa, đưa các  
giá trị có chọn lọc của văn hóa dân tộc vào hoạt  
động du lịch; tạo nên nét đặc sắc, hấp dẫn của  
du lịch Việt Nam. Đồng thời với đó là việc nâng  
cao hàm lượng văn hóa trong hoạt động kinh  
doanh, “văn hóa hóa” các mối quan hệ cung -  
cầu trong du lịch. Thông qua mối liên hệ phổ  
biến này, đánh giá tác động tương hỗ của hoạt  
động du lịch đến mọi mặt của đời sống xã hội,  
chỉ ra cách thức, biện pháp để khai thác, phát  
triển du lịch bền vững. Đó chính là nội hàm của  
văn hóa du lịch ở Việt Nam. Từ thực tiễn hoạt  
*PGS.TS, Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội  
NGHIÊN CỨU  
Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
79  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
động du lịch ở Việt Nam, đối chiếu với yêu cầu  
về sự phát triển du lịch của các nước trong khu  
vực và thế giới, bằng các kết quả nghiên cứu  
phục vụ giảng dạy, đào tạo nguồn nhân lực  
du lịch trong nhiều năm qua, chúng tôi đưa ra  
khái niệm: “Văn hóa du lịch là khoa học nghiên  
cứu, khai thác có chọn lọc các giá trị của văn hóa  
để phát triển du lịch và nâng cao hàm lượng văn  
hóa trong các mối quan hệ cung - cầu của hoạt  
động du lịch; góp phần quảng bá văn hóa, tạo sự  
phát triển du lịch bền vững” [7, tr.60].  
2. Những cơ sở để hình thành văn hóa du  
lịch ở Việt Nam  
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, khoa  
học về du lịch là khoa học tổng hợp, nghiên  
cứu và triển khai kết quả nghiên cứu đa ngành  
vào hoạt động du lịch, đương nhiên, văn hóa  
du lịch hình thành từ lý thuyết và thực tiễn có  
liên quan đến hoạt động du lịch. Như bất kỳ  
một ngành khoa học nào khác, văn hóa du lịch  
phải bắt đầu từ thực tiễn, nhưng lại phải vượt  
lên trên thực tiễn để dẫn dắt, định hướng thực  
tiễn phát triển đạt các yêu cầu khoa học, tạo  
sự phát triển du lịch bền vững. Bên cạnh đó, là  
một ngành kinh tế năng động, dễ bị tác động  
bởi các yếu tố khách quan và chủ quan, do vậy,  
thực tiễn hoạt động du lịch phải được kiểm  
soát bằng một hệ thống luật pháp chặt chẽ  
thông qua các văn bản pháp quy để quản lý và  
điều tiết hoạt động mang tính thống nhất. Văn  
hóa du lịch ở Việt Nam về cơ bản được hình  
thành trên 3 cơ sở: Cơ sở lý luận, cơ sở thực  
tiễn, và cơ sở pháp lý.  
Trong khái niệm này, chúng tôi dùng thuật  
ngữ “khai thác có chọn lọc các giá trị của văn  
hóa để phát triển du lịch” thay cho cụm từ hay  
được nhiều người sử dụng hiện nay là “phát  
huy giá trị của văn hóa. Sở dĩ chúng tôi dùng  
từ “khai thác” vì du lịch là ngành kinh tế dịch  
vụ tổng hợp, một ngành kinh tế tất yếu phải  
tạo ra các sản phẩm hàng hóa; muốn có sản  
phẩm phải khai thác các nguyên liệu để tạo ra  
các sản phẩm hàng hóa đó. Ở đây, trong kinh  
tế du lịch, văn hóa là một trong những nguồn  
tài nguyên, nguồn lực quan trọng nhất, là một  
dạng nguyên liệu để tạo ra sản phẩm du lịch  
mang tính đặc thù. Do vậy, cần khai thác các  
giá trị tài nguyên văn hóa để tạo ra sản phẩm  
du lịch. Điều cần nhấn mạnh là việc khai thác  
có chọn lọc các giá trị của văn hóa tức là tìm  
ra các giá trị đặc sắc của văn hóa, đưa các giá  
trị đó vào cuộc sống, từ đó đem lại các giá trị  
mới, đích thực cho con người. Điều đó giúp  
khơi nguồn nội lực cho văn hóa, giúp văn hóa  
tăng thêm sức mạnh để phát triển chứ không  
phải khai thác cạn kiệt các giá trị của văn hóa.  
Khai thác các giá trị văn hóa là làm tăng giá trị  
của văn hóa, tạo cho văn hóa có “đầu ra” là các  
sản phẩm du lịch. Đây là giải pháp “bảo tồn  
động” các giá trị của văn hóa, là những biểu  
hiện tích cực trong quá trình “kinh tế hóa văn  
hóa” các hoạt động du lịch. Đi cùng với việc  
khai thác các giá trị của văn hóa là việc nâng  
cao hàm lượng văn hóa trong kinh doanh du  
lịch, “văn hóa hóa kinh tế” trong hoạt động du  
lịch ở Việt Nam hiện nay. Chính việc tiến hành  
đồng thời hai quá trình như vậy sẽ tạo ra sự  
phát triển bền vững của kinh tế du lịch, đồng  
thời góp phần quan trọng vào việc xây dựng  
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,  
đậm đà bản sắc dân tộc, nâng văn hóa dân tộc  
lên những tầm cao mới với những vị thế mới  
phù hợp trong thời đại mới.  
2.1. Cơ sở lý luận của văn hóa du lịch  
Thứ nhất, mục tiêu của văn hóa du lịch  
nhằm đ“biến”những tiềm năng văn hóa - lịch  
sử thành các sản phẩm du lịch đặc trưng, đặc  
hữu giúp cho các đối tượng du khách “ngược  
nguồn lịch sử” tìm và làm sống lại những giá trị  
đích thực của văn hóa Việt Nam qua trường kỳ  
lịch sử. Cách tiếp cận mới đó đã tạo nên nhận  
thức mới về du lịch ở Việt Nam.  
Xét về bản chất, du lịch là quá trình tìm  
kiếm để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau  
của con người trong những khoảng thời gian  
và không gian nhất định. Du lịch Việt Nam  
muốn phát triển bền vững, cần phải xác định  
rõ, chúng ta có những gì và sẽ làm những gì?  
Làm như thế nào để đáp ứng và làm thỏa mãn  
những nhu cầu đa dạng của các đối tượng  
khách nội địa và khách quốc tế? Việt Nam là  
quốc gia đang phát triển, đi sau thế giới trên  
rất nhiều phương diện, vậy phải có cách đi  
riêng, phương pháp riêng tạo nên ấn tượng  
và sự khác biệt. Trên cơ sở thông lệ quốc tế và  
truyền thống bản địa, du lịch Việt Nam muốn  
phát triển phải tạo ra nét bản sắc độc đáo của  
mình. Bản sắc độc đáo đó chính là bản sắc  
văn hóa. Văn hóa du lịch khai thác có chọn lọc  
những giá trị tích cực của văn hóa Việt Nam sẽ  
góp phần phổ biến những cái hay, cái đẹp của  
80 Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
du lịch thuộc về ngôn ngữ học hình thái - tức  
là hình thái của ngôn ngữ sử dụng trong giao  
tiếp du lịch. Văn hóa du lịch là thứ ngôn ngữ  
học hình thái “2 trong 1, văn hóa và du lịch ở  
trong nhau, là của nhau. Điều này phản ánh  
đúng thực tế ở Việt Nam: Du lịch là ngành kinh  
tế tổng hợp mang nội dung văn hóa sâu sắc.  
Từ đó cho thấy, cơ sở lý thuyết chính là sự phản  
ánh thực tiễn Việt Nam; đó chính là một trong  
những cơ sở quan trọng để ra đời khoa học  
văn hóa du lịch, khoa học nghiên cứu về văn  
hóa để phát triển du lịch bền vững.  
văn hóa Việt Nam. Yếu tố đó có được là một  
phần của quá trình đi tìm những bài học từ  
quá khứ sẽ góp phần quyết định đến sự phát  
triển bền vững của du lịch Việt Nam.  
Thứ hai, xuất phát từ bản chất của du lịch  
là văn hóa, tất cả các lĩnh vực hoạt động trong  
du lịch đều đòi hỏi yếu tố văn hóa. Nghị quyết  
08-NQ/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh quan  
điểm: “Phát triển du lịch thực sự là ngành kinh tế  
dịch vụ tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng,  
có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, có thương  
hiệu và khả năng cạnh tranh cao, xã hội hóa cao  
và có nội dung văn hóa sâu sắc...[1]. Trong kinh  
doanh nói chung, kinh doanh du lịch nói riêng  
diễn ra đồng thời hai quá trình: “văn hóa hóa  
kinh tế” và “kinh tế hóa văn hóa. Đây không  
phải là cơ sở lý thuyết mà chính là biểu hiện lý  
thuyết trong thực tiễn. Lý thuyết đã nói thay  
yêu cầu của thực tiễn và đã trở thành cơ sở lý  
thuyết nhưng không tách rời với những yêu  
cầu, đòi hỏi từ thực tiễn.  
2.2. Cơ sở thực tiễn của văn hóa du lịch  
Thứ nhất, du lịch là quá trình hoạt động  
mà trong đó các đối tượng du khách được các  
công ty du lịch kết nối không gian và thời gian  
trên thực tiễn để đạt được các nhu cầu và mục  
đích khác nhau. Hoạt động du lịch gắn chặt với  
thực tiễn, không thể tách rời thực tiễn. Thực  
tiễn hoạt động du lịch tất yếu sẽ đòi hỏi phải  
hình thành văn hóa du lịch. Chất lượng, hiệu  
quả hoạt động trong kinh tế du lịch ở Việt Nam  
xuất phát từ đòi hỏi của cuộc sống và nó trở  
thành yêu cầu cơ bản của hoạt động du lịch.  
Quá trìnhkinh tế hóa văn hóa trong du lịchlà  
một xu hướng diễn ra không ngừng trong hoạt  
động du lịch và đương nhiên nó trở thành cơ  
sở thực tiễn của hoạt động du lịch trong bất cứ  
thời gian và không gian nào.  
Thứ ba, nội hàm của du lịch là văn hóa. Du  
lịch dành cho con người; đối với con người,  
văn hóa là tiêu chí cao nhất, quan trọng nhất,  
con người càng phát triển càng đòi hỏi các yếu  
tố văn hóa ngày càng cao. Kinh doanh du lịch  
là “kinh doanh văn hóa, muốn phát triển bền  
vững phải có “văn hóa kinh doanh” phù hợp,  
thích ứng. Thực chất cung - cầu trong du lịch là  
“cung - cầu văn hóa, đồng thời thông qua đó  
cũng thể hiện “văn hóa cung - cầu” của người  
làm du lịch. Văn hóa cung cầu trong cung cấp  
và tiêu thụ sản phẩm du lịch, trong việc đáp  
ứng và làm thoả mãn các lợi ích cung - cầu  
trong du lịch chính là những cơ sở lý thuyết,  
đồng thời trở thành yêu cầu không thể thiếu  
của văn hóa du lịch.  
Thứ hai, xuất phát từ những yêu cầu đặt ra  
trong quá trình kinh doanh du lịch hiện nay,  
khả năng và điều kiện cũng như trình độ của  
các đối tượng du khách ngày càng phát triển,  
dẫn đến bắt buộc phải nâng cao yếu tố văn  
hóa trong kinh doanh mới đáp ứng các nhu  
cầu của du khách, mới tạo nên sự thành công  
của quá trình kinh doanh du lịch. Khi trình độ  
dân trí ngày càng cao sẽ kéo theo yêu cầu, đòi  
hỏi về thái độ và trình độ cũng như phong cách  
văn hóa trong kinh doanh du lịch, đó chính là  
đòi hỏi của thực tiễn đối với người làm du lịch,  
đối với văn hóa du lịch.  
Thứ tư, cơ sở lý luận của văn hóa du lịch còn  
xuất phát từ những từ ngữ, thuật ngữ và cách  
sử dụng các từ ngữ đó hiện nay đang áp dụng.  
Ví dụ như các cách gọi, các hình thức diễn đạt,  
biểu đạt về mặt ngôn ngữ tiếng Việt, như: Văn  
hóa, du lịch; Văn hóa - du lịch, Văn hóa - Du  
lịch, Văn hóa du lịch, Văn hóa Du lịch... Những  
tên gọi, các cách viết khác nhau như trên đã  
đem đến những ý nghĩa khác nhau, tạo ra “sự  
hỗn dung” giữa văn hóa và du lịch. Từ việc sử  
dụng các cặp ngôn từ đi kèm với nhau như  
vậy đã cho thấy một cách tiếp cận khác, một  
cách gọi khác là cơ sở lý thuyết của văn hóa  
Thứ ba, trong thực tế hoạt động du lịch,  
nhu cầu phong phú, đa dạng ngày càng cao  
của du khách trong và ngoài nước đòi hỏi phải  
được đáp ứng. Do hoạt động kinh doanh du  
lịch ở Việt Nam mới phát triển khoảng những  
năm 1990 trở lại đây, cơ sở vật chất kỹ thuật,  
hạ tầng phục vụ du lịch đang từng bước được  
hình thành nên chưa đáp ứng được hết các  
NGHIÊN CỨU  
Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
81  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
yêu cầu của du khách, đặc biệt là các đối tượng  
du khách có nhu cầu cao, đến từ các quốc gia  
phát triển, văn minh. Hơn nữa, nhu cầu của  
du khách luôn tăng lên, do vậy, trong quá  
trình phát triển bên cạnh việc sáng tạo không  
ngừng để tiến về phía trước thì việc không kém  
phần đặc biệt quan trọng là cần tận dụng và  
khai thác các tài nguyên, nguồn lực vốn có để  
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch.  
Một trong những nguồn tài nguyên vốn có đó  
chính là kho tàng di sản văn hóa từ quá khứ.  
Tuy nhiên, sự hiểu biết về quá khứ của một bộ  
phận đông đảo những người hoạt động trong  
lĩnh vực du lịch còn chưa đáp ứng được yêu  
cầu thực tế. Chính vì vậy, cần bổ sung và nâng  
cao kiến thức, kỹ năng hoạt động cho đội ngũ  
nhân viên. Cũng chính một phần những hạn  
chế từ thực tiễn khai thác giá trị của kho tàng  
di sản văn hóa sẽ hình thành nên những cơ  
sở, nền tảng, yêu cầu của văn hóa du lịch. Văn  
hóa Việt Nam là văn hóa vốn tiềm ẩn nhiều giá  
trị tích cực. Do vậy, trong loại hình du lịch văn  
hóa, cần “giải mã văn hóa, giải ảo hiện thực”  
các thành tố văn hóa được đưa vào khai thác  
phục vụ phát triển du lịch có chọn lọc. Xét  
về bản chất, các thuật ngữ “giải mã văn hóa,  
“giải ảo hiện thực” chính là một cách tiếp cận  
khác về hiện thực khách quan của kho tàng di  
sản văn hóa. Chính di sản văn hóa Việt Nam  
sẽ góp phần tạo nên sự hấp dẫn và cuốn hút  
đối với các đối tượng du khách. Tuy nhiên, cần  
có cách thức và biện pháp khai thác có chất  
lượng, hiệu quả kho tàng di sản văn hóa đặc  
sắc của dân tộc mới có thể biến tiềm năng  
thành tiềm lực, lợi thế, ưu thế và nội lực của du  
lịch Việt Nam. Văn hóa du lịch có nền tảng là  
văn hóa Việt Nam, chứa đựng hệ thống tri thức  
của con người, đồng thời là mong muốn của  
con người được bổ sung và nâng cao tri thức  
trong quá trình du lịch. Trong giai đoạn đầu  
phát triển của kinh tế du lịch ở Việt Nam cần  
phải quan tâm, đầu tư nghiên cứu, khai thác  
có chất lượng và hiệu quả kho tàng di sản văn  
hóa này, tạo dấu ấn đặc sắc, riêng biệt của du  
lịch Việt Nam.  
động. Trang phục thiếu thẩm mỹ, thiếu thuần  
phong mỹ tục khi đi du lịch, thiếu ý thức bảo vệ  
môi trường tự nhiên, ứng xử văn hóa thiếu hiểu  
biết, lệch lạc, vụ lợi thô thiển trong các chương  
trình du lịch, tại các điểm đến tham quan là các  
di tích lịch sử - văn hóa của du khách cần phải  
được “hiệu đính. Yêu cầu đặt ra từ thực tế hoạt  
động kinh doanh du lịch là cần phải hình thành  
nên văn hóa du lịch ở du khách.  
Thứ năm, xuất phát từ yêu cầu tạo ra nét  
đặc trưng/đặc thù của du lịch đối với mỗi cá  
nhân - tổ chức - địa phương ở nơi diễn ra các  
hoạt động du lịch. Nét đặc trưng mang tính  
bản sắc của du lịch ở các địa phương chính là  
văn hóa du lịch của một địa phương nào đó.  
Xét về bản chất của hiện tượng du lịch thì du  
lịch là quá trình kiếm tìm những khác biệt, mà sự  
khác biệt đó một phần chính là bản sắc văn hóa.  
Kinh doanh du lịch về thực chất là kinh doanh  
ấn tượng. Ấn tượng được hình thành thông  
qua những hành xử văn hóa, văn minh trong  
kinh doanh. Ấn tượng và sự khác biệt sẽ tạo  
ra lợi thế cạnh tranh, trở thành yếu tố tạo nên  
thành công của du lịch Việt Nam. Ấn tượng và  
khác biệt của du lịch Việt Nam không gì khác  
chính là văn hóa kinh doanh trong hoạt động  
du lịch, là văn hóa du lịch. Để có được điều đó  
cần có sự liên kết đa cấp độ, nhiều mặt, nhiều  
sắc thái khác nhau giữa các vùng văn hóa, đó  
chính là nội hàm của các chương trình du lịch  
văn hóa.  
Thứ sáu, xuất phát từ nhu cầu đào tạo  
nguồn nhân lực du lịch. Trong những năm  
trước và sau thập kỷ 90 của thế kỷ XX, do yêu  
cầu của xã hội, đây là khoảng thời gian các  
cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch bậc đại  
học ra đời khá nhiều. Chỉ riêng ở các tỉnh phía  
Bắc, các trường đại học như Trường Đại học  
Văn hóa Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã  
hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội),  
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Trường Đại  
học Thương mại, Viện Đại học Mở Hà Nội,...  
đều ra đời các khoa, chuyên ngành, bộ môn  
đào tạo bậc đại học về du lịch. Khi đó, với bề  
dày lịch sử 35 năm (1959 - 1993) ra đời, tồn tại  
và phát triển, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội là  
cơ sở đào tạo lớn nhất của ngành Văn hóa cả  
nước; thế mạnh lớn nhất của Trường Đại học  
Văn hóa Hà Nội là nghiên cứu văn hóa theo  
hướng ứng dụng. Trên cơ sở đòi hỏi của thực  
tiễn cũng như khả năng và điều kiện cho phép  
Thứ tư, xuất phát từ thực trạng những biểu  
hiện của các đối tượng du khách trong quá  
trình đi du lịch. Họ đòi hỏi được hưởng thụ các  
giá trị văn hóa đích thực, và được đối xử có văn  
hóa. Hiện nay, vấn đề văn hoá ứng xử của một  
bộ phận không nhỏ du khách đang ở mức báo  
82 Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, đã hình  
thành chuyên ngành Văn hóa Du lịch vào năm  
1993 và sau đó ra đời Khoa Văn hóa Du lịch vào  
tháng 8/2000. Từ đó đến nay, với hơn ¼ thế kỷ  
phát triển lớn mạnh không ngừng, Khoa Văn  
hóa Du lịch (nay là Khoa Du lịch), Trường Đại  
học Văn hóa Hà Nội với Slogan: “Đi cùng tri  
thức” đã đóng góp một phần quan trọng trong  
đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng  
cao cho đất nước. Sau năm 1993, hàng loạt  
các trường đại học cả công lập, dân lập, tư thục,  
các trường cao đẳng, trung cấp nghề,... ở khắp  
nơi trên đất nước cũng lần lượt ra đời các khoa,  
chuyên ngành, bộ môn đào tạo văn hóa du lịch;  
hình thành một mạng lưới, hệ thống đào tạo  
văn hóa du lịch rộng khắp cả nước. Với những  
gì tích luỹ được từ trong thực tiễn đào tạo; với  
công sức, trí tuệ, tâm huyết của rất nhiều người,  
nhiều nơi, khoa học văn hóa du lịch đã và đang  
hình thành, phát triển không ngừng cả về lý  
luận và thực tiễn như hiện nay. Những thành  
tựu đã đạt được và những yêu cầu đặt ra từ thực  
tế đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo phương  
châm “đào tạo theo nhu cầu và yêu cầu xã hội”  
đã trở thành cơ sở thực tiễn quan trọng nhất  
cho việc hình thành, tồn tại và phát triển của  
khoa học Văn hóa Du lịch ở Việt Nam.  
văn hóa quy định rõ: “Di sản văn hóa Việt Nam  
được sử dụng nhằm mục đích:  
1. Phát huy giá trị di sản văn hóa vì lợi ích của  
toàn xã hội.  
2. Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng  
đồng các dân tộc Việt Nam.  
3. Góp phần sáng tạo những giá trị văn hóa  
mới, làm giàu kho tàng di sản văn hóa Việt Nam  
và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế” [3].  
Với 3 mục đích nêu trên, hoạt động du lịch  
là một trong những công cụ quan trọng nhất  
để đạt được các mục đích sử dụng của di sản  
văn hóa. Văn hóa du lịch phải coi những nội  
dung của Luật Di sản văn hóa về bảo tồn và  
phát huy giá trị di sản văn hóa là cơ sở pháp lý  
trong quá trình diễn ra các hoạt động du lịch.  
Ngay từ khi mới ra đời ở Việt Nam, nội dung  
văn hóa của du lịch đã sớm được luật pháp  
khẳng định và thừa nhận thông qua Pháp lệnh  
Du lịch (08/02/1999): “Du lịch là một ngành  
kinh tế tổng hợp mang nội dung văn hóa sâu  
sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa  
cao[8]. Điều này đã nói rõ hai điều: Du lịch  
là ngành kinh tế tổng hợp và du lịch mang  
nội dung văn hóa sâu sắc. Từ đó cho thấy, du  
lịch là sự tổng hợp của văn hóa; là sự khai thác  
và phát triển văn hóa theo hướng ứng dụng.  
Ngay sau Pháp lệnh Du lịch, Luật Du lịch ra đời  
cũng đặt ra những yêu cầu cụ thể, xác thực về  
văn hóa trong du lịch. Trong Điều 79 Luật Du  
lịch (2005) cũng đã xác định rõ: “Nhà nước tổ  
chức, hướng dẫn hoạt động xúc tiến du lịch với  
các nội dung chủ yếu sau đây: Tuyên truyền, giới  
thiệu rộng rãi về đất nước, con người Việt Nam,  
danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, di tích cách  
mạng, di sản văn hóa, công trình lao động sáng  
tạo của con người, bản sắc văn hóa dân tộc cho  
nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế”  
[4, tr.69]. Điều 67, Luật Du lịch (2017) nêu rõ  
nội dung xúc tiến du lịch: “Quảng bá, giới thiệu  
về đất nước, con người Việt Nam, di sản văn hóa,  
di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh,  
công trình lao động sáng tạo của con người, bản  
sắc văn hóa dân tộc nhằm tăng cường thu hút  
khách du lịch” [5].  
2.3. Cơ sở pháp lý của văn hóa du lịch  
Một xã hội văn minh là một xã hội pháp  
quyền, ở đó, mọi hành vi ứng xử của con người  
đều được quản lý, điều tiết bằng các văn bản  
và công cụ pháp lý. Chúng ta đang sống trong  
một xã hội đòi hỏi mọi người, mọi tổ chức đều  
phải “sống và làm việc theo hiến pháp, pháp  
luật, hoạt động du lịch cũng không ngoại lệ.  
Nói tới pháp lý là nói tới công cụ của thể chế  
chính trị cầm quyền. Do vậy, việc triển khai các  
yếu tố văn hóa trong kinh doanh du lịch không  
chỉ là nghĩa vụ và trách nhiệm mà còn là yêu  
cầu pháp lý đối với những người hoạt động  
trong ngành Du lịch.  
Du lịch gắn chặt không thể tách rời với văn  
hóa. Điều này đúng không chỉ ở nội dung mà  
cả ở hình thức biểu hiện. Thể hiện rõ nhất là cơ  
quan quản lý nhà nước về lĩnh vực du lịch được  
sáp nhập, đặt trong Bộ Văn hóa, Thể thao và  
Du lịch. Chính vì cả nội dung và hình thức thể  
hiện của mình đều mang nội hàm văn hóa cho  
nên văn hóa du lịch cũng phải chịu sự điều tiết  
của Luật Di sản văn hóa. Điều 12 Luật Di sản  
Theo dòng thời gian, cả ba văn bản mang  
tính pháp lý cao nhất trong lĩnh vực du lịch ở  
Việt Nam đều đề cập tới nội hàm và bản chất  
văn hóa của du lịch. Điều đó cho thấy, việc khai  
thác giá trị kho tàng di sản văn hóa để phát  
NGHIÊN CỨU  
Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
83  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
triển du lịch là một yêu cầu cơ bản, một lợi thế  
vô cùng to lớn của du lịch Việt Nam. Trong kho  
tàng di sản văn hóa cực kỳ to lớn của dân tộc, hệ  
thống di tích lịch sử - văn hóa là thành tố quan  
trọng bậc nhất, có vai trò đặc biệt to lớn trong  
việc xây dựng các tuyến, điểm du lịch. Việc đưa  
du khách tới tham quan du lịch tại các di tích  
lịch sử văn hóa; khai thác giá trị các thành tố  
trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc giúp cho  
các đối tượng du khách được thẩm nhận và trải  
nghiệm các giá trị nhiều mặt của chiều sâu văn  
hiến Việt Nam. Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa,  
kho tàng di sản văn hóa Việt Nam với số lượng  
đồ sộ, hình thức phong phú, đa dạng, nội dung  
vô cùng đặc sắc và hấp dẫn có mặt ở mọi nơi,  
trên khắp mọi miền đất nước, bao trùm lên toàn  
bộ đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội  
theo suốt chiều dài phát triển lịch sử dân tộc.  
Để hiểu rõ, cần có những kiến thức chuyên sâu  
về lịch sử, khảo cổ học, văn hóa học, nghệ thuật  
học, tôn giáo tín ngưỡng,… đó chính là nhân  
học - khoa học về con người trong suốt chiều  
dài lịch sử. Nhân học trong hoạt động du lịch  
chính là Nhân học du lịch.  
Bên cạnh hệ thống luật pháp trong nước,  
do du lịch là hoạt động kinh tế mang tính  
quốc tế cao nên các hoạt động du lịch cũng  
phải phù hợp với luật pháp và thông lệ của  
thế giới. Đó là những thông lệ quốc tế đối với  
các vấn đề tổ chức kinh doanh; các công ước  
quốc tế có liên quan đến hoạt động du lịch,  
bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học hay các  
di sản văn hóa của các quốc gia, dân tộc. Các  
chương trình du lịch văn hóa diễn ra ở Việt  
Nam hay trên phạm vi toàn thế giới nhất thiết  
phải tuân thủ Công ước quốc tế về du lịch văn  
hóa đã được Hội đồng Quốc tế Di tích và Di chỉ  
ICOMOS (International Council on Monuments  
and Sites) thông qua tại Đại hội đồng lần thứ  
12 (tháng 10/1999) ở Mexico. Công ước này  
yêu cầu tất cả các cá nhân, tổ chức và các quốc  
gia trên toàn thế giới phải tuân thủ 6 nguyên  
tắc cơ bản phát triển du lịch văn hóa:  
Nguyên tắc 1: Vì du lịch nội địa và quốc tế  
là một trong những phương tiện tốt nhất để  
trao đổi văn hóa nên việc bảo vệ cần phải tạo  
ra những cơ hội quản lý tốt và có trách nhiệm  
cho các thành viên của cộng đồng chủ nhà  
và các khách tham quan tham gia để họ thấy  
được và hiểu được trực tiếp di sản và văn hóa  
của cộng đồng đó.  
Gần đây nhất, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày  
16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du  
lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã đề  
ra 8 nhiệm vụ, giải pháp trọng yếu trong phát  
triển du lịch:  
Nguyên tắc 2: Mối quan hệ giữa các địa  
điểm Di sản và Du lịch là có tính động và có  
thể có giá trị xung đột nhau. Phải quản lý mối  
quan hệ đó một cách bền vững cho hôm nay  
vì các thế hệ mai sau.  
1. Đổi mới nhận thức, tư duy về phát triển  
du lịch.  
2. Cơ cấu lại ngành Du lịch đảm bảo tính  
chuyên nghiệp, hiện đại và phát triển bền  
vững theo quy luật của kinh tế thị trường và  
hội nhập quốc tế.  
Nguyên tắc 3: Lên kế hoạch Bảo vệ và Du  
lịch cho các địa điểm Di sản phải đảm bảo  
cho du khách sẽ cảm nhận được là bõ công, là  
thoải mái, là thích thú.  
3. Hoàn thiện thể chế chính sách.  
Nguyên tắc 4: Các cộng đồng chủ nhà và  
dân chúng bản địa phải được tham gia vào  
việc lập kế hoạch Bảo vệ và Du lịch.  
4. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở  
vật chất kỹ thuật ngành Du lịch.  
5. Tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch.  
Nguyên tắc 5: Hoạt động Du lịch và Bảo vệ  
phải có lợi cho cộng đồng chủ nhà.  
6. Tạo môi trường thuận lợi cho doanh  
nghiệp và cộng đồng phát triển du lịch.  
Nguyên tắc 6: Các chương trình xúc tiến du  
lịch phải bảo vệ và phát huy các đặc trưng của  
di sản thiên nhiên và văn hóa[2].  
7. Phát triển nguồn nhân lực du lịch.  
8. Tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý  
nhà nước về du lịch [1].  
Các công ty, hãng lữ hành khi tổ chức kinh  
doanh du lịch, phải nắm chắc và am hiểu luật  
pháp của các nước sở tại, các phong tục tập  
quán truyền thống ở nơi đến, các lề luật thông  
thường hay các quy định của địa phương nơi  
Tám nhiệm vụ, giải pháp nêu trên vừa được  
coi là cơ sở lý thuyết, vừa có thể coi là cơ sở  
mang tính pháp lý cao nhất của hệ thống  
chính trị Việt Nam hiện nay về văn hóa du lịch.  
84 Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
VĂN HÓA DU LỊCH  
diễn ra các hoạt động du lịch. Những cá nhân,  
tổ chức tham gia hoạt động du lịch cũng phải  
chú ý và tìm hiểu các tổ chức chuyên môn  
mang tính toàn cầu như các tòa án quốc tế,  
các tổ chức có chức năng và quyền hạn nhận  
xét, đánh giá, phán xét các vi phạm của các cá  
nhân và tổ chức trong lĩnh vực du lịch như Tổ  
chức Du lịch thế giới UNWTO (United Nation  
World Tourism Organization) hoặc Tổ chức văn  
hóa giáo dục và khoa học của Liên hợp quốc  
UNESCO (United Nations Educational Scientific  
and Cultural Organization).  
lịch ra đời trên nền tảng cơ sở lý luận, cơ sở thực  
tiễn cơ sở pháp lý đó chính là những cơ sở  
cốt lõi hình thành văn hóa du lịch ở Việt Nam.  
Cả 3 yếu tố này đều có vai trò quan trọng như  
nhau, thiếu 1 trong 3 cơ sở này đều sẽ không  
hình thành văn hóa du lịch.  
Văn hóa du lịch là tất yếu khách quan trong  
hoạt động du lịch; là yêu cầu của mọi du khách  
khi đi du lịch. Đối với tất cả các cá nhân và tổ  
chức hoạt động trong lĩnh vực du lịch, văn hóa  
du lịch luôn là cái đích để hướng tới. Chỉ có  
nghiên cứu, phát triển, ứng dụng hiệu quả văn  
hóa du lịch trong kinh doanh du lịch mới có  
thể đưa du lịch Việt Nam sớm trở thành ngành  
kinh tế mũi nhọn theo định hướng của Đảng  
và Nhà nước hiện nay.  
Trên cơ sở luật pháp và các công ước quốc  
tế, việc tổ chức, khai thác văn hóa du lịch trong  
những không gian và thời gian xác định cần  
phải luôn bám/dựa vào truyền thống bản địa  
mới có thể thành công. “Đất có lề, quê có thói,  
khi tổ chức kinh doanh du lịch trên một địa bàn  
cụ thể, người kinh doanh phải nắm được và  
tôn trọng những giá trị văn hóa truyền thống  
của địa phương mang tính thông lệ. “Nhập gia  
tùy tục, cha ông ta luôn nhắc nhở như thế và  
những tập tục, thông lệ, lề thói bản địa cũng sẽ  
trở thành một trong những cơ sở pháp lý mềm  
của văn hóa du lịch.  
D.V.S  
Tài liệu tham khảo  
1. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 08-NQ/  
TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế  
thuong-mai/Nghi-quyet-so-08-NQ-TW-phat-  
trien-du-lich-tro-thanh-nganh-kinh-te-mui-  
nhon-2017-338542.aspx  
Tóm lại, cơ sở pháp lý của văn hóa du lịch  
chính là yêu cầu mang tính pháp chế cũng  
như những thông lệ quốc tế và truyền thống  
của địa phương trong kinh doanh du lịch mà  
mỗi cá nhân và tổ chức khi tham gia hoạt động  
du lịch phải chấp hành một cách vô điều kiện,  
không đặt ra những đòi hỏi tiên quyết. Tuy  
nhiên, việc chấp hành đúng đắn, đầy đủ luật  
pháp một cách tự nguyện, tự giác, có trách  
nhiệm, có văn hóa trong du lịch lại chính là  
biểu hiện của văn hóa du lịch.  
2. ICOMOS (1999), Công ước quốc tế về Du lịch  
văn hóa, Mexico.  
3. Luật Di sản văn hóa và nghị định hướng dẫn  
thi hành (2002), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.  
4. Luật Du lịch (2006), Nxb. Chính trị Quốc gia,  
Hà Nội.  
5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa  
Việt Nam (2017), Luật Du lịch, https://luatvietnam.  
vn/van-hoa/luat-du-lich-2017-115518-d1.html  
6. Dương Văn Sáu (2014), Hệ thống di tích Nho  
học Việt Nam và các Văn miếu tiêu biểu ở Bắc Bộ,  
Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.  
Kết luận  
Văn hóa du lịch là khoa học về du lịch. Đó là  
yêu cầu tất yếu khách quan trong kinh doanh  
du lịch, đồng thời trở thành nguồn lực mạnh  
mẽ của kinh tế du lịch ở Việt Nam. Không thể  
thiếu văn hóa du lịch trong hoạt động du lịch.  
Văn hóa du lịch tất yếu sẽ tự hình thành trong  
hoạt động du lịch. Tuy nhiên, văn hóa du lịch  
không thể tự nhiên có mà cần được xây dựng  
trên các cơ sở khoa học. Các cơ sở đó xuất phát  
từ thực tiễn, nghiên cứu thực tiễn và quay trở  
lại phục vụ thực tiễn hoạt động du lịch. Là  
khoa học về du lịch, trong du lịch, văn hóa du  
7. Dương Văn Sáu (2019), Giáo trình Văn hóa  
Du lịch, Nxb. Lao động, Hà Nội.  
8. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1999), Pháp  
lệnh số 11/1999/PL-UBTVQH10 ngày 08/02/1999  
du-lich-nam-1999-b016.html  
Ngày nhận bài: 03 - 6 - 2020  
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 6 - 2020  
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2020  
NGHIÊN CỨU  
Số 32 (Tháng 6 - 2020)  
85  
V
ĂN H Ó  
A
pdf 7 trang yennguyen 15/04/2022 1600
Bạn đang xem tài liệu "Cơ sở hình thành văn hóa du lịch ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfco_so_hinh_thanh_van_hoa_du_lich_o_viet_nam.pdf